ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC
-0-
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM
VĂN HÓA TRANG PHỤC VIỆT NAM – TRƯỜNG HỢP ÁO DÀI NỮ
GVHD: Đinh Thị Dung
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Trúc
MSSV: 1356140079
1
TP.HCM, tháng 1/2015
MỤC LỤC
Mục lục……………………………………………………………………………………2
Lời mở đầu – lý do chọn đề tài……………………………………………………………3
Chương 1: Lịch sử hình thành chiếc Áo dài………………………………………………4
1.1. Tiền thân
1.2. Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát
1.3. Thời vua Minh Mạng
1.4. “Đời sống mới”
1.5. Áo dài Le Mur
1.6. Áo dài Lê Phổ
1.7. Áo dài với tay giác lăng
1.8. Áo dài miniraglan
1.9. Áo dài Trần Lệ Xuân
Chương 2: Áo dài – một biểu tượng của Việt Nam……………………………………….9
Chương 3: Áo dài – nguồn cảm hứng trong nghệ thuật………………………………….12
Kết luận………………………………………………………………………………… 15
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………………….17
2
LỜI MỞ ĐẦU – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Có thể nói, “ăn, mặc, ở” là ba nhu cầu tất yếu của mỗi con người, và cũng dựa trên sự
khác biệt trong cách thức ăn, mặc, ở mà ta có thể phân biệt được dân tộc này với dân tộc
khác. Bởi ở những điều kiện tự nhiên và xã hột, lẫn phong tục tập quán khác nhau mà
mỗi dân tộc có cách thức ăn mặc ở đặc trưng riêng.
Khi nhắc tới Hàn Quốc, người ta sẽ nghĩ ngay tới Hanbok, hay Kimono là của Nhật Bản.
Còn khi nhắc tới Việt Nam, ngoài cái thức phở, dải đất hình chữ S trên bản đồ thế giới
với lịch sử hào hùng… người ta không khỏi không xao xuyến trước hình ảnh những tà
Áo dài tung bay từ góc phố đến các đấu trường sắc đẹp.
Nhưng không phải ai, trong đó có cả những người Việt Nam lại biết một cách tường tận
lịch sử hình thành và phát triển của tà Áo dài Việt. Do đó, dù còn nhiều thiếu sót nhưng
hi vọng đề tài này sẽ giới thiệu một cách khái quát nhất về lịch sử hình thành – phát triển
cũng như các giá trị của tà Áo dài Việt Nam.
“Nắng Sài Gòn, anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”
3
CHƯƠNG1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CHIẾC ÁO DÀI
1.1. Tiền thân
Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao vì không
có tài liệu ghi nhận và chưa có nhiều người nghiên cứu. Y phục xa xưa nhất của người
Việt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng vài
nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Sử giả Đào Duy
Anh viết, "Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo dài về
bên tả (hình thức tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân
quận Cửu Chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách đó chép thì ta có
thể suy luận rằng trước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chước
người Trung Quốc mới mặc áo gài về tay phải.
Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi
mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ
đen, thắt lưng màu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh
đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá,
nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc
đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm
bốn vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo
tứ thân được mặc ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn
không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ.
"Giảng học đồ". Những người thế kỷ 18 ở Đàng Ngoài mặc áo giao lĩnh gài bên phải
(Ảnh nguồn: Wikipedia)
4
Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh
gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ hơn, muốn có một kiểu áo dài được
cách tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp trang trọng
khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé
lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che
kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi thành bốn) tượng
trưng cho tứ cha mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng
cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm
chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ
hành theo triết học Đông phương.
1.2. Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát
Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát được xem là người có công khai sáng và định hình chiếc
áo dài Việt Nam.
Áo dài ngũ thân, khoảng năm 1900
(Ảnh nguồn: Wikipedia)
Chịu ảnh hưởng nặng của văn hóa Trung Hoa, cho đến thế kỷ 16, lối ăn mặc của người
Việt Nam vẫn thường hay bắt chước lối của người phương Bắc, đặc biệt dưới thời
các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong do nhu cầu khai phá khẩn hoang, đón nhận hàng vạn
người Minh Hương (còn gọi là người Khách Trú hay đọc trại thành "cắc chú") bất mãn
với nhà Thanh sang định cư lập nghiệp, mặc dù người Việt cũng có lối ăn mặc riêng.
Trước làn sóng xâm nhập mới này, để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương Nguyễn
5
Phúc Khoát ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong phải theo
đó thi hành. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo
dài Việt Nam, như sau: "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa
ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không
được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc
thì được phép " (sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên). Trong Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quý
Đôn viết "Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang sử đầu cho chiếc áo dài như
vậy".
Căn cứ theo những chứng liệu này, có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cố định
đã ra đời và chính thức được công nhận là quốc phục dưới triều chúa Nguyễn Vũ Vương
(1739-1765).
Một vài tài liệu quy kết việc ra đời của chiếc áo dài quốc phục là do những tham vọng
riêng tư của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Do muốn xưng vương và tách rời Đàng
Trong thành quốc gia riêng, nên ban sắc dụ về ăn mặc như trên cho khác đi, không phải
với người khách trú mà với Bắc triều (trong quy định này đã có cả chỉ thị phụ nữ phải
mặc quần hai ống). Đặc biệt, Dã sử lược biên Đại Việt quốc Nguyễn triều thực lục ghi
nhận:"Chúa cho rằng lời sấm cổ có nói tám đời quay lại trung đô, tính từ Thái Tổ đến nay
vừa đúng con số ấy, bèn thay đổi y phục, đổi phong tục, cùng dân đổi mới, bắt đầu hạ
lệnh cho nam nữ sĩ thứ trong nước, đều mặc áo nhu bào, mặc quần, vấn khăn, tục gọi
quần chân áo chít bắt đầu từ đây. Trang phục nhà cửa đồ dùng hơi giống thể chế Minh
Thanh, thay đổi hết thói cũ hủ lậu của Bắc Hà, thay đổi quan phục tham khảo chế độ của
các triều đại Trung Quốc, chế ra phẩm phục Thường triều, Đại triều, lấy làm mô thức,
ban hành trong nước, văn chất đủ vẻ, trở thành nước áo mũ văn vật vậy. Tổng hợp các ghi
chép vừa rồi có thể thấy, cải cách năm 1744 là một cuộc cải cách lớn về y phục cung đình
chính để đặt định y phục là các sách Hội điển ghi chép điển chương chế độ của các triều
đại Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh và đặc biệt là Tam tài đồ hội của Vương kỳ thời
Minh. Năm 1744 cũng là thời điểm đánh dấu sự xuất hiện của quần chân áo chít, bộ trang
phục ban đầu áp dụng tại hai vùng Thuận Hóa, Quảng Nam, về sau được phổ biến rộng
rãi trong toàn quốc, từng bước trở thành quốc phục của triều Nguyễn.
1.3. Thời vua Minh Mạng
Cho đến thế kỷ 17 truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam như đã ghi trong sách Lê
Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: "
áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay vốn đã có cổ
tục như thế ". Vậy có thể nói rằng bộ áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia
Long (1802-1819). Sở dĩ có sự ước đoán này, vì mặc áo ngũ thân thì phải mặc quần chứ
6
không thể mặc váy. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn
bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới xuất hiện câu ca dao than vãn:
“Tháng Tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!”
1.4. “Đời sống mới”
Các bộ phận của một chiếc áo dài phổ biến
(Ảnh nguồn: Wikipedia)
Năm 1947 trong bối cảnh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới tuyên bố độc lập và các
phong trào "diệt giặc đói, giặc dốt" đang được phát động, nhằm phát động phong trào tiết
kiệm, ngày 20 tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh, với bút hiệu Tân Sinh, đã viết một cách
vắn tắt rõ ràng và dễ hiểu bài "Đời sống mới" trong đó vận động người dân bỏ thói quen
mặc áo dài để thay bằng áo vắn vì mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt, luộm
thuộm. Áo dài tốn vải, khoảng hai cái áo dài may được ba cái áo vắn, nếu chỉ mặc áo vắn
có thể sẻn được 200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ Việt Nam đời sống
mới. Cuộc vận động này dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài không còn là trang
phục thông dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thời gian dài ở miền bắc vĩ tuyến 17.
1.5. Áo dài Le Mur
"Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường, một họa sĩ vào thập niên
1930 đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ thân để biến nó chỉ còn lại hai
vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ
uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong
cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính,
hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo
một bên sườn. Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều biến cải mà nhiều người thời đó cho là
"lai căng" thái quá, như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa áo
7
Le Mur mặc cho đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và
quàng vai thêm chiếc bóp đầm. Lối tân thời này tuy được nhiều người yêu thích nhưng
cũng đã bị một số dư luận khi đó tẩy chay và cho là "đĩ thõa" (như được phản ảnh không
hề thiện cảm trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng).
1.6. Áo dài Lê Phổ
Năm 1934, một họa sĩ khác là Lê Phổ bỏ bớt những nét lai căng, cứng cỏi của áo Le Mur,
đồng thời đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt
dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn. Sự dung hợp
này quá hài hòa, vẹn vẻ giữa cái mới và cái cũ, được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt
liệt. Từ đây áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó, và từ bấy đến nay
dù trải bao thăng trầm, bao lần cách tân cách điệu, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn
giữ nguyên.
1.7. Áo dài với tay giác lăng
Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách ráp
tay raglan (giác lăng). Cách ráp này đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo
dài: những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút
cài được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với
cách ráp tay raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến
lườn eo, khiến chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo
thêm tính thẩm mỹ theo đánh giá của một số nhà thiết kế.
1.8. Áo dài miniraglan
Phiên bản này được áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản gốc này, áo ngắn tay
ranglan có tà chỉ ngắn tới bàn chân, nhưng hai ống quần ôm lòa xòa phủ kín đôi chân.
Hai đặc điểm này làm cho tà áo nữ sinh đậm chất hồn nhiên, dễ thương.
1.9. Áo dài Trần Lệ Xuân
Cuối năm 1958 khi bà Trần Lệ Xuân còn tại vị Đệ Nhất Phu Nhân của nước Việt Nam
Cộng Hòa, bà đã thiết kế ra kiểu áo dài cách tân mới bỏ đi phần cổ áo gọi là áo dài cổ
thuyền, cổ hở, cổ khoét, dân gian gọi là áo dài Trần Lệ Xuân hay áo dài bà Nhu. Không
chỉ lạ về mẫu áo, chiếc áo dài hở cổ còn được ‘phá cách’ với họa tiết trang trí trên áo:
nhành trúc mọc ngược. Một số nhà phê bình phương tây cho rằng nó hợp lý với thời tiết
nhiệt đới của miền nam Việt Nam. Nhưng kiểu áo này khiến những người theo cổ học lúc
đó tức giận và lên án nó không hợp với thuần phong mỹ tục. Loại áo dài không có cổ này
8
vẫn phổ biến đến ngày nay và phần cổ được khoét sâu cho tròn chứ không ngắn như bản
gốc.
CHƯƠNG 2: ÁO DÀI – MỘT BIỂU TƯỢNG CỦA VIỆT NAM
Khác với Kimono của Nhật Bản hay Hanbok của Hàn Quốc, chiếc Áo dài Việt Nam vừa
truyền thống lại cũng vừa hiện đại. Trang phục dành cho nữ này không bị giới hạn chỉ
mặc tại một số nơi hay dịp mà có thể mặc mọi nơi, dùng làm trang phục công sở, đồng
phục đi học, mặc đi chơi hay mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà. Việc mặc
loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kỳ, những thứ mặc kèm đơn giản: mặc với
một quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi hài, guốc, hay giày gì đều được; nếu cần trang
trọng (như trang phục cô dâu) thì thêm áo choàng và chiếc khăn đóng truyền thống đội
đầu, hoặc một chiếc vương miện Tây phương tùy thích. Đây chính là điểm đặc biệt của
loại trang phục truyền thống này.
Chiếc Áo dài hình như có cách riêng để tôn đẹp mọi thân hình. Phần trên ôm sát thân
nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ chí trên vòng eo
khiến cho cử chỉ người mặc thật thoải mái, lại tạo dáng thướt tha, tôn vẻ nữ tính, vừa kín
kẽ vì toàn thân được bao bọc bởi lụa mềm, lại cũng vừa khiêu gợi vì chiếc áo làm lộ ra
sống eo.
Chiếc Áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao: mỗi chiếc chỉ may riêng cho một
người, dành cho riêng người đó; không thể có một công nghệ "sản xuất đại trà" cho chiếc
áo dài. Người đi may được lấy số đo thật kỹ. Khi may xong phải qua một lần mặc thử để
sửa nhỏ nữa mới hoàn thiện.
Không giống như Kimono của Nhật Bản, Hanbok của Hàn Quốc hay Sai trang phục
truyền thống của phụ nữ Ấn Độ, người mặc Áo dài không tốn nhiều thời gian, lại đơn
giản, gọn gàng, duyên dáng mà thanh lịch, có lẽ chính vì vậy mà Áo dài đã "len lỏi" vào
cuộc sống hàng ngày của phụ nữ Việt Nam một cách tự nhiên và dễ dàng.
Không gì đẹp mắt và thanh bình cho bằng khi mỗi sáng từng nhóm nữ sinh trong bộ đồng
phục Áo dài trắng thướt tha đổ về các cổng trường. Trên những chuyến bay đường dài
với những sự thay đổi thời tiết và khí hậu đột ngột, hình ảnh những thiếu nữ Việt xinh
tươi đằm thắm trong tà Áo dài chính là "linh hồn" làm dịu đi những nỗi mệt nhọc cho
hành khách trong chuyến bay. Không chỉ có thế, ngày nay tại các công sở, cũng dễ dàng
tìm thấy hình ảnh những phụ nữ gọn nhẹ trong tà Áo dài nhưng vẫn hoạt bát nhanh nhẹn
xử lý công việc thật ngăn nắp, chỉnh chu. Đúng như lời nhận xét của một chuyên gia thời
trang Đông Nam Á: "Áo dài Việt Nam tạo ra sự thoải mái cho người phụ nữ và cho phép
người mặc có thể hoạt động tự do và nó cũng có sức cuốn hút hơn".
Qua bao thăng trầm, với bao biến tướng, có lúc thì rộng thùng thình trông đến là lạ mắt
(đầu thế kỷ 19), có lúc lại cổ cao, ngực khít. Lúc dài trên đầu gối, lúc lại sát tận gót giày
9
Khi thì tơ tằm lên ngôi, lúc lại là thời của lụa, của tơ sống, của đũi Nhưng tựu trung lại,
chiếc Áo dài vẫn không bao giờ có thể thiếu vắng trong tủ quần Áo của mỗi thiếu nữ Việt
Nam. Tà Áo dài và người con gái Việt, sự kết dính cứ nhẹ nhàng nhưng lại bền bỉ và chặt
chẽ. Những thiếu nữ Việt trong chiếc áo tinh khôi tới trường, chững chạc trước bạn bè
quốc tế trong những cuộc thi hoa hậu. Khi thêm chiếc khăn vành trên đầu như "vương
miện" với chiếc áo choàng khoác bên ngoài sẽ kết hợp lại thành bộ lễ phục "hoàng hậu"
cho cô dâu ngày bước lên xe hoa. Tới lúc làm mẹ, đưa con gái, đón con dâu về nhà
cũng lại chiếc Áo Dài nhung làm những bà mẹ trở nên sang trọng và ''chững chạc'' hơn
Trong các buổi dạ tiệc, chiếc Áo dài Việt Nam cũng sẽ lộng lẫy, độc đáo, không thua bất
kỳ bộ trang phục của các quốc gia nào khác trên thế giới.
Hình ảnh nữ sinh trong chiếc Áo dài trắng tinh khôi
(Ảnh nguồn: />P3/54/8019484.epi)
Áo dài Việt Nam ngày nay mang đậm nét bản sắc dân tộc, được kế thừa một cách sáng
tạo vẻ đẹp của chiếc Áo tứ thân của người Kinh, Áo dài của người Chăm, Tày, Nùng
Những năm gần đây, Áo dài được thời trang hóa với nhiều sự cách tân, kết hợp nét văn
hóa dân tộc với yếu tố thời trang hiện đại, tạo nên nét riêng độc đáo của tà Áo dân tộc
trong các buổi trình diễn tuần lễ thời trang quốc tế và trong các cuộc thi hoa hậu trong và
ngoài nước, các festival trang trọng và bề thế. Nhiều nhà thiết kế Áo dài Việt Nam đã
được biết đến trên thị trường quốc tế như Minh Hạnh, Sỹ Hoàng, Võ Việt Chung, La
Hằng
"Kín đáo, duyên dáng mà gợi cảm" là một trong những yếu tố đưa Áo dài trở thành niềm
kiêu hãnh của người Việt. Không chỉ là cái Áo nữa - chiếc Áo dài đã trở thành biểu tượng
10
của trang phục, tạo thành sản phẩm văn hoá vật thể truyền thống không thể thiếu cho vẻ
duyên dáng của người phụ nữ Việt.”
Chiếc Áo dài đã trở thành một phấn không thể thiếu của Việt Nam nói chung hay là nét
đặc trưng của người con gái Việt nói riêng. Ở các nước Châu Âu mọi người chọn cho
mình những chiếc áo sơ-rê trong những ngày quan trọng hay đi dự những bữa tiệc lớn, và
ở các nước Châu Á như Nhật có Kimono Hàn có Handbok thì những ngưởi con gái Việt
Nam luôn chọn cho mình Áo dài vào những buổi tiệc đặc biệt, không lộng lẫy như sơ-rê,
đơn giản và kiêu sa là những gì mà Áo dài mang lại. Hay chẳng cần đâu xa khi mọi ngưởi
tử khắp đất nước đặt chân đến Việt Nam hình ảnh đầu tiên mà mọi ngưởi nhìn thấy là
những tà Áo dài nhẹ nhàng bay trong gió, và hình ảnh ấy gần như không thể thiếu cùa
những người con đất Việt, thân thương mà mỗi khi ai xa quê hương đểu nhớ. Áo dài đã
trở thành một phần văn hóa của đất nước mang hình ảnh “Cờ Đỏ Sao Vàng”.
Áo dài được mặc vào những ngày lễ dặc biệt như Tết mọi người sắm cho mình chiếc Áo
dài để đi chúc phúc ông bà cha mẹ để tỏ lòng biết ơn sự hiếu thảo của mình, hay đi lễ
chùa vào những ngày đẩu năm với những quẻ xâm may mắn mong gia đình luôn yên vui
và bình an. Chẳng cần đi đâu xa tà Áo dài luôn xuất hiện trên sân trường với những ngày
đẩu tuần và lễ hội. Và đặc biệt vào những ngày trọng đại của người con gái dù thế giới có
thay đổi như thế nào thì việc mặc chiếc Áo dài vào ngày đám hỏi luôn là một truyền
thống, phong tục của người con gái khi sắp đi lấy chồng, vào ngày đặc biệt đó cô dâu
luôn khoác lên mình chiếc Áo dài lộng lẫy hay một chiếc Áo dài đỏ đơn giản cũng làm cô
dâu them phần duyên dáng và nổi bật, không cầu kì và rườm rà như sơ-rê. Áo dài luôn
mang lại cho cô dâu một nét đặc trưng riêng thướt tha, mềm mại, hiện đại và cổ xưa,
năng động và dịu dàng.
Áo dài đã trở thành một phần cuộc sống của người Việt, trở thành những phong tục tập
quán với những lối sống mà từ xa xưa cha ông đã để lại.
11
CHƯƠNG 3: ÁO DÀI – NGUỒN CẢM HỨNG TRONG NGHỆ THUẬT
Hình ảnh phụ nữ/ con gái Việt Nam với chiếc Áo dài truyền thống đã được nhiều nhà
nghệ sĩ ghi lại, nổi bật nhất là trong thơ và nhạc. Bài thơ nổi tiếng về chiếc Áo dài có thể
kể là "Áo lụa Hà Đông" của Nguyên Sa, bài này được phổ nhạc thành một bài hát nổi
tiếng và là cảm hứng cho một bộ phim điện ảnh cùng tên, với những câu:
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông ”
"Ngày xưa Hoàng Thị" của Phạm Thiên Thư kể về chuyện tình thuở học sinh với cô gái
họ Hoàng, cô xuất hiện trong bài với những nét phác họa:
“Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài.”
Phạm Duy phổ nhạc bài này cũng không quên làm nổi bật hình ảnh Áo dài khi sửa thành:
“Ôm nghiêng tập vở, tóc dài, tà áo vờn bay ”
Áo dài cũng in đậm nét trong những vần thơ nghịch ngợm của Nguyễn Tất Nhiên:
“Tháng giêng em áo dài trang nhã
Tỉnh lỵ còn nguyên nét Việt Nam
Đài các chân ngà ai bước khẽ
Nguyện theo tà lụa cả phương Đông”
(Tháng giêng, chim)
Trong thơ Bùi Giáng, màu Áo dài của ký ức được nâng lên thành huyền thoại:
“Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh”
(Áo xanh)
Và có lẽ trong những vần thơ rất dung dị sau đây của Huy Cận cũng có
hình bóng của chiếc Áo dài trắng nữ sinh:
“Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa em đến mắt như lòng
Nở bừng ánh sáng em đi đến
Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng”
(Áo trắng)
Chiếc Áo dài cũng phảng phất hay xuất hiện nhiều trong các ca khúc Việt Nam. Trong
nhạc Trịnh Công Sơn có thể nhìn thấy khá nhiều. Theo hồi ký, chính những bước chân
hoàng cung của những nữ sinh áo tím Huế đã làm cho nhạc sĩ họ Trịnh viết nên bài
"Diễm xưa" nổi tiếng. Hay trong bài "Hạ trắng", hình ảnh Áo dài cũng chập chờn: “Gọi
nắng trên vai em gầy đường xa áo bay ”
"Bé ca" của Phạm Duy viết cho con gái mới lớn, có bài "Tuổi ngọc" tả về niềm hân hoan
của cô bé khi bước chân vào trung học, lần đầu khoác lên mình "một chiếc áo như mây
hồng":
“Xin cho em một chiếc áo dài, cho em đi mua xuân tới rồi
12
Mặc vào đời rồi ra, mừng lạy chào mẹ cha
Hàng lụa là thơm dáng tuổi thơ”
Bài "Một thoáng quê hương" của Từ Huy nổi tiếng một thời với câu:
“Tà áo em bay, bay, bay, bay trong gió nhẹ nhàng
Dù ở đâu, Paris, Luân Đôn hay ở những miền xa. Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố,
sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó em ơi ”
Các nhạc sĩ tiền chiến cũng hay ca ngợi Áo dài như bài "Tà áo xanh" của Đoàn Chuẩn -
Từ Linh. Và cảm xúc về chiếc Áo dài cũng làm nên những câu hát nổi tiếng của Hoàng
Trọng:
“Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím
Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím
Nhuộm tím những chuỗi ngày ấy nhau
Tháng năm càng lướt mau
Biết bao giờ ấy nhau”
(Ngàn thu áo tím)
13
KẾT LUẬN
Đã có bao giờ bạn nghĩ chiếc Áo dài trong tương lai sẽ như thế nào chưa? Chắc chắn rằng
trong tương lai sẽ xuất hiện nhiều kiểu áo dài cách tân hơn, đẹp hơn, rực rỡ hơn và có khi
là những "cách điệu" phản cảm đi ngược với truyền thống.
Trên khắp các nẻo đường quê hương, các chị, các bà, các mẹ duyên dáng, kín đáo, tôn
nghiêm, khi mang trên mình chiếc Áo dài truyền thống. Có bao nhiêu lý do để chúng ta
thế hệ nối tiếp sau này phải gìn giữ, bảo tồn nét đẹp ấy. Tuy nhiên văn hóa Áo dài càng
phát triển, càng gặp nhiều thách thức trên đường tiến hóa. Áo dài mặc không đúng chỗ,
đúng lúc, Áo dài bị các nhà tạo mẫu biến tấu quá đà, đã không còn giữ được hình dáng
truyền thống. Tà Áo dài từng bị cắt ngắn hụt hẫng, hoặc bị xé lẻ tan nát thành những dải
vải như tàu lá chuối rách. Người ta làm bồng vai Áo dài, nhấc phần xẻ tà lên quá cao, hở
hết lườn một cách khiêu khích, rồi khoét ngực Áo dài rất sâu, thành áo dài cổ thuyền, cổ
chữ “V”, rồi chia cắt tà Áo dài thành nhiều mảng miếng rời rạc, tan nát, bắt Áo dài phải
gánh quá nhiều hoa văn rắc rối, loạn xạ, rối mắt, hoặc may Áo dài bằng những chất liệu
trong suốt. Những “cách điệu” đó thật phản cảm, đi ngược, thậm chí xúc phạm vẻ đẹp
tinh tế, trang nhã, gợi cảm kín đáo của Áo dài Việt… Nếu cứ tiếp tục cách điệu, xẻ tay, xẻ
cổ như thế thì đến một lúc nào đó, chính người Việt mình cũng chẳng còn nhận ra chiếc
Áo dân tộc nữa.
Liệu tương lai và giá trị của chiếc Áo dài sẽ như thế này?
(Ảnh nguồn: />Phải vượt qua những thách thức của sự phát triển văn hóa mặc Áo dài ở Việt Nam , đó là
cử chỉ văn hóa không phải chỉ của riêng ai. Chúng ta luôn luôn phải sáng tạo để góp phần
vào trang sử phát triển tà Áo dài Việt Nam. Nhưng sáng tạo như thế nào để vẫn đảm bảo
được nét đẹp văn hoá người phụ nữ Việt ẩn bên trong tà Áo dài. Đừng để tà Áo dài phôi
pha theo năm tháng.
14
Bất cứ cái gì cũng có tính hai mặt của nó. Nhưng chiếc Áo dài không đơn giản chỉ là
trang phục để mặc mà nó còn là hình ảnh tượng trưng cho nét đẹp của người phụ nữ Việt.
Nó còn mang một giá trị góp phần quảng bá hình ảnh về một đất nước Việt Nam gắn liền
với tà Áo dài cũng giống như khi nói đến Nhật là khiến ta nghĩ ngay đến chiếc áo
Kimono hay áo Hanbok của người Hàn, chiếc Shari của người Ấn, Nét đẹp của chiếc
áo dài chính là kiểu nữa kín nữa hở. Nó tạo ra sự quyết rũ khi thể hiện khá thành công các
đường cong của người phụ nữ nhưng nó cũng thật sự kín đáo với nét đẹp truyền thống
của người Á Đông tạo nên vẻ đẹp dịu dàng thướt tha cho người phụ nữ Việt. Vì vậy,
người đàn ông vẫn thích ngắm nhìn những cô gái thướt tha trong nhừng tà áo dài thướt
tha khi đi trên đường. Và hình ảnh những người nước ngoài đến Việt Nam mặc trang
phục áo dài truyền thống của ta cũng ngày một nhiều hơn. Qua đó, chúng ta cũng đủ thấy
Áo dài cũng có một sức hút riêng. Còn sự bất tiện của chiếc Áo dài cũng ít nhiều được
chiếc Áo dài cách tân thay thế tạo sự thuận tiện hơn. Ở đây, cách tân không có nghĩa là
làm thay đổi hoàn toàn chiếc Áo dài mà là sự biến tấu thêm ở một số bộ phận như cổ và
tay áo mà thôi. Có thể nói dù là cách tân thế nào đi nữa nhưng nó vẫn giữ nguyên nét đẹp
của hai tà áo xinh xinh.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
2. Ngàn năm áo mũ, Trần Quang Đức, 2014.
3. Trang phục Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, Nguyễn Thu Phương, NXB
Lao động, 2005.
4. Văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Ngô Đức Thịnh, NXB KHXH, 2006.
5. />6.
viet.romeodang.35B3ED2F.html
7. Áo dài trong thơ và nhạc: />p=61304
15
16