Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

bài tiểu luận môn lịch sử hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.05 KB, 23 trang )


BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
------ oOo ------

TIỂU LUẬN MƠN
LỊCH SỬ HÀNH CHÍNH VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:

CÁC MƠ HÌNH NHÀ NƯỚC LƯỠNG ĐẦU TRONG
LỊCH SỬ HÀNH CHÍNH VIỆT NAM
Giảng Viên :
Họ và tên :
Lớp
:

Hà Nội, Ngày 24 Tháng 3 Năm 2019


MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU
B. PHẦN NỘI DUNG
I.
Khái lược lịch sử
II.
Đặc điểm chung của mơ hình nhà nước lưỡng đầu
1. Định nghĩa
2. Đặc điểm chung vủa mơ hình nhà nước lưỡng đầu

a, Tính bình đẳng


b, Tính cơng hợp
c, Tính nhị ngun
III.
Các mơ hình nhà nước lưỡng đầu trong lịch sử hành chính Việt Nam
1. Thời Hai Bà Trưng và thời Hậu Ngô Vương
a, Khái quát
2. Thời Trần- Hồ- Mạc
a, Khái quát
b, Biểu hiện trên bộ máy nhà nước
c, Sự phân định quyền hạn giữa 2 người đứng đầu nhà nước và các cơ quan
giúp việc
3. Thời Lê- Trịnh
a, Khái quát
b, Biểu hiện trên bộ máy nhà nước
c, Sự phân định quyền hạn giữa 2 người đứng đầu và các cơ quan giúp việc
IV.
Những hệ quả
C. KẾT LUẬN


A.PHẦN MỞ ĐẦU
Dịng chảy lịch sử Đại Việt ln diễn ra cuộc đấu tranh theo hai xu
hướng đó là cát cứ và thống nhất lãnh thổ. Thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ ln là ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Sau khi Đinh Bộ Lĩnh
thống nhất đất nước (968) cho tới tách Đàng Trong, Đàng Ngồi (1672),
thì các triều đại phong kiến nước ta ra sức củng cố bộ máy chính quyền,
thống nhất từ trung ương tới địa phương. Nhưng đến đầu thế kỷ XVI, khi
mà sự mục nát của nhà Lê đã xuống tới cực điểm và Mạc Đăng Dung
giành lấy ngơi vua vào năm 1527 thì đó cũng là sự mở đầu của một thời
kỳ hầu như nội chiến phân liệt triền miên giữa các tập đồn phong kiến,

tuy rằng có xen kẽ một số thời gian ngắn quốc gia được thống nhất tạm
thời. Từ năm 1599 đến 1786 là một thời kỳ có rất nhiều biến cố lịch sử
sôi động, phức tạp và thể chế nhà nước cũng có nhiều nét đặc thù. Chính
quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài tồn tại từ năm 1592 đến 1786 với 17 đời
vua song song với 12 đời chúa. Đây là mơ hình “lưỡng đầu ” điển hình
trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, điển hình về độ dài của thịi
gian tồn tại, điển hình cả về độ sâu của các yếu tố cấu thành của một thể
chế lưỡng đầu. Mơ hình “lưỡng đầu ” thời Lê - Trịnh là chính quyền của
hai dịng họ, hai thế lực phong kiến lớn, vừa phải dựa vào nhau để trị
nước quản dân vừa mâu thuẫn với nhau về quyền lực và quyền lợi.
Mơ hình “lưỡng đầu” là một loại hiện tượng lịch sử đặc biệt. Cơ chế
lưỡng phân của quyền lực tối cao này đã đưa lại những tác động to lớn,
phức tạp và lâu dài trong lịch sử Việt Nam. Nó đã được khơng ít nhà
nghiên cứu quan tâm và trình bày trong các cơng trình nghiên cứu của
mình.Dựa trên những nghiên cứu đó để phân tích rõ hơn về mơ hình nhà
nước lưỡng đầu. Chúng ta cần chỉ ra những đặc điểm của mơ hình dựa
trên sự phân tích mơ hình qua các thời kì của nó, chỉ ra điểm giống khác
nhau qua từng thời kì, giữa các thời kì mơ hình lưỡng đầu có những sự
cải thiện như thế nào.

B.NỘI DUNG


I. Khái lược lịch sử
Mơ hình lưỡng đầu chế xuất hiện rất sớm trong lịch sử nước ta, lần đầu
tiên vào năm 40 sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng với người đứng đầu nhà
nước là hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị. Trải qua thời Hậu Ngô Vương
(Ngô Xương Văn- Ngô Xương Ngập) tới thời Trần Hồ Mạc, rồi thời TrịnhNguyễn phân tranh thể chế nhà nước lưỡng đầu dần được hồn thiện và phát
triển. Trong q trình phát triển đó, thể chế lưỡng đầu dần được phát triển
với một quy mô tổ chức càng mở rộng và cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ.

Đây là một mơ hình nhà nước đặc sắc rất ít gặp trong lịch sử phong kiến
Phương Đông. Trong các nhà nước lưỡng đầu đã từng tồn tại trong lịch sử
nước ta, thể chế lưỡng đầu thời Trần, Hồ, Mạc và thể chế lưỡng đầu thời LêTrịnh ở đàng Ngoài là hai thể chế lưỡng đầu tiêu biểu nhất cho các nhà nước
lưỡng đầu đã từng tồn tại ở nước ta về về cả độ dài của thời gian tồn tại và
cả về độ sâu của các yếu tố cấu thành thể chế đó. Tuy nhiên do được hình
thành dựa trên những ngun nhân và điều kiện xã hội khác nhau nên về cấu
trúc và bản chất nhà nước có rất nhiều điểm khác biệt.
Ở mỗi góc độ nhìn nhận khác nhau ta lại có một cách định nghĩa khác về
thể chế nhà nước lưỡng đầu; tuy nhiên dưới góc độ lịch sử nhà nước và pháp
luật ta có thể hiểu:
- Thể chế nhà nước (thiết chế nhà nước) là toàn bộ cơ cấu xã hội do
pháp luật quy định.
- Thể chế lưỡng đầu là chế độ chính trị trong đó có hai người cùng
nắm quyền cai trị đất nước.
Tuy mơ hình nhà nước lưỡng đầu đã xuất hiện từ thời Hai Bà Trưng và
sau đó được một số người đứng đầu nhà nước áp dụng, nhưng trong đó điển
hình và mà mang những đặc điểm nổi bật nhất của mơ hình nhà nước này là
nhà nước lưỡng đầu thời Trần, Hồ Mạc và nhà nước lưỡng đầu Lê-Trịnh.

II.Đặc điểm chung của mô hình nhà nước lưỡng đầu
1,Định nghĩa:
- Thể chế lưỡng đầu (mơ hình nhà nước lưỡng đầu) (cịn gọi là thiết chế) là
toàn bộ cơ cấu xã hội do pháp luật quy định.Thể “lưỡng đầu chế” là một chế định


tiêu biểu và độc đáo trong lịch sử Việt Nam. Đó là thể chế mà ở đó tồn tại đồng
thời 2 thế lực có địa vị, quyền hạn ngang nhau. Nói như Lê Kim Ngân thì “lưỡng
đầu chế là một chế độ trong đó có hai nhân viên hoặc một nhân viên và một ủy ban
đứng đầu nền hành chính, trông coi việc cai trị trên cùng một lãnh thổ”.
2. Đặc điểm chung của mơ hình nhà nước lưỡng đầu

a, Tính bình đẳng:
Sự bình đẳng của hai vị vua ln ln là ngun tắc của hình thái nhà
nước lưỡng đầu. Nó thể hiện rõ hai người đứng đầu nhà nước có quyền
ngang nhau, ngơi thứ bằng nhau, khơng người nào nắm uy quyền, ngôi vị
cao hơn người nào. Ở nhà nước lưỡng đầu thời Lê- Trịnh sự bình đẳng trong
hình thái phân nhiệm, ngôi vị và quyền hành được phân làm hai khối lượng
tương đương, ngôi vị tối cao nhưng vô quyền do vua Lê ngự trị, nhưng ngôi
vị thứ yếu có thực quyền do chúa Trịnh nắm giữ
b, Tính công hợp:
Không một vị vua nào trong hai vị vua có thể quyết định mà khơng có sự
thỏa thuận của vị kia, một vị vua có thể hành động riêng nhưng chịu sự chi
phối bằng quyền phủ quyết của vị kia.
c, Tính nhị nguyên:
Ở thể chế nhà nước lưỡng đầu, sự phân chia về cơ bản chất quyền hành là
ngang nhau. Như vua Lê giữ ngôi vị tối cao nhưng mọi quyền lực lại khơng
nằm trong tay mình. Với chúa Trịnh ở vị trí thấp hơn, vị trí thứ yếu nhưng
thực quyền lại nằm trọn trong tay, thâu tóm mọi lĩnh vực trong đời sống như:
chính trị, kinh tế, quân đội…
III. Các mơ hình nhà nước lưỡng đầu trong lịch sử hành chinh Việt Nam
1.Thời Hai Bà Trưng và thời Hậu Ngô Vương (Ngô Xương Văn- Ngô Xương
Ngập)
a, Khái quát:
(Chị-em, anh-em cùng nắm quyền)
- Mơ hình lưỡng đầu chế xuất hiện rất sớm trong lịch sử nước ta, lần đầu
tiên vào năm 40. Mùa xuân năm ấy, hai chị em Trưng Trắc - Trưng Nhị khởi
nghĩa chống ách độ hộ của nhà Đơng Hán, chiếm giữ 65 thành, giải phóng
lãnh thổ quốc gia và thiết lập chính quyền tự chủ. Hai Bà Trưng cùng xưng


vương, cùng làm vua, ăn ở sinh hoạt cùng nơi và cùng nhau trị vì đất nước.

Vai trị, địa vị của họ trong cuộc khởi nghĩa và trong Chính phủ mới khá
bình đẳng. Tuy nhiên, theo một số sử liệu thì uy tín, quyền lực của Trưng
Trắc lớn hơn Trưng Nhị chút ít (có lẽ do Trưng Trắc là chị và là người đầu
tiên phát động khởi nghĩa). Chẳng hạn, sách Thuỷ kinh chú viết: “nghĩa quân
công phá châu quận, hàng phục được các Lạc tướng, họ đều suy tôn Trắc
làm vua”. Thể chế này tồn tại đến mùa xuân năm 43 - tận lúc Hai Bà Trưng
mất trong cuộc chiến sức với lực lượng của Viện không cân Mã. Hơn 9 thế
kỷ sau, mơ hình lưỡng đầu chế được tái lập dưới thời Ngô.
- Năm 944. Vua Ngô Quyền băng hà, em vợ là Dương Tam Kha nhân cơ hội
đó chiếm ngơi. Năm 951, dẹp xong Dương Tam Kha, hai con trai Ngô
Quyền cùng lên làm nguyên thủ. Người anh (Ngô Xương Ngập) xưng Thiên
Sách Vương, người em (Ngô Xương Văn) xưng Nam Tấn Vương. Họ đoàn
kết cùng nhau trị vì đất nước. Năm 954, Ngơ Xương Ngập mất, Ngơ Xương
Văn một mình ở ngơi nên thế lực yếu dần, phải nhận sắc phong làm Tĩnh
Hải quân Tiết độ sứ kiêm Đô hộ của nhà Nam Hán, đồng thời bị các cuộc
nổi loạn ở khắp nơi trong nước uy hiếp... Năm 965, Ngô Xương Văn tử
thương và cơ đồ triều Ngơ chấm dứt đó. Hai mơ hình lưỡng đầu chế trên
được thiết lập chủ yếu do tình huynh đệ và do điều kiện lịch sử khách quan
(Trưng Trắc-Trưng Nhị cũng phát động, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa; Ngô
Xương Ngập - Ngô Xương Văn cùng hợp sức lấy lại vương nghiệp của vua
cha... Khi mọi sự thành công, họ cùng bình đẳng hưởng kết quả là hồn tồn
xứng đáng, hợp lý). Tuy nhiên, hai mơ hình này đều tồn tại trong thời gian
ngắn ngủi (chừng 3 năm) và chưa phải là một loại thể chế ổn định.
2.Thời nhà Trần- Hồ- Mạc
*Cơ sở hình thành;
- Thể chế lưỡng đầu thời Trần, Hồ, Mạc được hình thành trên cơ sở sự tự
nguyện của vua cha sớm truyền ngôi cho con nhằm mục đích duy trì sự
ổn định của đất nước: theo "Đại Việt sử ký toàn thư", các vua Trần khi
"con đã lớn thì cho nối ngơi chính, cịn cha lui về cung Thánh Từ, xưng
là thượng hồng, cùng trơng coi chính sự”. Sự tự nguyện này chỉ là một

truyền thống, một tập qn chính trị được duy trì nhờ nó đã phát huy hiệu


quả trong hồn cảnh lịch sử lúc đó. Tuy nhiên, vì chỉ là một tập qn nên
nó có thể bị thay đổi và bị loại bỏ. Thời gian ở ngôi Hoàng đế của mỗi vị
vua trước khi làm Thượng hoàng khơng cố định và có khi ngắn hơn thời
gian làm Thượng hồng. Đơi khi có giai đoạn thể chế lưỡng đầu bị cách
qng do khơng có Thượng hồng mà chỉ có 1 người đứng đầu duy nhất
là vua. Riêng thời Mạc chỉ có vị vua đầu tiên là sớm nhường ngơi cho
con để hình thành thể chế lưỡng đầu, các vị vua sau của nhà Mạc đã bỏ
không theo tập quán này.
a, Khái quát:
(Cha-con cùng làm vua)
- Giữa thế kỷ XIII, một mơ hình lưỡng đầu chế mới lạ - hầu như chưa từng
xuất hiện trong lịch sử các nước, nhất là Trung Hoa (vốn được coi là chế độ
kiểu mẫu phương Đông thời bấy giờ) - được thiết lập ở nước ta, tồn tại vững
chắc và kéo dài một thế kỷ rưỡi (1258-1407). Đó là mơ hình thượng hồng,
hồng đế: hai cha con cùng làm nguyên thủ. Hoàng đế (con) là nguyên thủ
thực sự, đứng đầu quốc gia, mang danh nghĩa thiên tử, cịn thượng hồng
(cha) là ngun thủ cố vẫn tối cao, có thực quyền (cả về chính trị lẫn về
huyết thống) đối với hoàng đế. Vị vua khai nghiệp nhà Trần (Trần Thái
Tông) sau 33 năm ở ngơi hồng đế thì truyền ngơi cho con (Thái tử Trần
Hoảng) rồi lên làm thượng hoàng. Những vị vua tiếp sau đều theo lệ ấy - cứ
làm hoàng đế một thời gian rồi truyền lại ngôi cho thái tử, trở thành thượng
hồng. Dù các vua lúc lên ngơi đã trưởng thành hay cịn ít tuổi (vua Minh
Tơng lên ngơi lúc 15 tuổi, Hiếu Tông -10 tuổi, Dụ Tông -6 tuổi, Thuận Tơng
-11 tuổị..) thì đều có vua chú, vua anh giúp đỡ,việc điều hành quốc gia.
Hoàng đế càng nhỏ tuổi, ốm yếu, kém tài.. thì vai trị của thượng hồng càng
quan trọng. Theo "Đại Việt sử ký toàn thư", các vua Trần khi "con đã lớn thì
cho nối ngơi chính, còn cha lui về cung Thánh Từ, xưng là thượng hồng,

cùng trộng coi chính sự. Thực ra, truyền ngơi chỉ để yên việc sau, phòng lúc
vội vàng, chứ mọi chuyện đều do thượng hồng quyết định. Vua kế vị khơng
khác gì hồng thái tử cả". Tổng cộng thời gian các vua Trần trị vì mà bên
trên cịn thượng hồng và thái thượng hoàng là 102 năm (thái thượng hoàng
là cha của thượng hồng, trước đó đã nhường ngơi cho thượng hoàng).


Thượng hồng và hồng đế tuy có danh xưng, vai trò, địa vị, quan hệ... khác
nhau nhưng cùng là nguyên thủ, cùng trị vì quốc gia nên trong sử sách,
nhiều khi học được gọi chung là hai vua. Chẳng hạn, ca ngợi thượng hồng
Trần Thánh Tơng và hồng đế Trần Nhân Tông qua chiến thắng quân xâm
lược Mông Nguyên (1285-1288), trong "Bạch Đằng giang phú", tác giả
Trương Hán Siêu viết; Hai vua thánh chừ anh minh Đem nước sông chừ rửa
giáp binh Bụi Hồ không dám động chừ ngàn năm thanh bình... Cịn trong
"Đại việt sử ký tồn thư", Ngơ Sỹ Liên cùng các sứ thần triều Hậu Lê cũng
dùng từ hai vua khi viết về Hội nghị Diên Hồng tháng chạp năm Giáp Than
1284 ("Giặc Hồ vào cướp là nạn lớn của đất nước. Hai vua hiệp mưu, bầy tôi
họp bàn...") và về việc duyệt quân chuẩn bị đi đánh Chiêm Thành tháng
mười năm Bính Thìn 1376 (".. đại duyệt quân thuỷ bộ ở bãi cát sống Bách
Hạc, hai vua đích thân làm tướng"). Việc thiết lập mơ hình thượng hoàng hoàng đế là một kỹ thuật cai trị khơn khéo, cẩn thận của các vua Trần, vì thái
tử cần có một thời gian làm quen, tập dượt việc triều chính; trong lúc đó
thượng hồng vẫn giữ vai trị lãnh dạo tối cao, quyết định mọi chuyện trọng
đại. Cách tập dượt này toàn diện hơn so với ở các triều Ngơ, đinh, Tiền Lê,
Lý trước đó (chỉ cho thái tử thay vua cha làm quen với một số công việc như
cầm quân đi diệt giặc, tổ chức đón tiếp sứ thần nước ngoài, giải quyết án
kiện...) Mặt khác, truyền ngơi khi vua cha cịn sống đảm bảo sự ổn định,
suôn sẻ của việc nối ngôi, tránh những rắc rối từng thường xuyên gặp như
chuyện các hoàng tử tranh giành ngôi (đẫm máu nhất là những cuộc tranh
giành ngôi của các con vua Lê Đại Hành năm 1005, của các con vua Lý Thái
Tổ năm 1028 - sau khi cha họ đột ngột băng hà) hoặc ngôi vua bị chiếm bởi

người ngoại tộc (ngôi vua Ngô bị Dương Tam Kha chiếm năm 944 sau khi
Ngô Quyền băng hà, ngôi vua Đinh mất vào tay Lê Hoàn năm 980 sau khi
Đinh Tiên Hoàng băng hà...). Chế độ thượng hoàng - hoàng đế vừa giống
các chế độ phụ chính, nhiếp chính vốn khá phổ biến trong lịch sử (nếu vua
còn nhỏ hoặc năng lực kém thì có một vài quan đại thần làm cố vấn, giúp
vua trị vì), lại vừa khác hẳn ở chỗ quan hệ huyết thống chặt chẽ (cha-con) và
vị cố vấn vấn có quyền quyết định tối cao (đối với cả vua lẫn quốc gia), trực
tiếp tham gia điều hành bộ máy Nhà nước, đảm bảo sự kế thừa liên tục và
vững chắc, ngăn chặn những hiện tượng suy thối hoặc biến loạn gây bất ổn
định chính trị. Mơ hình thượng hồng - hồng đế của nhà Trần cịn lặp lại ở
các triều đại sau đó.


- Đoạt được ngôi nhà Trần (năm 1400), Hồ Quý Ly làm vua 1 năm rồi
nhường ngôi cho con (Hồ Hán Thương), lên làm thượng hoàng đến tận lúc
nhà Hồ bị diệt (năm 1407).
- Mạc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Hậu Lê năm 1527, làm vua 3 năm rồi
nhường ngôi cho Mạc Đăng Doanh, lên làm thượng hoàng, cùng con trị vì
đất nước (1530-1541). Thời Lê Mạc (Lê-Trịnh), Lê Thần Tơng cũng làm
thượng hồng (1643-1649) bên cạnh vị vua con là Lê Chân Tơng, nhưng mơ
hình lưỡng đầu chế thời kỳ này đã biến đổi sang một hình thức đặc biệt
khác: vua Lê - chúa Trịnh.
b, Biểu hiện trên bộ máy nhà nước:
Thể chế lưỡng đầu thời Trần, Hồ, Mạc chỉ được thể hiện qua hai cá nhân
đứng đầu nhà nước là Thượng hồng và Vua. Qua cơng việc hoạt động của 2
người đứng đầu mà thể chế lưỡng đầu được xác lập. Tuy nhiên chỉ có một cơ
cấu tổ chức quan lại duy nhất từ trung ương đến địa phương. Tất cả các cơ
quan này cùng giúp việc cho cả Thượng hoàng và Hoàng đế.
c, Sự phân định quyền hạn giữa hai người đứng đầu nhà nước và các cơ
quan giúp việc có liên quan:

-Sự tập trung quyền hạn cao độ vào tay một người:
Trong thời kỳ Trần, Hồ, Mạc: địa vị của hai vua được xem là ngang
nhau, giữa hai vua khơng có quy định pháp luật bắt buộc phải tuân thủ mệnh
lệnh của nhau. Tuy nhiên, vua con thường nghe theo hướng dẫn của vua cha
giống như một người con chịu sự giáo dục của người cha. Mặt khác, cũng
khơng có sự phân định quyền hạn riêng rẽ giữa Thượng hồng và Vua. Cả
hai vua đều có quyền lực trên mọi lĩnh vực của đất nước, tuy nhiên vua
thường không ra mệnh lệnh trái với lệnh của Thượng hoàng và ngược lại.
- Sự phân định về quyền hạn giữa các cơ quan giúp việc cho hai người
đứng đầu:
Triều đình Trần, Hồ, Mạc hầu như chưa có cơ quan chuyên trách cụ thể
trong nhiệm vụ giúp việc cho từng người đứng đầu. Người đang chịu sự sai
khiến của vua con có thể được vua cha sai khiến.
- Các chức quan và các cơ quan:
Các triều đại Trần, Hồ, Mạc thường chỉ có hai ban là văn ban và võ ban,
đến thời này, do chúa Trịnh tin dùng các hoạn quan, nên lập thêm giám ban,


và gọi những người này là tín thần. Cách tổ chức quan lại dưới thời Trần,
Hồ, Mạc còn khá đơn giản và số lượng chức quan cịn ít.
3.

Thời Lê- Trịnh
* Cơ sở hình thành
Thể chế lưỡng đầu Lê-Trịnh đã từng bước được luật pháp hoá để trở thành
cơ sở pháp lý vững chắc cho sự tồn tại lâu dài và liên tục của nó. Chúa Trịnh
là người nắm quyền thực sự trong tay và quyền này được chính thức thừa
nhận trong các văn bản của vua Lê, khởi đầu là Sách văn phong với nội dung
Vua Lê uỷ quyền chính thức cho Chúa Trịnh trong việc cái quản đất nước.
Ngoài ra điều này luôn được nhắc đến trong các chiếu lên ngơi của các vua

Lê. Ở đó khơng chỉ nói tới đức độ của các tiên đế mà còn ca ngợi nghiệp
trung hưng xã tắc của các tiên vương họ Trịnh, để rồi kết luận: việc trị quốc
an dân vua hồn tồn nhờ cậy Trịnh vương trơng coi.
a, Khái qt:
(Vua-chúa cùng làm ngun thủ)
Trong tất cả các mơ hình lưỡng đầu chế kể trên, hai vị nguyên thủ đều có
quan hệ huyết thống với nhau, chung mục đích và chung sự nghiệp, do đó
hình thức là "lưỡng đầu" nhưng thực ra bản chất chế độ là một. Khác hoàn
toàn với nó là mơ hình vua Lê - chúa Trịnh, tồn tại suốt 240 năm (15461786) với nhiều biểu hiện, nhiều diễn biến phức tạp. Năm 1527, Mặc Đăng
Dung đoạt ngôi vua Lê. Quan đại thần nhà Lê là Nguyễn Kim chạy sang
Lào, tôn Lê Duy Ninh lên ngôi vua (năm 1532), lãnh đạo lực lượng chống
lại nhà Mạc. Năm 1545, Nguyễn Kim mất, quyền lực rơi vào tay con rể là
Trịnh Kiểm. Năm 1546, Trịnh Kiểm cho tổ chức lại triều đình, chuyển về
đóng đơ ở Vạn Lại (Thộ Xn- Thanh Hoá) mượn danh nghĩa "phù Lê diệt
Mạc" để thâu tóm mọi quyền bính, biến vua Lê thành bù nhìn, mở đầu thời
kỳ "vua Lê chúa Trịnh". Từ sau khi đánh bại nhà Mạc (năm 1592), quyền lực
của họ Trịnh ngày càng được mở rộng. Năm 1599, Trịnh Tùng tự xưng là Đơ
Ngun sối Tổng quốc chính và ép vua Lê phong vương cho mình. Lê Thế
Tơn phong cho Trịnh Tùng làm Bình An Vương cùng những đồ vật tượng
trưng uy quyền tối cao như chén ngọc, cờ lông,búa vàng. Trịnh Tùng lập phủ


chúa, tự ý tuyển dụng quan lại, điều hành chính sự, chức vương cha truyền
con nối. Chúa Trịnh là vị nguyên thủ thực sự, trực tiếp lãnh đạo bộ máy Nhà
nước, nắm giữa quân đội, quyết định các chính sách kinh tế - văn hoá- xã
hội... Họ tộc Trịnh được hưởng mọi đặc quyền hoàng gia. Con trai cả chúa
Trịnh được lập làm thế tử, được phong làm Quốc công Tiết chế, đến tuổi
trưởng thành thì mở phủ riêng, chủ huy quân đội, giúp cha trị vì. Vua Lê là
vụ nguyên thủ tối cao trên danh nghĩa. Quyền hạn của vua chỉ cịn duy trì
trong một số nghi thức thiết triều và đón tiếp sứ thần nước ngồi. Vua được

cấp 5.000 quân túc vệ để phục dịch trong cung điện, 7 thớt voi và 20 chiếc
thuyền rồng, được thu thuế 1.000 xã để tiêu dùng. Triều định vua lê phải đặt
dưới quyền điều khiển của phủ chúa Trịnh và chỉ có một nhóm binh lính
canh giữ, một số quan văn võ vô quyền thỉnh thoảng vào chầu nhằm giữ lấy
thể thống đế vương hình thức. Cạnh phủ chúa, triều dịnh chỉ như một cái
bóng, thực chất chỉ là nơi giam lỏng vua Lê. Sự hình thức, phụ thuộc của
vua lê thể hiện rõ nhất ở việc tính mạng, địa vị vua hoàn toàn bị chúa Trịnh
khống chế, vua ngày càng bị vơ hiệu hố. Trong 16 vua dưới thời Lê Mạc thì
3 vua bị họ Trịnh giết hại và 5 vua là trẻ em dưới 12 tuổi (phần lớn là do
chúa Trịnh nuôi nấng, rèn từ bé trong phủ rồi dựng lên làm vua). Năm 1718,
Trịnh Cương thiết lập 6 phiên (Lễ, Lại, Hộ, Cơng, Hình, Binh) ở phủ chúa
để rút hầu hết quyền hành của 6 bộ tương ứng (vốn coi là trực thuộc vua Lê
bên triều đình. Ngay cả một số nghi thức tối cao dành riêng cho vua Lê cũng
dần bị chúa Trịnh xâm phạm và huỷ bỏ. Dịp lễ Tết, sinh nhật vua.., chúa
thường không trực tiếp đến chúc mừng mà sai con mình đi thay. Trước kia,
hàng tháng vào ngày sóc vọng, chúa và các quan phải vào chầu vua ở điện
Vạn thọ, nhưng về sau chúa dần bỏ lệ ấy. Từ đời Trịnh Tạc (1657-1687), các
chúa vào triều yết không quỳ lạy, không xưng tên và tự tiện ngồi ngay bên
trái ngự toạ, ngang hàng với vua!... Trong mơ hình lưỡng đầu thế này, sở dĩ
thực quyền nguyên thủ nghiêng hẳn về phía chúa Trịnh là do họ Trịnh tiếp
nối sự nghiệp Nguyễn Kim nắm trọn quyền lực trong tay, tự mình quyết định
và hành động; con nhà Lê thì đã quá suy yếu, phải chịu thế phụ thuộc và
thực tế được họ Trịnh dựng lại chỉ để làm bù nhìn mà thơi. Tuy nhiên,
ngun nhân thiết lập và duy trì mơ hình này lại khá tế nhị. Thực ra, chúa
Trịnh cũng đã có nhiều lần có ý định cướp ngơi vua nhưng khơng dám thực
hiện. Năm 1556, vua Lê Trung Tông băng hà mà khơng có con nối dõi,
Trịnh Kiểm mật bàn với những người thân tín việc tự xưng làm vua. Trong


lúc lưỡng lự, Trịnh Kiểm đã sai thuộc hạ tới hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm

- một người rất am hiểu thời cuộc và có những nhận định, tiên đốn sáng
suốt. Tương truyền, Nguyễn Bỉnh Khiêm gián tiếp trả lời bằng cách bảo
người nhà :"Năm nay mất mùa, thóc giống khơng tốt, chúng mày nên tìm
giống cũ mà gieo mạ!" và răn chú tiểu dọn chùa :"Giữ chùa thờ Phật thì ăn
oản!". Ý Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn khuyên Trịnh Kiểm nên tìm con cháu
nhà Lê dựng lên làm vua để có danh nghĩa thu phục lịng người... Các chúa
Trịnh kế tiếp cũng không dám phế bỏ nhà Lê, bởi theo kinh nghiệm lịch sử
và trong hoàn cảnh thực tế đương thời, hành động đoạt ngơi vua sẽ khơng có
lợi cho vai trò thống trị của họ Trịnh. Họ Trịnh vốn chưa có cơ sở xã hội
vững chắc, khơng được tồn dân ủng hộ, lại đang phải đối đầu với kẻ thù
hùng mạnh ở cả phía Băc (nhà Mạc) lẫn phía Nam (họ Nguyễn ). Trong điều
kiện ấy, họ Trịnh phải chấp nhận duy trì ngơi vua Lê, mang danh nghĩa nhà
Lê - một vương triều thiết lập trên nền tảng chiến thắng oanh liệt chống
ngoại xâm và ít nhiều cịn uy tín đối với nhân dân - để trấn áp các lực lượng
đối lập, chiêu dụ dân chúng, (thể hiện rất rõ với việc chúa Trịnh thường cho
vua Lê cùng đi vận động thần dân hoặc đi đánh chúa Nguyễn ở phía Nam).
Nắm giữ thực quyền cao nhất nhưng lị khơng lên làm vua là giải pháp chính
trị tối ưu cho chúa Trịnh. Điều này lý giải tại sao mô hình lưỡng đầu chế
"vua Lê chúa Trịnh" kỳ dị bậc nhất trong lịch sử lại tồn tại dai dẳng tới 250
năm - đến tận lúc họ Trịnh bị quân Tây Sơn diệt (tháng 7-1786)
b, Biểu hiện trên bộ máy nhà nước:
- Thể chế lưỡng đầu Lê-Trịnh không chỉ thể hiện giữa Vua và chúa mà còn
được thể hiện ở các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Bắt đầu từ năm 1599, chúa
Trịnh Tùng cho lập phủ chúa và các chức quan giúp việc trong phủ. Dần dần các
cơ quan giúp việc ở phủ chúa được mở rộng, từ Tam Phiên lên thành Lục Phiên,
mỗi Phiên có chức năng và nhiệm vụ tương tự với từng Bộ trong Lục Bộ của triều
đình. Như vậy nếu như trước đây các cơng việc của Bộ nào chỉ do Bộ đó quản lý,
đến thời kỳ này được chia ra cho cả Bộ và Phiên tương ứng cùng phụ trách. Đến
năm 1751, chúa Trịnh Doanh buộc vua Lê Hiển Tông ban hành sắc dụ Hiệu đính
quan chế. Đến lúc này sự tồn tại của Lục Phiên, với tư cách một cơ quan hoạt động

song song với Lục Bộ, đã được chính thức thừa nhận trong một văn bản có tính
pháp lý cao nhất của nhà vua.


c, Sự phân định quyền hạn giữa hai người đứng đầu nhà nước và các cơ quan giúp
việc có liên quan:
- Sự tập trung quyền hạn vào tay một người:
Sự phân định quyền hạn giữa vua Lê và Chúa Trịnh trở thành một đặc điểm quan
trọng và chi phối tất cả các đặc điểm khác của thể chế lưỡng đầu này Đặc điểm này
được thể hiện rất rõ qua vai trò, địa vị, quyền lực của vua và chúa, của Lục Bộ và
Lục Phiên như sau:
Trên danh nghĩa pháp lý, chỉ có vua Lê mới được coi là vị vua độc tơn duy nhất
trên tồn cõi Đại Việt và chỉ có vua Lê mới có niên hiệu, cịn Trịnh vương chỉ là
bầy tôi nhưng là bầy tôi vượt trên tất cả các bầy tôi khác. Quyền lực của chúa
tuy được coi là phái sinh từ đế quyền của vua song thực tế lại lấn át hết cả quyền
của vua, bao trùm lên hầu hết mọi lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp, tài chính
thuế khố, qn sự…
+ Về lập pháp: không chỉ vua Lê mà cả chúa Trịnh cũng có quyền lập
pháp.Trên danh nghĩa vua ban hành các văn bản có tính chất chung chung, cịn
chúa ban hành các văn bản mang tính tính ứng dụng nêu rõ những trường hợp, đối
tượng và công việc áp dụng. Tuy nhiên sự phân định này cũng không rõ ràng, trên
thực tế hầu hết các dụ, sắc dụ, hay chỉ, chiếu do vua ban hành đều do phủ chúa
chuẩn bị và đưa sang; hoặc những việc xét bên điện vua đều phải chuyển sang phủ
chúa để chúa cùng xét. Giáo sĩ người Pháp Marini khi kể lại những điều tai nghe
mắt thấy của ơng ta ở Đàng ngồi, đã viết: "Chúa ít sang chầu vua, có khi một
tháng khơng chầu được một lần, nên vua Lê uỷ các quan triều sang phủ chúa để
trình chúa những việc đã xét bên điện vua, và để chúa cùng quyết định…"
+ Trong lĩnh vực hành pháp, vua Lê nắm quyền tuyển bổ, thăng, giáng, ban
phẩm hàm cho các chức quan từ tam phẩm trở lên; những chức từ tứ phẩm trở
xuống do chúa định đoạt. Về nghi thức, nhà vua là người ra sắc dụ hay chiếu chỉ

phê chuẩn tất cả các quyết định, kể cả quyết định của chúa Trịnh. Nhưng trong
thực tế, với chức Tổng quốc chính do vua Lê phong, chúa Trịnh tự mình tuyển bổ,
thăng giáng, ra lệnh cho các quan mà không thông qua nhà vua. Ngay cả với các
chức quan cao cấp thuộc quyền tuyển bổ, thăng giáng của nhà vua cũng khơng nằm
ngồi vịng cương toả của chúa Trịnh. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục
chép: năm 1664 đặt đủ chức Thượng thư trong Lục Bộ thì hai quan Tham tụng và


Bồi tụng bên phủ chúa nắm giữ hai chức Thượng thư của Bộ Lại và Bộ Hộ. Như
vậy có thể thấy việc bổ nhiệm hai chức quan Thượng thư này (thuộc quyền của
vua) vào hai Bộ có chức năng và quyền hạn lớn nhất chịu ảnh hưởng khá lớn từ
phủ chúa.
+ Về tư pháp: Các vụ án đã được xét xử ở địa phương nhưng cịn chống án thì
Ngự sử đài của triều đình xét phúc thẩm. Nếu đương sự cịn thấy oan ức thì có thể
kêu sang phủ chúa – là cấp chung thẩm. Như vậy, về tư pháp, chúa Trịnh mới thực
sự có quyền tài phán cao nhất, vua Lê chỉ có chức năng ban bố lệnh đại xá, đặc xá.
+ Trong lĩnh vực quân sự: Với chức Đại ngun sối, chúa Trịnh được vua Lê
chính thức cơng nhận là người đứng đầu quân đội, là tổng chỉ huy quân đội, nắm
toàn quyền về việc điều động tướng sĩ, ấn định chính sách quốc phịng. Hầu hết
những mệnh lệnh liên quan đến cơng việc quốc phịng do Chỉ dụ của chúa ban
hành. Chẳng hạn như Chỉ dụ nuôi nấng quân sĩ ban hành năm 1662, Chỉ dụ về việc
thải lính ban hành năm 1666. Vua Lê chỉ đóng vai trò chủ toạ nghi lễ cho thêm
phần trang trọng nhằm động viên tinh thần quân sĩ khi xuất trận hoặc phong tước
cho các tướng tá.
+ Về tài chính – thuế khoá: chúa Trịnh ngày càng nắm trọn quyền về tài
chính, thuế khố, vua Lê khơng cịn chút quyền gì về phương diện này. Thậm chí
chi tiêu của triều đình cịn bị Phủ liêu kiểm sốt. Chúa quy định cho vua Lê chỉ có
5000 quân túc vệ, 20 chiếc thuyền rồng, 7 thớt voi và được hưởng thuế của 1000
xã. Qua đây ta có thể thấy phạm vi quyền hạn của vua bị thu hẹp lại đến mức nào.
Đâu còn là người đứng đầu thiên hạ với uy quyền tối cao: dưới gầm trời này đâu

cũng là đất của vua, ai ai cũng là thần dân của vua; vậy mà thực tế chỉ nắm trong
tay có 1000 xã. Vương quyền của chúa đã lấn át hết cả đế quyền của vua.
Tuy nhiên chúa Trịnh vẫn để vua nắm một số quyền mang nặng tính nghi lễ và
khơng ảnh hưởng đến thực quyền của chúa như:
+ Về ngoại giao, chỉ vua Lê mới có quyền tiếp sứ giả nước ngồi và đứng tên
trong các văn thư ngoại giao. Và thực tế quyền hạn của vua cũng chỉ bó gọn trong
mấy cơng việc mang tính nghi lễ, hình thức như vậy. Thực tế, chúa Trịnh mới là
người quyết định chính sách ngoại giao và cử sứ thần ra nước ngoài.


+ Trong lĩnh vực thần quyền: Vua Lê vẫn được coi là người đứng đầu bách
thần trong cả nước, có toàn quyền phong sắc cho thần thánh, và là người duy nhất
đứng ra làm chủ lễ tế đàn Nam Giao cáo tế trời đất cầu cho quốc thái dân an. Về
phương diện này, chúa không can thiệp nhiều vào vai trị của vua, vì đây là lĩnh
vực nhạy cảm trong đời sống tâm linh của quốc gia. Mặt khác nó không làm suy
giảm quyền của chúa trong thực tế trị nước.
Qua đó, ta có thể thấy rằng chúa Trịnh nắm hầu hết quyền hành cai trị đất nước,
còn vua Lê chỉ tồn tại trên danh nghĩa, rất ít quyền lực. Địa vị, chức, tước và quyền
lực của chúa cũng được cha truyền con nối như sự thế tập ngôi báu hư vị của vua.
Nó đã trở thành tập qn chính trị bền vững trong thời đó và ảnh hưởng lớn đến
toàn bộ cơ cấu, thẩm quyền và mối quan hệ của các cơ quan phụ tá cho vua ở triều
đình. Phan Huy Chú đã nhận xét: “Nhà Lê từ thời trung hưng về sau, chúa Trịnh
chuyên giữ chính sự, quyền hành về hết phủ chúa, nhà vua chỉ mang hư danh ở
trên, gọi là cịn phận vị chỉ có khác ở màu áo mặc và nghi vệ mà thôi.”
- Sự phân định về quyền hạn giữa các cơ quan giúp việc cho hai người đứng đầu:
Thời Lê-Trịnh, các cơ quan triều đình được tổ chức về cơ bản giống như thời
Lê sơ. Cịn các cơ quan bên phủ chúa có chức năng, quyền hạn gần giống với các
cơ quan bên triều đình: Ngũ phủ Phủ Liêu, Lục Phiên….Ngũ phủ và Phủ Liêu (hay
phủ Chúa) gồm những chức khơng có phẩm tước định sẵn, do chúa chọn những
người thân tín nhất, có quyền hạn cao nhất giúp chúa cai trị đất nước và đặt dưới

sự điều khiển trực tiếp của Chúa. Quyền hạn của Ngũ phủ Phủ liêu thao túng toàn
bộ quyền hạn của triều đình: Uốn nắn lịng vua, bàn phép trị dân, lựa chọn quan lại,
thẩm xét…Lục Bộ và Lục Phiên là cơ quan cơ bản của triều đình và của Phủ chúa.
Chúng thể hiện rõ nhất sự phân định cơ cấu quyền hạn giữa hai bên. Hầu hết chức
năng và nhiệm vụ của từng Bộ dần dần được chuyển giao sang Phiên tương ứng
bên phủ chúa. Các vấn đề của đất nước được thực tế giải quyết tại Phủ chúa, đây
có thể coi là triều đình thứ hai do chúa đứng đầu. Khâm định Việt sử Thông giám
Cương mục viết:“Chính quyền trong nước về hết Lục Phiên, cịn Lục Bộ, Lục tự
chỉ đặt cho đủ vị mà thôi.”
Đa số các Phiên nắm quyền trên phạm vi cả nước, các Bộ của vua chỉ có tác
động trong phạm vi triều đình và tới các quan lại chịu đặc ân của vua mà thôi. Tuy
nhiên, riêng Bộ Lễ và Bộ Hình, nhà Chúa vẫn để cho giữ một số nhiệm vụ có tính


biểu trưng cho quyền uy của vua nhằm phô trương đế quyền để che mắt thần dân
và ngoại quốc. Bộ Lễ vẫn chủ trì các buổi lễ nghi, tế tự trong triều đình và trên cả
nước. Bộ Hình được chúa dùng để nhân danh nhà vua ban bố luật pháp về lĩnh vực
hình sự nhằm khiến cho dân chúng phục tùng.
Lục Bộ đã vậy, các chức quan còn lại trong triều đình cũng khơng khác gì. Các
quan đứng đầu Lục Phiên đồng thời cũng là người nắm quyền cao nhất ở Lục Bộ.
Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục chép: cơng việc then chốt trong triều
đình đều về tay gia thần ở Lục Phiên, mà danh vị quan ở triều đình thường dùng
những viên quan trong Phủ liêu để kiêm lãnh, cịn chức quan đều đặt có ngạch
sng cho đủ vị mà thôi. Đến như Thượng thư, Thị lang nếu khơng theo về bên
phủ chúa thì chỉ là các danh vị hão thì huống gì các chức quan khác, đều là chức
quan nhàn tản, không giữ công việc theo với chức phận.
Ở chính quyền địa phương, trên danh nghĩa, phụ thuộc vào cả vua và chúa
nhưng thực tế, do chúa có quyền tuyển bổ, thăng giáng quan lại từ tứ phẩm trở
xuống nên các quan và chính quyền địa phương hầu như chỉ chịu sự sai khiến của
chúa.

Nhờ có sự phân định quyền hạn rõ ràng mà các cơ quan trong bộ máy nhà nước
ở cả triều đình và phủ chúa có sự phối hợp hoạt động chặt chẽ, đảm bảo hồn tất
cơng việc một cách hiệu quả. Lịch triều tạp kỷ chép: "...trong khoảng 1680 đến
1729, nhất là dưới thời hai chúa Trịnh Tùng và Trịnh Cương, kỷ cương được chấn
hưng, thưởng phạt thì nghiêm túc mà cơng minh, trăm quan kính giữ phép tắc chế
độ, nhân dân được yên nghiệp làm ăn." Đây chính là nguyên nhân khiến cho chế
độ lưỡng đầu Lê-Trịnh tồn tại được trong suốt gần hai thế kỷ trong lịch sử.Có thể
nói quyền lực của chúa Trịnh là rất lớn, đối với nhà Lê thì chúa khơng lấy nước mà
như lấy nước, khơng làm vua mà lại hơn vua.
- Các chức quan và các cơ quan:
Thời Lê-Trịnh, tổ chức bộ máy quan lại đã phát triển cực kỳ đồ sộ. Ngoài những
chức quan theo hệ thống phẩm hàm thơng thường, chúa Trịnh cịn đặt thêm nhiều
chức quan mới mà chỉ có bên phủ chúa như: Tham tụng, Bồi tụng, Chưởng phủ sự,
Thự phủ sự…Khơng chỉ có các chức quan, các cơ quan mới chỉ có bên phủ chúa
cũng lần đầu tiên xuất hiện như: Ngũ phủ, Phủ liêu, Lục Phiên…


III. Những hệ quả:
-Trước hết, cơ chế này đã làm phức tạp hố, và vì thế làm dai dẳng thêm cuộc nội
chiến Lê –Mạc. Ở đây khơng bàn về tính chính đáng của vương triều Mạc, mà chỉ
đơn giản trình bày một nhận thức rằng nếu triều đình Lê Trung Hưng - như các
triều đại lớn trong lịch sử Trung Quốc (chẳng hạn các triều đại Hán, Đường, và cả
Tống, Minh nữa) từng phải trải qua những lần trùng hưng,vẫn là thế - được phát
động và duy trì bởi một nhóm chứ khơng phải một người đóng vai trị then chốt
quá lâu (dẫn đến sự lộng quyền, rồi đến những âm mưu phế lập, cao hơn nữa, là
tham vọng thay thế), thì sự lớn lên nhanh chóng của cái triều đình kháng chiến này
là điều có thể dễ dàng hình dung được. Cần chỉ rõ rằng, suốt trong mấy thập kỷ nội
chiến Lê - Mạc (nội chiến Nam - Bắc triều) tính chính đáng của quyền lực tối cao ở
cả hai phía đều liên tục gây nên sự phân tâm, phân thân của rất nhiều “yếu
nhân”.Lê Bá Ly, Nguyễn Thiến, Nguyễn Khải Khang…, hàng loạt trọng thần, thậm

chí tể thần, trạng nguyên của nhà Mạc đã dễ dàng, vì những ngun cớ trực tiếp có
khi dường như khơng đâu, quy hàng Lê - Trịnh. Nhưng theo chiều ngược lại,
khơng ít những “nhân vật cộm cán” từ phía Lê - Trịnh cũng đã quy thuận và được
nhà Mạc trọng dụng thực lịng. Điển hình nhất trong số này chính là trường hợp
Trịnh Cối, anh ruột Trịnh Tùng. Bị chính em ruột mình (Trịnh Tùng) bức hại bởi
mục tiêu cướp binh quyền liền ngay sau cái chết của Trịnh Kiểm, Trịnh Cối “khơng
cịn đường nào khác” bèn mang theo cả qn, tướng bản bộ, cả mẹ, cả vợ con đầu
hàng nhà Mạc. Và nhà Mạc đã “thành thực” dùng Trịnh Cối trong bộ máy của
mình. Khi Trịnh Cối chết, nhà Mạc khơng chỉ trả lại cho phía Lê Trịnh linh cữu của
ơng này để mai tang đúng bản quán, còn “siêu lịch sự” trả kèm toàn bộ gia quyến,
kể cả mẹ Trịnh Cối- cũng tức mẹ Trịnh Tùng, cũng tức con gái Nguyễn Kim, chị
ruột của Nguyễn Hoàng, vợ Trịnh Kiểm, tổ mẫu của dịng chúa Trịnh.Khơng phải
đợi đến mãi sau này, vào năm 1738, khi theo Lê Duy Mật (dịng tơn thất nhà Lê)
chống sự chuyên quyền của họ Trịnh, bị Trịnh bắt, văn thần Phạm Công Thế (giữ
chức Đông Các hiệu thư) gặp câu cật vấn rằng “Nhà ngươi là người trong khoa
giáp làm sao lại đi theo bọn phản nghịch” đã đưa ra một câu trả lời “thấm đẫm tinh
thần thời đại”( “Cơng Thế cười nói: “Danh phận khơng sáng tỏ đã lâu rồi, còn phân
biệt thế nào là thuận với nghịch được nữa?”. Rồi, vươn cổ chịu chém., khơng một
chút nào khuất phục nao núng”. ) thì vấn đề “tính chính thống” mới thành câu hỏi
lớn, mà ngay từ thời điểm giữa cuộc chiến Lê - Mạc ấy, những trăn trở về địi hỏi
chính danh - định phận đã khiến hầu hết những người trong cuộc, kể cả những kẻ


ngự tận thượng đỉnh quyền lực, trở nên khó ăn nói, khó lịng hành xử một bề. Loại
người hành xử như Nguyễn Quyện “sáng Mạc, chiều Lê, tối lại Mạc” khơng phải
là hiếm, cũng khơng hồn tồn đáng bị coi là loại người bất nghĩa tráo trở, “vô
nguyên tắc”. Loại người khi theo, khi phản, khi ngoài cuộc, khi vỗ tay vào, thực
bụng quy thuận hay trá hàng…nảy nòi thật đơng nhưng rất khó phân định hư thực
hay xấu, tốt. Chính bởi thế mà Nguyễn Kim phải chịu chết chỉ bởi miếng dưa hấu
mùa hè từ tay một (trá) hàng tướng nhà Mạc “kính dâng lên chủ suý”. Một trong

những người tâm phúc “bàn định kế sách lâu dài”với Nguyễn Hoàng mấy ai ngờ
lại là Mạc Cảnh Huống, một người thuộc tôn thất nhà Mạc, không rõ bởi lý do gì
đã rời bỏ vương triều này từ sớm, để rồi “toàn tâm toàn ý” phụng sự chúa Tiên,
người lúc bấy giờ chỉ mới đang manh nha những ý đồ gây dựng “đại nghiệp”. Một
trong những nhân vật nổi tiếng bậc nhất sống vào thời điểm “vọng động can qua”
Lê - Mạc ấy là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Từng có rất nhiều ý kiến, cơng trình nghiên
cứu, phẩm bình về nhân vật lịch sử này, nhưng thuỷ chung, lời giải đáp rốt ráo về
lập trường chính trị - xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn cần được coi là thiếu
vắng.Là một trong những vị trạng nguyên nổi danh vào bậc nhất mà nhà Mạc đã
lấy đỗ, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng từng xuất chính với nhà Mạc mấy đợt, quan hàm
thực từng giữ lên tới Thị lang, chưa nói rằng khi mất lại được chính vua Mạc tế lễ,
vinh phong tước Trình Quốc công, quan hàm Tể tướng, khiến dân sở tại (Vĩnh Lại)
thờ làm phúc thần. Theo lẽ thường, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm phải “sống làm tôi nhà
Mạc, chết làm thần (hay ma) nhà Mạc” mới phải. Vậy nhưng kết hợp tài liệu của cả
chính sử lẫn dã sử lại mà soi, Nguyễn Bỉnh Khiêm dường như lại vừa là “trọng tài
giám sát” cho tất cả các trận đấu quyền lực, lại vừa tham dự một cách không hề vô
tư vào các diễn biến và có tác động trực tiếp đến (những) kết quả cuối cùng.Với
nhà Mạc, thì ngón tay trỏ “Cao Bằng tuy thiểu khả dung sổ thế” đã biến vương
triều này thành một “sứ quân” cát cứ, truyền tiếp thêm 7 đời sau. Với họ Nguyễn,
thì hầu như ai cũng biết tới lời mách nước lẫy lừng của Trạng Trình “Hoành Sơn
nhất đái, vạn đại dung thân” đã thực sự là khởi đầu cho một dòng chúa, một triều
vua, tuy có đứt gãy bầm dập, nhưng vẫn có thể tính dấu ấn lịch sử của dòng họ
quyền lực này từ 1533 đến tận 1945! Với Lê - Trịnh thì khỏi nói, bởi ơng chính là
người đưa ra lời khun chúa Trịnh (Kiểm) hãy đừng “thanh lý” ngôi vua, cứ “thờ
Phật mà ăn oản”, cả khi “mùa mất, giống xấu” thì hãy biết “tìm giống cũ mà gieo”.
Vậy là đẻ ra cái “lưỡng đầu chế” khơng tiền khống hậu trong lịch sử, tồn tại hai
trăm năm có lẻ. Khơng thể nói Nguyễn Bỉnh Khiêm “vô can” trước cảnh “năm bè
bảy cánh” của cục diện chính trị Việt Nam ít nhất hàng thế kỷ tiếp theo đó.



Hệ quả lớn thứ hai do cái cơ chế lưỡng đầu này trực tiếp gây ra, là việc xuất
hiện thế lực các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, dẫn đến việc chia cắt đắt nước, cũng
kéo dài ngót hai thế kỷ. Hệ quả này thực sự phức tạp, không thể chỉ xem xét một
chiều là tốt hay xấu. Có lẽ, trong trường hợp này, cần đến một cái nhìn Lão Trang
mới thấu triệt mọi lẽ: Hoạ là điểm khởi đầu của phúc, phúc là nơi ẩn nấp của hoạ.
Hệ quả lớn thứ ba của lưỡng đầu chế Lê Trịnh, như phần trên ít nhiều đã nghị
bàn, là sự xuất hiện liên miên không dứt của những cuộc nổi loạn “trên mọi miền
Tổ quốc”. Cả một thời kỳ dài trước đây, giới sử học định danh cho phần lớn những
cuộc nổi loạn này là “khởi nghĩa nông dân”, gắn cho chúng những ý nghĩa to tát về
đấu tranh giai cấp, thậm chí là cách mạng xã hội. Vì chưa có điều kiện bàn sâu về
loại hiện tượng này ở đây, chỉ xin nêu ngắn gọn rằng thật khó mà chia sẻ cái lịch sử
quan đó, bởi phần lớn những cuộc “khởi nghĩa” này đều có q trình hình thành rất
giống với sự hình thành của những ổ nhóm tội phạm trong mọi thời đại, con đường
chung mà các thủ lĩnh của các tập hợp này trải qua - nếu họ may mắn tiến xa được
trên quỹ đạo đó - là từ đại ca thành đại vương, và cục diện phổ biến mà họ tạo ra
chính là thứ mà sử gia xưa gọi là “loạn thế”, sử gia nay gọi là “thế kỷ bão táp của
khởi nghĩa nơng dân”. Rất cần có những cuộc thảo luận khoa học nghiêm túc trở
lại đối với chủ đề hết sức nhạy cảm này.
Thực tế lưỡng đầu chế thời Lê Trịnh để lại hệ quả đa dạng và phức tạp trên hầu
hết các lĩnh vực khác nhau của tồn tại xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, giáo
dục, cả trong sinh hoạt vật chất lẫn đời sống tinh thần. Thực tế đó gây biến động,
xáo trộn và đổi thay trong nhiều mối quan hệ giữa các tộc người trong khối cộng
đồng cư dân nước Việt, trong cả các quan hệ đối ngoại với các quốc gia và cộng
đồng dân cư láng giềng. Những hệ quả đó cũng khơng khó quan sát thấy trong đời
sống tín ngưỡng, tơn giáo lẫn trong những bước chuyển khó quan sát hơn như quỹ
đạo vận hành của lịch sử quốc gia dân tộc.Chắc chắn rằng cần có những cơng trình
nghiên cứu có quy mơ để làm sáng tỏ thêm những “công án” này.
Nho giáo về mặt hệ tư tưởng chính trị - xã hội vốn là một học thuyết chủ
trương một loại chế độ đại thống nhất, đại tập trung. Ngôi vua với tư cách là biểu
tượng cho một quyền lực quân chủ tối cao, thiêng liêng, đại diện duy nhất và tuyệt

đối cho ý chí của trời, theo quan niệm của Nho giáo ở một thời điểm nhất định bao
giờ cũng chỉ dành cho một người, dù đại diện cho một dịng họ, nhưng khơng bao
giờ được phân lập hay chia sẻ. Tất cả các quốc gia, các chính thể tuyên bố lấy Nho


giáo làm học thuyết cai trị đều luôn luôn coi đó là một tín điều khơng thể thay đổi
hay điều chỉnh.
Nhưng thực tế lịch sử Việt Nam ở các thế kỷ XVI – XVIII đã tồn tại một bộ
máy quyền lực mà ở cấp cao nhất có hai nhánh, đó là loại thiết chế vừa có vua lại
vừa có chúa. Thiết chế nhà nước Lê - Trịnh là một loại hiện tượng lịch sử đặc thù,
về nguyên tắc hàm chứa nhiều mâu thuẫn với những nguyên lý lý thuyết về quyền
lực của Nho giáo. Nhưng chính thiết chế ấy lại vẫn tun bố rằng chính nólà sự
hiện diện tn theo đạo lý thánh hiền! Cơ chế lưỡng phân của quyền lực tối cao
này đã đưa lại những tác động to lớn, phức tạp và lâu dài trong lịch sử Việt Nam.

C.KẾT LUẬN
Như vậy, qua việc nghiên cứu các thể chế lưỡng đầu trong lịch sử
phong kiến Việt Nam, chúng ta có thể thấy rõ thể chế lưỡng đầu thời Trần,
Hồ, Mạc so với thể chế Lê-Trịnh ở Đàng. Có thể nói thiết chế lưỡng đầu là
một nét chính trị đặc sắc của Việt Nam ta thời phong kiến. Có lẽ hiếm có ở


nơi đâu mà thể chế lưỡng đầu tồn tại lâu dài và từng bước phát triển hoàn
thiện lên đến đỉnh cao như ở Việt Nam. Mặc dù được hình thành từ nhiều
nguyên nhân và có nhiều yếu tố khác nhau nhưng khơng thể phủ nhận vai trị
của cả hai thể chế nhà nước thời Trần, Hồ, Mạc và thời Lê-Trịnh đối với lịch
sử dân tộc. Nó là sản phẩm phù hợp với bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, góp
phần duy trì nền độc lập tự chủ và đưa nước Đại Việt xưa lên sánh ngang
tầm với các triều đại phong kiến phương Bắc.


Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt Nam, Trường Đại học Luật
Hà Nội.
2. Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt Nam, Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội.


3. Đại Việt Sử ký Toàn thư, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 1993.
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
Nội 1998.
5. Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Đà Nẵng 2003.
6. Lịch triều tạp kỷ, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 1975.
7. Sơ thảo Lịch sử Nhà nước và Pháp quyền Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội, Hà Nội 1968.
8. Đại cương lịch sử Việt Nam. Tác giả: Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân
Lâm, Lê Mậu Hãn (chủ biên). Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội,năm 2004.



×