Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

SKKN De mo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.09 KB, 39 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>SỞ GIÁO DỤC VAØ ĐAØO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị: Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh Maõ soá:……………………. SAÙNG KIEÁN KINH NGHIEÄM. HƯỚNG DẪN HỌC SINH LAØM VAÊN NGHÒ LUAÄN XÃ HỘI DẠNG ĐỀ MỞ. Người thực hiện: Trần Thị Châu Thưởng Lĩnh vực nghiên cứu: Quaûn lyù giaùo duïc: Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ Văn  Phöông phaùp giaùo duïc: Lĩnh vực khác:. Coù ñính keøm: Moâ hình. Phaàn meàn. Phim aûnh. Hieän vaät khaùc.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Naêm hoïc: 2012 – 2013. SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Trần Thị Châu Thưởng 2. Ngày tháng năm sinh: 04-10-1964 3. Nam, nữ: Nữ 4. Địa chỉ: R317, đường A3, Võ Thị Sáu, phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai 5. Điện thoại (NR): 0613.600660 6. Fax: 7. Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn tổ Ngữ văn 8. Đơn vị công tác: Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị: Tốt nghiệp Đại học Sư phạm - Năm nhận bằng: 1986 - Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn III.. KINH NGHIỆM KHOA HỌC. - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy Ngữ văn bậc THPT Số năm kinh nghiệm: 27 năm - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: +, Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy văn nghị luận theo chương trình và sách giáo khoa mới, bậc trung học phổ thông, 2007. +, Nghị luận xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2009;… +, Chuyên đề: Nguyễn Minh Châu – cuộc đời và sự nghiệp văn chương, 2009..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> +, SKKN: Học theo dự án – Kết hợp học và du khảo về văn hóa Đồng Nai, 2010. +, SKKN: Một số kinh nghiệm trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn, 2011. +, SKKN: Mấy vấn đề về việc dạy học tác phẩm “Vũ Như Tô” và trích đoạn “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” của Nguyễn Huy Tưởng, 2012..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. HƯỚNG DẪN HỌC SINH LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI DẠNG ĐỀ MỞ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Tư tưởng và mục đích của hoạt động đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông hiện nay là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Với tinh thần này, Chương trình và sách giáo khoa hiện hành đã có nhiều đổi mới về cách kiểm tra, đánh giá. Một trong những phương diện đổi mới là việc chú trọng văn nghị luận xã hội (NLXH). Đây là một cách rất tốt hình thành cho học sinh – những công dân trẻ của đất nước tư tưởng, tình cảm tốt đẹp, suy nghĩ sâu sắc trước mọi vấn đề của cuộc sống. Bên cạnh đó, để tăng cường tính chủ động, tích cực của học sinh (HS), việc ra đề văn NLXH theo hướng mở ngày càng được xã hội đồng tình, nhiều giáo viên (GV) tích cực đổi mới cách ra đề. Ưu điểm của lối ra đề NLXH theo hướng mở là rèn luyện khả năng độc lập suy nghĩ, phát huy tính sáng tạo và gây hứng thú cho học sinh. Kết quả chúng ta đã có những bài viết thể hiện suy nghĩ riêng, độc đáo và chân thực của học sinh được đăng tải trên báo và các phương tiện thông tin đại chúng. 2. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay việc ra đề NLXH theo hướng mở và viết bài văn theo đề mở là vấn đề mới và còn nhiều khó khăn đối với giáo viên và học sinh. Một số giáo viên vẫn chưa khuyến khích ý tưởng riêng, có cá tính được thể hiện trong bài viết của học sinh, mà chỉ đi theo những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn giáo viên hoặc suy nghĩ chủ quan của bản thân. Nhiều GV tâm đắc với việc ra đề NLXH theo hướng mở nhưng lại cảm thấy lúng túng trong cách hướng dẫn học sinh làm tốt dạng đề này..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Một số học sinh không thích đề mở vì quen với lối làm văn máy móc, rập khuôn theo mẫu có sẵn hoặc theo đúng ý thầy cô đã truyền thụ. Những học sinh hứng thú với đề mở lại xuất phát từ quan niệm chưa đúng. Các em cho đề mở là nghĩ gì viết nấy, dẫn đến lối viết tùy tiện không đáp ứng đúng yêu cầu của một bài văn nghị luận. 3. Xuất phát từ công việc giảng dạy của một giáo viên ở bậc THPT và từ thực tế trên, chúng tôi viết sáng kiến kinh nghiệm: HƯỚNG DẪN HỌC SINH LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI DẠNG ĐỀ MỞ nhằm làm rõ thêm quan niệm về đề mở và một số hoạt động dạy học giúp học sinh làm tốt dạng đề này.. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI. 1. Cơ sở lí luận - Trong bài viết Đề mở - Nhận dịện và cách làm (Tài liệu chuyên văn), PGS. TS Đỗ Ngọc Thống đã dẫn lại ý kiến của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: Dạy Làm văn chủ yếu là dạy cho HS diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói (Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục). Từ đó, ông Đỗ Ngọc Thống nhận xét: Đó là những tư tưởng rất quan trọng, làm cơ sở cho việc xác định phương hướng dạy Làm văn nói chung và dạy Làm văn ở THPT nói riêng. Để hiện thực hóa tư tưởng đó, trước hết cần hình thành và rèn luyện năng lực chủ động và linh hoạt trong việc làm bài văn. - GS. TS Trần Đình Sử, một trong hai Tổng Chủ biên của bộ sách giáo khoa mới, trong bài Đề mở trong dạy – học Làm văn (Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ số 1 năm 2012) đánh giá: Đề mở là một hướng tiến bộ trong dạy học Làm văn, nhưng vẫn đang là một vấn đề mới, chưa được nghiên cứu sâu, còn có những khía cạnh chưa rõ, phải qua thực tiễn thì mới nhìn thấy hết được. Vấn đề này đòi hỏi các giáo viên nghiên cứu, suy nghĩ, nhìn thấy chỗ mạnh, chỗ khó, thậm chí chỗ yếu của nó, nghiên cứu phương pháp dạy học phù hợp thì phương hướng này mới phát huy được tác dụng tích cực của nó..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> - Như vậy, có thể nói, việc dạy – học Làm văn theo đề mở là một hướng đi đúng đắn và tích cực. Tuy nhiên, làm thế nào để hình thành và rèn luyện năng lực chủ động và linh hoạt trong việc làm bài văn? Làm thế nào để có phương pháp dạy học phù hợp và phát huy được tác dụng tích cực của nó, là những vấn đề mà người thầy giáo cần quan tâm và cần có một quá trình để thực hiện. - Tìm hiểu những bài viết bàn về việc hướng dẫn cách làm đề mở nói chung, đề NLXH theo hướng mở nói riêng, chúng tôi nhận thấy, các tác giả chỉ mới đề cập đến các bước như: tìm ý, lập dàn ý,… (Đỗ Ngọc Thống - TLĐD). Ngay cả cuộc thi Ra đề và viết văn theo hướng mở của Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ tổ chức từ 1/4/2011 cho đến nay cũng chỉ mới dừng lại ở việc giáo viên ra đề và gợi ý cách làm bài. Là người trực tiếp đứng lớp, chúng tôi nhận thấy, để làm tốt bài văn NLXH theo hướng mở, HS cần có một quá trình rèn luyện. Bắt đầu từ việc tích lũy vốn sống. Sau đó là có thói quen suy nghĩ về những vấn đề đạo lí, có chính kiến trước một tư tưởng, hình thành những quan niệm sống, biết trăn trở và có cái nhìn đa chiều trước mọi hiện tượng, sự việc của cuộc sống. Cuối cùng là cách bày tỏ những hiểu biết, suy nghĩ của bản thân trên trang giấy một cách thuyết phục, hấp dẫn. Đây chính là những nội dung chính chúng tôi trình bày trong SKKN này.. 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài 2.1. Nghị luận xã hội dạng đề mở: quan niệm và dạng thức 2.1.1. Đề nghị luận theo quan niệm truyền thống Trong quan niệm truyền thống, một đề văn nghị luận xã hội thường có hai phần: phần nêu vấn đề cần nghị luận và phần yêu cầu kiểu bài (tức thao tác lập luận). Nói cách khác, đó là dạng đề mệnh lệnh. Trong đề bài, không chỉ nêu vấn đề cần nghị luận mà cả yêu cầu thực hiện (mệnh lệnh) như: suy nghĩ, bình luận, giải thích, chứng minh,…Ví dụ các đề văn sau:.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> - Đề 1: Nhà thơ Pháp La Phôngten có nói: “Tính ích kỉ là thuốc độc giết chết tình bạn”. Hãy bình luận câu nói trên. (Làm văn 10 – Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000) - Đề 2. Giải thích câu tục ngữ: “Uống nước nhớ nguồn”. (Làm văn 10 – Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000) - Đề 3: Nhà bác học Đacuyn nói về kinh nghiệm thành công của mình như sau: “Tôi nghĩ rằng tất cả những gì có giá trị một chút, tôi đều đã thu nhận được bằng cách tự học”. Bình luận câu nói trên. Em có suy nghĩ gì về con đường học tập sắp tới của mình. (Làm văn 12 – Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000) Rõ ràng, những đề văn vừa nêu trên đều yêu cầu học sinh viết về một vấn đề cụ thể (tính ích kỉ giết chết tình bạn; uống nước nhớ nguồn, …), cùng sử dụng một hoặc hai thao tác lập luận (bình luận; giải thích; …) và dĩ nhiên là cùng một phương thức biểu đạt – văn nghị luận. Mặt khác, vấn đề nghị luận thường là một chân lí đã được thừa nhận (tác hại của tính ích kỉ; đạo lí truyền thống của dân tộc,…), học sinh thường không cần phản biện, chỉ việc làm rõ hay minh họa tính đúng đắn tư tưởng ấy. Về phía giáo viên, khi ra đề nghị luận cũng chỉ có một đáp án duy nhất dùng để chấm bài cho học sinh. Có thể, cách ra đề văn NLXH truyền thống sẽ tiện lợi cho người giáo viên và phần nào “dễ” hơn cho học sinh. Tuy nhiên, đúng như nhận xét của giáo sư Hoàng Như Mai viết: Cách ra đề các kì thi văn của chúng ta hiện nay còn khá khô cứng... Ra đề thi phải khơi dậy những suy nghĩ riêng đồng thời phải rèn luyện cho HS óc phê phán, nhìn vấn đề trên nhiều mặt. Cần tránh kiểu ra đề suôn sẻ, dạng thỏa hiệp một chiều (Sự rung cảm và sáng tạo của học sinh có nguy cơ mòn; Tạp chí Dạy và Học ngày nay số 6 – 2005).. 2.1.2. Quan niệm về đề mở Năm 2006, Chương trình và sách giáo khoa mới đã có nhiều đổi mới.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> trong cách kiểm tra, đánh giá học sinh, trong đó có sự đổi mới quan niệm về đề văn. Nhằm kích thích suy nghĩ phong phú, đa dạng của nhiều đối tượng học sinh, xu hướng ra đề văn nghị luận xã hội theo hướng mở ngày càng trở nên phổ biến. Theo chúng tôi, khái niệm đề mở được sử dụng trong sự so sánh với đề đóng hay đề truyền thống. - Đề đóng là đề có yêu cầu rõ ràng, cụ thể về nội dung vấn đề nghị luận; thao tác lập luận và cả phạm vi, tư liệu (giới hạn). - Đề mở là loại đề hoặc chỉ nêu vấn đề cần nghị luận, không nêu yêu cầu về thao tác lập luận (như: hãy chứng minh, giải thích, bình luận,...) cũng như giới hạn của đề. Ví dụ: Câu tục ngữ:“Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” thời nay có còn phù hợp? - Đề mở cũng có thể là loại đề mà nội hàm của vấn đề nghị luận tùy thuộc vào sự nhận thức của người viết. Ví dụ:  Thinh lặng là quê hương của kẻ mạnh.  Vì sao mà tôi sống trên đời ? Tất cả các loại đề mở đều không áp đặt tính chân lí – cụ thể đối với học sinh khi nghị luận về một vấn đề nào đó, cũng không bó buộc người viết trong một khung hình thức thể hiện nhất định.. 2.1.3. Các dạng đề mở thường gặp: Theo GS. TS Trần Đình Sử (Tlđd), có ba dạng đề mở thường gặp là: a, Đề cho đề tài: Đề chỉ cung cấp một đề tài chung, HS có thể cụ thể hóa thành đề mục hay nhan đề của bài viết. Ví dụ đề cho HS lớp 10: - Đề 1: Suy nghĩ về ngọn lửa. - Đề 2: Hãy viết bài văn về chủ đề người chiến thắng. - Đề 3: Suy nghĩ từ hạt giống..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> b, Đề cho tài liệu Đề cung cấp một bức tranh hoặc ảnh, hoặc một câu chuyện, một mẩu tin trên báo, HS tự chọn lấy vấn đề, chủ đề để viết bài văn. Ví dụ đề cho HS lớp 12: - Đề: Chọn một trong ba tài liệu dưới đây làm bài theo yêu cầu bên dưới: a. Báo Dương Thành buổi tối (Quảng Châu) tường thuật, khoảng 17g30 ngày 13-10-2010, tại một con đường nhỏ ở Quảng Phật Ngũ Kim Thành thuộc quận Nam Hải ở Phật Sơn, bé gái Duyệt Duyệt 2 tuổi đang lững thững đi ra đường đã bị một xe hơi loại bảy chỗ tông phải và cán lên phần gần đầu của bé. Lúc này bé Duyệt Duyệt còn cử động, tài xế cho xe dừng lại vài giây rồi thản nhiên cho xe chạy tiếp và bánh sau lại nghiến nát một phần thân thể bé gái. Chỉ vài phút sau, một chiếc xe tải nhỏ tiếp tục cán nát đôi chân bé gái này. b. Cậu bé 14 tuổi xả thân cứu người. Đây là lần thứ 3 Nguyên cứu người, lại là lần định mệnh cướp đi sinh mạng của em. Cả xã Bình Chánh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, những ngày qua xôn xao về sự ra đi của cậu học trò Trường THCS Bình Chánh. Trưa 8-9, sau khi tập tành múa lân đón tết Trung thu, nhóm trẻ khoảng 10 đứa rủ nhau đi tắm ao để giải nhiệt. Em Phạm Văn Thơ, học sinh lớp 6, không biết bơi lại lội ra xa cách bờ khoảng 3m thì sụp hố sâu đuối nước. “Trong khi em vùng vẫy thì được anh Nguyên cứu vào bờ”, cậu bé kể rồi khóc: “không ngờ ảnh kiệt sức...”. Người lớn đã cấp tốc đưa Nguyên đến Bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi để cấp cứu, song em kiệt sức lịm dần, rơi vào hôn mê sâu và không bao giờ tỉnh lại nữa... c. “Hiệp sĩ đường phố” lập công ba ngày liên tiếp. Đây là vụ thứ ba liên tiếp trong ba ngày “hiệp sĩ đường phố” lập công. Hai ngày trứơc, anh Tiến cũng đã bắt hai tên cướp giật dây chuyền trên đường Tô Hiến Thành. Sau đó, đôi trộm giàn giáo công trình ở quận 11 cũng bị anh bắt quả tang..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Ngưỡng mộ thành tích hàng trăm lần bắt cuớp của anh Tiến, nhiều người đã xin được làm “đệ tử” của anh, cùng anh rong ruổi trên khắp các tuyến đường Sài Gòn để bắt tội phạm. Hiện nay, nhóm”hiệp sĩ đường phố” có khoảng chục người. Đọc kĩ tài liệu đã chọn, tự xác định đề mục, viết bài làm văn nghị luận, biểu cảm không quá 800 chữ. (Trần Đình Sử: Đề mở trong dạy – học làm văn, trong Tạp chí Văn học và tuổi trẻ số 1 năm 2012). c, Đề cho học sinh điền vào chỗ trống: Đề đưa ra mệnh đề còn bỏ trống, HS điền vào chỗ trống để thể hiện quan niệm của bản thân. Ví dụ đề cho HS lớp 11: - Đề 1: Hạnh phúc là... - Đề 2: Tôi ước mong.... 2.1.4. Đề mở có nhiều lựa chọn: Ngoài những dạng đề trên, theo chúng tôi, cần có thêm dạng Đề nhiều lựa chọn. Với dạng đề này, HS vừa được gợi ý, vừa tự do lựa chọn hướng giải quyết theo suy nghĩ của bản thân. Đây cũng là cách hình thành cho HS độc lập suy nghĩ, thói quen nhìn cuộc sống ở nhiều góc độ và rèn luyện tư duy phản biện cho các em. Ví dụ đề cho HS lớp 12: - Đề 1: Phát biểu ý kiến về lối sống sành điệu của một bộ phận thanh niên hiện nay. - Đề 2: Con người sinh ra đã có tính hưởng thụ. Anh/ chị có đồng ý không? Theo anh/ chị tính hưởng thụ là tốt hay xấu? - Đề 3: Internet – ông thầy không mời mà đến – đang là mối bận tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ. Ý kiến của anh/ chị về vấn đề này. - Đề 4: Nhà sư phạm nổi tiếng V.A. Xu-khôm-lin-xki có viết: “Niềm tin và thế giới xúc cảm của con người có đạo đức đúng đắn, tâm hồn đẹp đẽ được xây dựng trên cơ sở khinh bỉ những điều không xứng đáng”..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Theo anh (chị), đối với một con người có đạo đức và tâm hồn đẹp đẽ, những điều gì là không xứng đáng ?. 2.2. Nghị luận xã hội dạng đề mở: tác dụng và yêu cầu 2.2.1. Tác dụng Việc ra đề mở trong nghị luận xã hội có nhiều tác dụng đối với học sinh: - Đề mở khuyến khích tối đa sự sáng tạo, cách cảm thụ, sự linh hoạt của người viết, rèn luyện khả năng độc lập suy nghĩ của học sinh trước một vấn đề tư tưởng, đạo lí hay một hiện tượng, sự việc trong đời sống. - Đề mở tạo cơ hội cho học sinh có dịp bộc lộ tư tưởng, tình cảm, suy nghĩ của cá nhân, đề xuất những ý kiến về cuộc sống, xã hội với những trải nghiệm của bản thân. - Đề mở rèn luyện cho học sinh khả năng tư duy phản biện xã hội, biết xem xét một vấn đề, một sự việc, hiện tượng trên nhiều bình diện khác nhau. - Đề mở tạo điều kiện cho người viết có những suy nghĩ trẻ trung, cảm xúc tươi mới, và quan trọng hơn, là thể hiện phẩm chất của con người thành thực, dám nghĩ và dám viết. Với đề mở, tình trạng học tủ, học vẹt, sao chép văn mẫu trong học sinh cũng sẽ bị hạn chế. Đối với giáo viên, việc ra đề mở trong nghị luận xã hội cũng có những tác dụng trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn nói chung, phân môn Làm văn nói riêng: - Đề mở có tác dụng giúp phân hóa trình độ học sinh trong kiểm tra, đánh giá. - Từ những tác dụng đối với học sinh khi làm văn, đề mở trong nghị luận xã hội góp phần tác động đến cả việc đổi mới giảng dạy và học tập ở bộ môn Ngữ văn. - Đề mở không chỉ tạo hứng thú cho học sinh trong khi nghị luận mà còn tạo hứng thú cho cả giáo viên khi ra đề cũng như chấm bài..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Dĩ nhiên, trên đây là những tác dụng tích cực của đề nghị luận xã hội theo hướng mở. Nói thế, không có nghĩa đối với dạng đề này không có những khó khăn, thậm chí phức tạp nhất định trong quá trình giảng dạy. Điều đó càng không có nghĩa là chỉ nên ra mỗi một loại đề không mệnh lệnh (đề mở), bỏ hẳn loại đề mệnh lệnh (đề đóng) trong nghị luận xã hội.. 2.2.2. Yêu cầu Việc ra đề / làm bài / chấm bài nghị luận xã hội theo dạng mở không chỉ mới mẻ mà còn là loại đề khó. Vì thế, học sinh và giáo viên cần nắm vững một số yêu cầu khi dạy học và làm văn: 2.2.2.1. Về phía học sinh: - Đề mở thường không nêu rõ các phương thức biểu đạt, thao tác lập luận, không có gợi ý về phạm vi, tư liệu, không có nghĩa là học sinh sẽ viết một cách tùy tiện. Trái lại, người viết phải hiểu rõ vấn đề từ nghĩa tường minh đến nghĩa hàm ẩn. Từ đó, lựa chọn và định hướng viết sao cho bài văn thể hiện được suy nghĩ sâu sắc, lối viết sáng tạo, có tính thuyết phục đối với người đọc theo hướng tích cực. Điều đó có nghĩa, chính người viết phải tự xác lập được phương thức biểu đạt, thao tác lập luận và phạm vi vấn đề nghị luận. - Đề mở không chỉ có tính mở về phương thức biểu đạt, thao tác lập luận hay phạm vi, tư liệu, mà đôi khi tính mở lại thể hiện ngay ở vấn đề cần nghị luận. Do đó, người viết cũng phải xác định nội hàm của vấn đề, dự liệu hướng yêu cầu của người ra đề. 2.2.2.2. Về phía giáo viên: - Đề ra theo hướng mở cần chọn được vấn đề mở, đặt người viết trước một tình huống bất ngờ, đa chiều, gợi được hứng thú làm bài cho học sinh. Vấn đề đặt ra vừa có chất văn, khơi gợi được cảm xúc, vừa gắn với cuộc sống, thường là những vấn đề xã hội và các em đang quan tâm, tránh xa lạ, nặng về học thuật, mà cũng không gượng ép. Đề ra theo hướng mở còn là cách giúp các em trưởng thành trong suy nghĩ, hướng các em đến lí tưởng đẹp, hoàn thiện dần tư cách của một công dân có trách nhiệm với xã hội..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Muốn vậy, người giáo viên phải cân nhắc đến tính vừa sức ở học sinh. Có những vấn đề nghị luận chỉ phù hợp với học sinh lớp 12 mà lại quá sức với học sinh lớp 10, càng khó khăn cho học sinh ở bậc trung học cơ sở. - Để học sinh có thể làm tốt dạng đề mở, giáo viên phải huấn luyện cho các em kĩ năng làm văn nghị luận, nhất là các kĩ năng: phân tích đề; lập ý, lập dàn ý; thao tác lập luận,… Nói rốt ráo, học sinh không có kĩ năng làm văn nghị luận thì đề đóng đã không thể thực hiện được, huống gì đề mở. - Tương ứng với việc ra đề mở, người giáo viên phải có đáp án mở và cách chấm mở. Đáp án mở là đáp án không cụ thể, chi tiết, không mang tính áp đặt, không đếm ý cho điểm, nhưng cũng không chung chung để dẫn đến việc cho điểm tùy hứng, thiếu công bằng. Đáp án mở vẫn có những yêu cầu nhất định về kiến thức, kĩ năng và tư tưởng tình cảm của người viết. Người ra đề và soạn đáp án cần phải lường trước khả năng học sinh có thể viết để lên phương án cho điểm. Cách chấm mở là cách chấm tôn trọng suy nghĩ và sự sáng tạo của người viết, không áp đặt cách giải quyết vấn đề theo lối một chiều.. 3. Hướng dẫn học sinh làm văn nghị luận xã hội theo dạng đề mở Để học sinh làm được bài văn NLXH theo đề mở, người thầy giáo cần có quá trình rèn luyện cho các em, có phương pháp dạy học phù hợp mới phát huy hết tác dụng của nó. Sau đây chúng tôi xin đề xuất những hoạt động dạy – học nhằm Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận xã hội theo đề mở:. 3. 1. Hoạt động dạy học hướng dẫn học sinh tích lũy kiến thức và vốn sống: 3.1.1. Ý nghĩa của việc tích lũy kiến thức và vốn sống.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Để có một bài nghị luận xã hội giàu tính thuyết phục, học sinh cần có lí lẽ sắc sảo và dẫn chứng phong phú. Có thể tích lũy kiến thức từ sách vở: lĩnh vực văn học, báo chí, bộ sách Hạt giống cho tâm hồn... ; kiến thức từ cuộc sống và trải nghiệm bản thân: đó là những gì các em quan sát hàng ngày, suy ngẫm về những sự việc xảy ra trong cuộc sống. Trải nghiệm bản thân, cách cảm, cách nghĩ của các em chính là nguồn tư liệu làm bài viết thêm phong phú và giàu sức thuyết phục. Việc tích lũy kiến thức và vốn sống sẽ rất hữu ích cho các em trong việc xây dựng các luận cứ, bao gồm lí lẽ và dẫn chứng.. 3.1.2. Hoạt động dạy học giúp học sinh tích lũy kiến thức và vốn sống Đa phần học sinh thường chưa có ý thức trong việc tích lũy tư liệu, không có thói quen đọc báo, xem thời sự để nâng cao hiểu biết thực tế đời sống. Do đó, giáo viên cần có các hoạt động dạy học giúp các em hình thành thói quen này. 3.1.2.1. Cách thức tiến hành hoạt động dạy học giúp học sinh tích lũy kiến thức và vốn sống: HĐ 1: GV cho bài tập về nhà. HĐ 2: GV đưa ra yêu cầu: - Quy định ngày, giờ nộp sản phẩm; - Quy định hình thức sản phẩm: gửi đến địa chỉ mail của giáo viên (đây là cách GV tập hợp sản phẩm của HS); - Quy định hình thức trình bày (bản word, font chữ...),… HĐ 3: Giáo viên tập hợp sản phẩm. HĐ 4: Giáo viên xóa tên học sinh, cho in thành nhiều bản, phát cho các học sinh trong lớp. HĐ 5:Học sinh đọc và bình chọn sản phẩm hay nhất (không chọn của mình). HĐ 6: Giáo viên thống kê, cho điểm và nhận xét, đánh giá..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> 3.1.2.2. Ưu điểm của hoạt động dạy học giúp học sinh tích lũy kiến thức và vốn sống Yêu cầu học sinh tích lũy kiến thức và vốn sống không phải là hoạt động dạy học mới của giáo viên. Khi dạy văn nghị luận, chúng ta vẫn thường nhắc nhở các em dẫn chứng phải cụ thể, xác thực, lí lẽ phải sắc sảo. Song, chúng ta chỉ dừng lại ở việc gợi ý nên làm, mà chưa tạo thành một yêu cầu, một thói quen cho học sinh. Chính vì thế, bài văn các em thường nghèo nàn về ý, dẫn chứng sáo mòn với những câu danh ngôn quen thuộc, những tấm gương chưa đọc đã biết. Và như thế, làm sao có được những bài văn suy nghĩ sâu sắc và giàu cảm xúc? Hoạt động dạy học trên có ưu điểm: - HS tự giác sưu tầm tư liệu, chọn tư liệu hay và bổ ích. - Trong quá trình tìm hiểu và chọn tư liệu, một cách tự nhiên học sinh đã đọc nhiều tư liệu khác, làm giàu vốn sống của bản thân, thấm nhuần tư tưởng cao cả. - Học sinh hình thành thói quen theo dõi thông tin về đời sống được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, điều mà trước đây có những em không hề quan tâm. - Kết thúc hoạt động dạy học, mỗi học sinh đều có một bộ tư liệu phong phú, phục vụ cho quá trình học lâu dài.. 3.1.3. Minh họa một vài bài tập giáo viên đã tiến hành: 3.1.3.1. Bài tập 1 a, Đề: Hãy sưu tầm một số câu danh ngôn mà anh/ chị chọn làm lẽ sống cho bản thân. Chọn một câu để viết một đoạn văn ngắn (dưới 10 câu) trình bày vì sao mình tâm đắc? b, Kết quả sản phẩm:  Đề trên được ra cho lớp 11 Văn, Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh (năm học 2012 - 2013). Lớp có tất cả 19 học sinh. Mỗi em sưu tập từ 3-4 câu danh ngôn. Tổng cộng cả lớp có hơn 50 câu danh ngôn.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> được sưu tập và 19 lời bình của các em về tư tưởng đã được chính các em cho là tâm đắc nhất.  Một số câu danh ngôn cùng lời bình của học sinh: - Hãy luôn khao khát, hãy cứ dại khờ (Stay hungry, stay foolish). (Kết thúc phát biểu của Steve Jobs tại lễ trao bằng tốt nghiệp trường ĐH Stanford). THANH THẢO: Khao khát - để ước mơ. Dại khờ - để dám biến ước mơ thành hiện thực. Khao khát và dại khờ, ấy là khởi đầu cho mọi điều tốt đẹp hơn đến với thế giới này. Trước khắc nghiệt cuộc đời, không khao khát, không dại khờ, thì bạn và tôi sẽ uổng phí thời gian ngắn ngủi để sống trong vỏ bọc an toàn. Không dám làm gì, chẳng có được gì, và chẳng là gì cả. - Chính lựa chọn của chúng ta, chứ không phải khả năng, mới chứng tỏ chúng ta thực sự là ai (It's our choices that show what we truly are, far more than our abilities) (J.K.Rowling, trích Harry Potter và Phòng chứa Bí mật). THANH THẢO: Hồi nhỏ xem phim Gọi giấc mơ về, tôi nhớ hoài một câu của người ông làm nghề nước mắm nói với cô cháu gái: Cá loại một thì sẽ làm ra được nước mắm loại một, nhưng nước mắm loại một không phải tất cả đều làm từ cá loại một. Cá hay người thì cũng vậy thôi. Cái quan trọng không phải tôi có gì, mà là tôi sẽ làm gì với những điều tôi có. Có ít hơn so với người khác, nhưng biết vận dụng, vẫn có thể thành không. Có tất cả, mà dùng sai mục đích thì cũng là vô ích. Vả lại, có bao giờ ta đánh giá được hết khả năng của chính mình mà dựa vào đó để ngại ngần? - Hạnh phúc là một hành trình, không phải một điểm đến (Happiness is a journey, not a destination) (Paulo Coelho, trích Nhà giả kim). - Bạn có thể thất vọng nếu thất bại, nhưng sẽ sụp đổ đến tận cùng nếu từ bỏ mọi ước mơ. (Miguel de Unamuno). HOÀNG THỊ MAI DUNG: Ước mơ nuôi dưỡng tâm hồn con người. Từ bỏ ước mơ cũng đồng nghĩa rằng ta đã đánh mất sức sống tâm hồn, đánh mất điểm tựa của niềm tin. Thất.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> bại chưa phải là chấm hết, nếu như còn biết ước mơ thì ước mơ ta ấp ủ sẽ là ngôi sao chỉ đường định hướng ta đến thành công. Câu danh ngôn đã luôn thôi thúc tinh thần, làm động lực và nhắc nhở nhở không nên từ bỏ ước mơ. - Ý nghĩa của cuộc sống không phải ở chỗ nó đem đến cho ta điều gì, mà ở chỗ ta có thái độ đối với nó ra sao; không phải ở chỗ điều gì xảy ra với ta, mà ở chỗ ta phản ứng với những điều đó như thế nào. (Lewis L. Dunnington). HOÀNG THỊ MAI DUNG: Câu danh ngôn nhắc nhở về ý nghĩa của cuộc sống là gì và đem đến cho em thái độ tích cực trước những gì cuộc sống mang đến, từ đó có suy nghĩ trưởng thành hơn khi đối diện với khó khăn thử thách. - Dù nó thật tồi tàn đi nữa, nhưng không nơi nào có thể sánh được với mái ấm gia đình. J.H.Payne. ĐẶNG BÍCH NGỌC: Có lẽ không nơi nào trên Trái Đất có thể đem đến cho bạn cảm giác yên bình cho bằng gia đình. Gia đình, với những con người luôn yêu thương bạn, dù bạn là ai, bạn đến từ đâu, bạn như thế nào. Tình yêu của những người trong gia đình là thứ tình cảm mãnh liệt và vô vị lợi. Gia đình không chỉ là nơi nuôi dưỡng thể chất mỗi người mà đó còn là mảnh đất màu mỡ để ươm mầm cho những ước mơ, rèn luyện những giá trị đao đức tốt đẹp cho mỗi con người. Và hơn hết thảy, khi bạn đã đi khắp nơi, trải qua bao thăng trầm trong cuộc sống, đối diện với những vấp ngã, những phản bội, những lừa lọc, giả tạo, cuối cùng chỉ khi ở bên gia đình bạn mới cảm thấy thoải mái nhất, yên bình nhất, và HẠNH PHÚC nhất. - Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim người khác. (Xukhômlinski ). TRÀ GIANG: Câu danh ngôn này em thích ở mặt tư tưởng bởi thể hiện rõ lí do của sự sống của con người trong cõi đời. Nó khiến cho em phải nhìn nhận lại chính mình, nhìn lại một phần đời mà mình đã đi qua. Và từ đây, em có thể xác định rõ hơn mục tiêu, mục đích sống của bản thân, nhắc nhở em phải sống thế nào cho ý nghĩa..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> - Sự tranh biện và cãi lẽ, có thể làm cho người khác ngượng được, nhưng thắng như vậy thì có ích gì đâu, vì không khi nào làm cho người ta thành thật đồng ý với mình hết. (Franklin). NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH: Đa phần con người vì cái tôi và sĩ diện sẽ cố chấp không nhận sai về mình khi bị người khác chỉ trích và đả kích mạnh mẽ, cho dù bản thân nhận thấy mình không đúng. Vì thế, khi em không hài lòng, em không muốn cố cãi lại hay chống đối, như trong Kinh Thánh đã ghi: “Câu trả lời nhã nhặn của bạn đã làm tiêu tan hết mọi giận dữ”. Thay vì làm hả hê bản thân khi chiến thắng trên sự nhục nhã của người khác, hãy suy nghĩ thấu đáo, khiêm tốn, nhẹ nhàng giúp họ nhận sai. - Bạn sẽ tìm thấy niềm vui khi giúp đỡ người khác bằng tất cả tấm lòng. (Paul Newman). NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH: Em hoàn toàn có thể cảm nhận được câu nói này mỗi khi thật lòng giúp đỡ người khác. Niềm vui không đơn thuần ta nhận được nhiều yêu thương mà còn từ việc ta biết sẻ chia nó. Khi thật sự trải lòng, em không còn quan tâm vật chất nữa, không quan tâm mình mất gì, mà chỉ có thể cảm nhận được niềm vui khi làm cho người khác hạnh phúc. Em không đòi hỏi nhận được nơi họ nụ cười hoặc lời cảm ơn, chỉ cần thấy họ nhận lấy sự giúp đỡ của em, điều đó đã làm em hạnh phúc. - Ngu ngốc không phải là do thiếu kiến thức, không phải là do không muốn học mà do tin rằng đã biết hết tất cả. (Anita Joachim-Daniel).. TRẦN THỊ BẢO YẾN: Tự tin vào chính mình là một điều tốt, góp phần đưa con người đi đến thành công, song tự tin thái quá, cho rằng mình hơn người lại là một con dao sắc nhọn từng bước bào mòn sự thành công trong mỗi chúng ta. Con người ta luôn phải học hỏi không ngừng để hoàn thiện chính mình và thái độ “tự tin rằng đã biết hết tất cả” là một vật cản vô cùng lớn lao trên bước đường thành công. Vì thế, tôi luôn tập cho mình một thái độ sống khiêm nhường, học hỏi và chọn lọc mọi thứ, vì tôi biết rằng, mình là một người chưa hoàn hảo, vẫn còn nhiều khiếm khuyết trên bước đường nắm bắt cuộc sống..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> 3.1.3.2. Bài tập 2 a, Đề: Hãy kể về một tấm gương làm ảnh hưởng tới lối sống hoặc suy nghĩ của anh/ chị. b, Kết quả sản phẩm:  Đề trên cũng được ra cho lớp 11 Văn, Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh (năm học 2012 - 2013). Kết quả có 15 bài viết kể về tấm gương ảnh hưởng đến lối sống và suy nghĩ của các em. Nếu phân tích kĩ các bài viết, chúng ta sẽ thấy có nhiều điều thú vị về suy nghĩ của những người trẻ, không riêng gì kĩ năng nghị luận xã hội. Chẳng hạn, trong số 15 bài viết, chỉ có 2 bài trùng nhau về danh nhân được lựa chọn (Thomas Edison). Trong số các tấm gương được các em cho là thần tượng có các chính trị gia (Abraham Lincol, Chủ tịch Hồ Chí Minh), nhà khoa học (Thomas Edison, Marie Curie), doanh nhân (Đặng Lê Nguyên Vũ, Steve Jobs), những vượt lên số phận nghiệt ngã của mình (Satoshi Fukushima, Hellen Keller, Bethany Hamilton, Bạch Quang Thái),… Đặc biệt, có đến 5 tấm gương là người Việt Nam (Bác Hồ, Nguyễn Thị Phương, Bạch Quang Thái, Nguyễn Thị Khánh Huyền, Đặng Lê Nguyên Vũ). Qua cách giới thiệu của các em, tấm gương nào được lựa chọn cũng đều có những nét đặc biệt, thực sự xứng đáng là “tấm gương”.  Một số tấm gương được học sinh lựa chọn: - TRẦN THỊ BẢO YẾN: Trong cuộc đời mỗi con người, hai chữ “thần tượng” có vẻ là một khái niệm rất rộng. Chúng ta thần tượng cha mẹ – những con người mẫu mực đáng để noi theo, chúng ta thần tượng một nhóm nhạc Hàn Quốc, vì họ hát hay, nhảy đẹp… Không quan trọng là bạn yêu thích hay ngưỡng mộ ai, điều căn bản ở đây là qua những con người ấy, bạn học được điều gì – trở thành một con người như thế nào? Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà nước ta lại phát động “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Bác đúng là một tấm gương sáng để mọi người học tập, chẳng những qua các hoạt động chính trị lớn lao mà ngay trong những việc nhỏ nhặt nhất, Bác luôn khéo léo.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> biến mọi việc dù phức tạp cũng trở nên giản đơn vô cùng. Đó là một đức tính mà tôi luôn rèn luyện, học hỏi từ Bác. Năm 1929, khi các tổ chức cộng sản được thành lập, đất nước ta chưa kịp reo ca vì tìm được chính Đảng lãnh đạo thì mọi người lại một lần nữa hoang mang vì các tổ chức này hoạt động riêng rẽ, đều cho rằng chủ trương của mình là đúng đắn, không ai chịu ai. Trước tình hình đó, đầu năm 1930, Bác Hồ đang từ Xiêm phải trở về nước để chủ trì hội nghị họp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất. Cuộc họp diễn ra sôi nổi, những người đại diện các tổ chức cộng sản đều đưa ra những lí lẽ thuyết phục người khác, duy chỉ có Bác là vẫn ngồi yên. Đến khi gần kết thúc buổi họp, Bác đột ngột đứng dậy. Mọi người im lặng. Người không nói nhiều, chỉ hỏi có một câu: - Ai trong các anh không phải người Việt Nam thì bước ra đây!… Một sự yên lặng kéo dài… Sau vài phút không thấy ai lên tiếng Bác mới nói tiếp: - Nếu tất cả là người Việt Nam thì tại sao lại phải phân chia đảng phái này nọ, sao không tổ chức thành một đảng duy nhất để tiến hành giải phóng đất nước chúng ta trong lúc nguy cấp này… Thêm một khoảng thời gian yên lặng… Và… bây giờ… chúng ta có một Đảng cộng sản lãnh đạo duy nhất; một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; một đất nước hòa bình – dân chủ. Thế đó, không phải cứ nói nhiều là thành công. Quan trọng là tôi và bạn phải biết cách nói như thế nào, nói vào lúc nào… Quan trọng là cách tôi và bạn ứng xử như thế nào trước một sự việc… Quan trọng là cách tôi và bạn kiểm soát được chính mình và thuyết phục người khác ra sao… Tất cả những điều ấy tưởng như đơn giản nhưng một khi đưa vào thực tiễn, bạn sẽ thấy nó khó đến mức nào. Không phải ngẫu nhiên khi Bác có rất nhiều hành động to lớn, tốt đẹp mà tôi lại chọn mẫu chuyện rất nhỏ này về Bác. Mọi việc phải được bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt nhất, có như thế, tôi và bạn mới có thể thành công, mới có thể làm nên sự khác biệt giữa mấy tỉ người trên trái đất này. Thái độ bình tĩnh của Bác khi đứng trước một đám đông đang chia rẽ nhau thật bình tĩnh, dõng dạc. Bác dùng lí lẽ của chính mình để chống lại những lí lẽ rất “có lí” khác. Một câu hỏi, một lời nói bình thường nhưng đúng lúc và đúng mục đích, lại đem đến cho con người ta một kết cục không ngờ. Tôi và bạn nói và làm rất nhiều nhưng liệu có bao lần chúng ta nói đúng, bao lần nói hay? Cách chúng ta cư xử với mọi người trong cuộc sống thường ngày.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> liệu đã gọi là khéo léo, liệu đã đáng được gọi là “có văn hóa ứng xử”? Thế đấy, Bác lại dạy cho tôi và bạn thêm một bài học. Cái tôi cần học còn rất nhiều, song tôi sẽ học từ những điều nhỏ nhặt nhất, bình thường nhất, để làm nên những cái vĩ-đại-nhất. - NGUYỄN LÊ HỒNG NHUNG: Chúng ta – thế hệ trẻ ngày nay nhiều lúc vẫn thầm trách ông trời bất công, trách sao cuộc đời quá bất hạnh, trách mình không được như người này người kia để rồi ủ dột, buồn chán và cả ganh tị, ghen ghét. Nhưng bạn có biết không? Sinh ra là một con người toàn vẹn có đầy đủ các giác quan thì bạn quả thực đã rất may mắn rồi. Bạn nhất định phải cảm ơn ông trời vì điều đó. Có lẽ bốn tiếng “ông trời bất công” chỉ có thể để Hellen Keller – nhà văn, nhà hoạt động xã hội người Mĩ nói lên mà thôi. Bởi người phụ nữ đáng thương ấy chỉ được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, lắng nghe âm vang cuộc sống, bập bẹ tiếng “mẹ, cha” trong mười chín tháng đầu đời. Mười chín tháng sau căn bệnh quái ác – viêm màng não đã làm hỏng mất đôi mắt và sau đó tai cũng bị điếc. Không thể nhìn, không thể nghe thế nên không thể nói là điều tất nhiên. Con người ta bị một trong ba khiếm khuyết ấy cũng đã đau đớn lắm rồi thế mà bà phải gánh chịu tất cả. Những tưởng như thế là kết thúc một cuộc đời như nụ hoa chưa nở đã tàn. Nhưng không, Hellen vẫn tiếp tục sống, chống chọi với số phận. Qua lời khuyên của bác sĩ, bà được gia đình đưa tới học tại trường Perkins dành cho người mù. Tại đây, Keller đã được gặp một cô gia sư vừa mới tốt nghiệp tên là Anne Sullivan và từ đây bắt đầu một tình bạn kéo dài suốt 49 năm trời. Anne Sullivan là người đã dạy Hellen tập nói. Những năm tháng đầu rất khó khăn song nhờ sự nỗ lực của cả cô trò, Keller đã có thể nói ra điều mình mong muốn cũng như bày tỏ suy nghĩ, quan điểm bản thân. Khi 8 tuổi, Keller đã bộc lộ rõ tài năng vượt trội về các môn toán, địa lí, sinh học, tập đọc; bà còn học cả bơi, chèo thuyền, cưỡi ngựa, đi xe. Sau đó, Keller vào học trường nữ học tiểu bang Massachusetts. Cô giáo Anne luôn luôn ở bên cạnh Keller để viết lại nội dung bài giảng vào lòng bàn tay Keller. Năm 1900, Keller thi đậu vào trường cao đẳng Radcliffe College, học tài liệu chữ nổi dành cho người mù. Bà kiên trì học tới mức khi nào đầu ngón tay rớm máu mới chịu dừng. Hai năm sau khi tốt nghiệp, Keller được vinh dự được bầu vào chức chủ tịch hội người mù tiểu bang Massachusetts, bắt tay vào công việc xã hội phục vụ cho cộng đồng người mù. Keller đón tiếp rất nhiều người mù, trả lời nhiều thư từ và đi thuyết giảng lưu động tại 39 nước trên thế giới. Bà không quản ngại vất vả, cống hiến hết sức mình cho chương trình giáo dục và chữa trị cho.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> người mù. Năm 1920, với sự phấn đấu không mệt mỏi, Keller đã thành lập được Hội người mù toàn nước Mĩ. Tổ chức này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Quả thực, cuộc đời Hellen Keller là cả một câu chuyên đầy đáng thương nhưng sáng ngời hơn cả là đáng trọng, đáng nể phục. Rõ ràng, tàn nhưng không phế, Hellen Keller không chỉ sống mà còn sống vô cùng có ích, vô cùng tốt đẹp. Bà làm được những việc mà những người may mắn như chúng ta khó có thể thực hiện. Và Hellen Keller – cái tên ấy sẽ là ánh sáng chỉ đường cho tôi, cho bạn, cho mọi người để vươn tới một cuộc sống hoàn thiện hơn, là động lực để ta đứng dậy sau mỗi vấp ngã. Vâng, một ý chí kiên cường, một nghị lực phi phường, một tấm lòng nhân hậu, vượt qua nghịch cảnh để sống, để vươn lên, khẳng định mình với cuộc đời, bà xứng đáng là tấm gương chói ngời cho bao thế hệ ngày sau. - ĐẶNG BÍCH NGỌC: Steve Jobs – biểu tượng cho sự thành công của hãng Apple nổi tiếng, một trong những "ông vua" của công nghệ. Không chỉ vậy, ông còn là tấm gương về một con người có nghị lực kiên cường và lòng đam mê công việc mà nước Mĩ và cả thế giới biết tới. Steve Jobs có một tuổi thơ không hạnh phúc, bị bố bỏ rơi, người mẹ gửi ông làm con nuôi trong một gia đình lao động. Con đường đi học của ông cũng gặp nhiều khó khăn khi phải rời trường đại học vì không đủ tiền trả học phí. Tuy nhiên, hoàn cảnh không làm ảnh hưởng đến một con người đầy hoài bão, Steve Jobs nuôi giấc mơ sau này dựng lên một công ty trị giá 10 tỷ. Và quả thật sau này, công ty Apple do ông dựng nên trị giá 350 tỷ đô la và ông được cả thế giới nhớ tới như một doanh nhân lỗi lạc. Tuy nhiên, không có thành công nào lại quá dễ dàng đạt được. Steve Jobs từng đứng trước nguy cơ phá sản, nhưng với sự bình tĩnh, kiên cường, Jobs đã giúp Apple hồi sinh thần kì. Công ty Apple trở thành công ty nổi tiếng toàn thế giới. Ông từng nói rằng: "Tôi cho rằng khi bạn làm một điều gì đó tốt thì bạn nên cố gắng tạo ra những điều tốt hơn nữa. Đừng chìm đắm trong những thành công quá lâu mà phải tạo ra những thành công mới”. Steve Jobs trở thành thần tượng của mọi thanh niên đang mang ước mơ làm giàu. Bản thân em khi biết về con người ông cũng thật sự ngưỡng mộ, khâm phục. Một con người mang đầy khát vọng và có đủ ý chí, lòng đam mê để biến giấc mơ thành sự thật. Ở ông, em học hỏi được về niềm say mê công việc, sự lao động hết mình và sự kiên trì đến không ngờ. Cơ hội không lựa chọn một ai, chính bản thân con người tạo ra cơ hội. Muốn đạt được điều mình muốn, phải nỗ lực hết mình dẫu trải qua khó khăn,.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> nhưng khi đã thành công cũng không nên tự kiêu, thỏa mãn. Steve Jobs là một tấm gương về khả năng kì diệu của con người, ông mãi mãi được nhớ đến.. 3.2. Hoạt động hướng dẫn học sinh có thói quen suy nghĩ về những vấn đề tư tưởng, đạo lí và đời sống: 3.2.1. Ý nghĩa của thói quen suy nghĩ về những vấn đề tư tưởng, đạo lí và đời sống - Nghị luận là một trong những kiểu văn bản quan trọng trong đời sống xã hội của con người, có vai trò rèn luyện tư duy, năng lực biểu đạt những quan niệm, tư tưởng sâu sắc trước đời sống. Có thể nói, không có văn nghị luận thì khó mà hình thành các tư tưởng mạch lạc và sâu sắc trong đời sống. Có năng lực nghị luận là một điều kiện cơ bản để con người thành đạt trong cuộc sống xã hội. - Văn nghị luận thực chất là văn bản thuyết lí, văn bản nói lí lẽ nhằm phát biểu các nhận định, tư tưởng, suy nghĩ, quan điểm, thái độ trước một vấn đề đặt ra. Do đó, muốn làm văn nghị luận tốt, người viết phải có khái niệm, có quan điểm, chủ kiến rõ ràng, biết sử dụng khái niệm, biết tư duy lôgic, đồng thời biết vận dụng các thao tác lập luận, tức là biết tư duy trừu tượng. Văn nghị luận sẽ rèn cho con người năng lực tư duy, kĩ năng nghị luận và tinh thần tự chủ trước cuộc sống. - Mặt khác, chính từ việc suy nghĩ, bàn bạc các vấn đề về tư tưởng, đạo lí, các sự việc, hiện tượng đời sống sẽ giúp người viết trưởng thành trong suy nghĩ, góp phần làm cho đời sống tinh thần của bản thân thêm phong phú, qua đó xây dựng cho mình lối sống văn minh, quan hệ ứng xử trong cộng đồng ngày một tốt đẹp, góp phần đã hình thành thế giới quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ. Từ đó, hướng đến những lí tưởng sống cao đẹp. 3.2.2. Hoạt động dạy học giúp học sinh có thói quen suy nghĩ về những vấn đề tư tưởng, đạo lí, đời sống: Trên thực tế hiện nay, đa phần học sinh chưa viết văn bằng chính suy nghĩ của mình. Lối nói theo, viết theo, rập khuôn đang là hiện tượng phổ biến trong các bài văn. Một số em có suy nghĩ riêng thì lại non nớt,.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> hời hợt, thậm chí sai lệch. Do đó, giáo viên cần có các hoạt động dạy học giúp các em có thói quen suy nghĩ, bàn bạc về những vấn đề tư tưởng, đạo lí, hay các sự việc, hiện tượng của đời sống; có ý tưởng đúng đắn, phong phú, đồng thời biết thể hiện chính kiến của mình trước vấn đề, hay sự việc, hiện tượng đó. 3.2.2.1. Cách thức tiến hành hoạt động dạy học: HĐ 1: Giáo viên cho một câu hỏi. Nội dung câu hỏi nên là những vấn đề gần gũi, quen thuộc và thú vị đối với học sinh. HĐ 2: Giáo viên yêu cầu suy nghĩ nhanh và viết ngắn gọn ra giấy ý kiến của mình. HĐ 3: GV mời từng học sinh trình bày suy nghĩ của bản thân. HĐ 4: GV chia sẻ suy nghĩ với học sinh. 3.2.2.2. Ưu điểm của hoạt động dạy học Giáo viên đặt ra những tình huống: - Quá khứ, hiện tại và tương lai. Theo em, “thì” nào quan trọng nhất? - Người ta thường quan tâm đến hạnh phúc. Vậy với em, thế nào là bất hạnh? Đây là những câu hỏi đơn giản nhưng thực tế cho thấy, nhiều em, cũng tỏ ra lúng túng, chưa xác định chính kiến của mình chỉ vì chưa có quen suy nghĩ thấu đáo về một vấn đề. Hoạt động dạy học trên rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy, phản xạ nhạy bén khi đứng trước một tình huống buộc phải bày tỏ quan điểm cá nhân. Biết tìm được những câu hỏi có vấn đề, kích thích được suy nghĩ của học sinh, tạo cơ hội cho người học trình bày hiểu biết, chính là mục đích của hoạt động dạy học này. Thường xuyên tiến hành bài tập ngắn như trên, chắc chắn học sinh chúng ta sẽ trưởng thành trong suy nghĩ, chín chắn trong hành động. Mặt khác ý tưởng của các bạn khác sẽ gợi lên trong các em bao điều mới mẻ và thú vị. 3.2.2.3. Minh họa một bài tập giáo viên đã tiến hành.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> - Giáo viên đặt câu hỏi: Khi nào em cảm thấy hạnh phúc nhất? - Học sinh có 5 phút suy nghĩ và trả lời ngắn gọn trên giấy. - Giáo viên mời học sinh trình bày. - Sau mỗi ý kiến của học sinh, giáo viên cần chia sẻ, có thể đồng tình, phản bác hoặc uốn nắn suy nghĩ của các em. Gọi là chia sẻ vì với bài tập này, giáo viên cần tuyệt đối tôn trọng ý kiến học sinh. Có như vậy các em mới mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ của mình. - Giáo viên đưa ra một quan niệm về hạnh phúc: HẠNH PHÚC Trần Thanh (từ Internet) Hạnh phúc có là mong manh nhất? Hãy nghĩ hạnh phúc đơn giản thôi Hạnh phúc là khi ta Có thể đi, đứng, ngồi, ăn, nằm như bao người. Có thể nghe, nhìn, ngửi, nếm, sờ, cảm nhận một cách bình thường. Có thể nói, khóc, cười như một lẽ tự nhiên. ….để biết là ta lành lặn Hạnh phúc là khi ta Có nhà đề ờ Có cái để ăn Có đồ để mặc ….để biết ta đầy đủ Hạnh phúc là khi ta học tập làm việc thư giãn …để biết ta tồn tại Hạnh phúc là khi ta yêu thương và được yêu thương ….để biết ta đang sống.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Hạnh phúc là khi ta Có người đề yêu thương Có gia đình Có bạn bè Có người yêu [vô hình] …để biết ta không đơn độc Hạnh phúc là khi ta đọc một truyện ngắn hay xem một bộ phim hay nghe một bản nhạc hay xem một cái clip hay … để biết ta vẫn có đủ thời gian làm mấy trò nhàm chán Hạnh phúc là khi ta nhận được tin nhắn từ ai đó và biết rằng một giây phút nào đó có người nghĩ đến ta ai đó đế biết rằng có ai đó muốn nghe giọng ta nhận được vài dòng offline để biết ai đó cần ta. ail đế biết ai đó muốn chia sẻ với ta những bí mật nhận được một vài dòng reply để biết ta ko bị lãng quên hay đơn giản là không nhận được gì cả nhưng ta biết ta đang ở đâu đó trong một câu chuyện nào đó được nói ra, viết ra, hay chôn giấu đâu đó …để biết ta không vô hình. 3.3. Hoạt động hướng dẫn học sinh phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận xã hội dạng đề mở 3.3.1. Phân tích đề - Phân tích đề là suy nghĩ kĩ để nhận thức đúng và đủ các ý nghĩa và yêu cầu của đề..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> - Đối với loại đề nghị luận xã hội có tính truyền thống, các yêu cầu của đề được nêu cụ thể: yêu cầu về nội dung (còn gọi là luận đề), yêu cầu về thao tác lập luận (trước đây gọi là kiểu bài), yêu cầu về tài liệu (còn gọi là phạm vi dẫn chứng). Ví dụ 1: “Kĩ năng đầu tiên và quan trọng nhất mà bạn cần có trong một thế giới hiện đại là khả năng học phương pháp học – nghĩa là thường xuyên tiếp thu và học hỏi những phương pháp mới để làm những công việc cũ hay những phương pháp mới để làm những công việc mới… Trong một thế giới như vậy không chỉ kiến thức mà cả phương pháp học hỏi của bạn mới tạo ra giá trị riêng. Bởi những kiến thức bạn có ngày hôm nay sẽ trở nên lỗi thời nhanh hơn bạn tưởng nhiều” (Theo Phrít men, Thế giới phẳng, NXB Trẻ, 2005). Giải thích ý kiến trên. Từ lời khuyên của Phrít - men, anh/ chị sẽ vận dụng vào quá trình học tập như thế nào? Yêu cầu về nội dung: Học phương pháp học. Yêu cầu về thao tác lập luận: Giải thích, chứng minh, bình luận. Yêu cầu về tài liệu: Quá trình học tập của bản thân - Đề nghị luận xã hội mở là loại đề chỉ nêu vấn đề cần bàn luận (luận đề), không có yêu cầu về thao tác lập luận, không giới hạn phạm vi tư liệu. Đôi khi tính mở của đề còn thể hiện cả ở vấn đề nghị luận (đã trình bày ở mục 2.1: Nghị luận xã hội dạng đề mở: quan niệm và dạng thức – NV). Do đó bản thân người viết phải tự xác định cho đúng các yêu cầu của đề để nghị luận có tính thuyết phục. Ví dụ 2: Anh/ chị suy nghĩ gì về vấn đề học phương pháp học đối với con người trong thế giới hiện đại. Thoạt tiên, ai cũng nghĩ, đề mở như vậy dễ hơn đề đóng. Song, nếu với ví dụ (2), rõ ràng, đề đóng ở ví dụ (1) dễ hơn, ở chỗ có sự gợi ý cho người viết hướng suy nghĩ, cách lập luận và cả giới hạn vấn đề. Chính vì vậy, giáo viên cần có những hoạt động dạy học hướng dẫn học sinh kĩ năng phân tích đề cho thật trúng và đúng với đề nghị luận xã hội dạng mở..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Cách thức tiến hành hoạt động dạy học như sau: HĐ 1: Tìm từ khóa quan trọng trong luận đề. HĐ 2: Giáo viên yêu cầu học sinh suy nghĩ nhanh và viết ngắn gọn ra giấy ý kiến của mình. HĐ 3: Học sinh chọn hướng giải quyết vấn đề, tôn trọng ý kiến của bản thân trên cơ sở có cái nhìn tích cực. HĐ 4: Học sinh chọn thao tác lập luận chính (Trong quá trình lập dàn ý sẽ chọn thao tác lập luận phụ để tăng sức thuyết phục cho bài viết).. 3.3.2. Tìm ý và lập dàn ý - Bước tìm ý thường được thực hiện bằng cách đặt ra những câu hỏi và tìm cách trả lời. Việc đặt câu hỏi thực chất là biết soi sáng đối tượng dưới nhiều góc độ, biết lật đi lật lại vấn đề để tìm hiểu, xem xét cho kĩ càng và thấu đáo hơn. Số lượng câu hỏi phụ thuộc vào nội dung của đề bài, khả năng tư duy trước những tình huống có vấn đề của người học. - Trước hết, đặt ra câu hỏi với những từ khóa đã được gạch chân trong phần luận đề. Sau đó, đặt ra những câu hỏi mang tính chất liên hệ, mở rộng. Chọn lựa những câu hỏi nào đúng trọng tâm đề, loại bỏ những câu hỏi dễ dẫn đến lạc đề, thừa ý, không cần thiết. - Khi đã đặt ra số lượng câu hỏi tương đối đầy đủ, tìm được câu trả lời, một thao tác quan trọng khác là học sinh phải biết biến câu trả lời thành các luận điểm, sắp xếp các luận điểm theo một trình tự nhất định, đảm bảo tính khoa học và hợp lí. Việc sắp xếp ý khoa học, hợp lí sẽ làm cho bài viết trở nên mạch lạc, rõ ràng. - Sau khi có dàn ý, HS chọn thao tác lập luận thích hợp, tìm dẫn chứng.. 3.3.3. Minh họa một bài tập giáo viên đã tiến hành Đề 3: Internet – ông thầy không mời mà đến – đang là mối bận tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ. Ý kiến của anh/ chị về vấn đề này.. - GV hướng dẫn HS phân tích đề:.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> +, Chọn từ khóa: Internet; mối bận tâm. +, Xác định nội dung luận đề: Mối bận tâm của cha mẹ về ảnh hưởng của internet đối với con cái (Không bàn sâu về tiện ích và tác hại của internet). - GV hướng dẫn HS tìm ý bằng cách đặt câu hỏi: +, GV yêu cầu HS đặt tất cả các câu hỏi xoay quanh đề (Chẳng hạn: Internet là gì? Vì sao gọi là ông thầy không mời mà đến? Cha mẹ có nên lo lắng không? Vì sao? Thái độ của cha mẹ khi con cái sử dụng internet? Thái độ của con cái?,…). +, Giáo viên phân tích cho HS câu hỏi nào đạt và nên dùng, câu hỏi nào chưa đạt vì không cần thiết và có thể dẫn đến lạc đề. - GV hướng dẫn HS lập dàn ý: +, Từ hệ thống câu hỏi đã tìm, hình thành hệ thống luận điểm, luận cứ. +, Chọn thao tác lập luận cho từng luận điểm, luận cứ. - Sản phẩn của hoạt động (Xem mục 4). 3.4. Hoạt động hướng dẫn học sinh viết bài văn bài văn nghị luận xã hội dạng đề mở 3.4.1. Hướng dẫn học sinh phân tích đề, lập dàn ý, viết bài văn là hoạt động dạy học thường xuyên và quen thuộc của thầy giáo. Vì vậy, trong SKKN này, chúng tôi xin không nói tới những thao tác chúng ta vẫn tiến hành với HS. Ở đây, chỉ nhấn mạnh những lưu ý đối với bài NLXH dạng đề mở. 3. 4.2. Như trên đã trình bày, làm văn nghị luận xã hội dạng đề mở nhằm khuyến khích tính tích cực trong hoạt động học tập, rèn luyện khả năng độc lập suy nghĩ, phát huy tính sáng tạo của học sinh. Cho nên, giáo viên nên nhắc nhở học sinh một số điểm sau: - Bài văn nghị luận xã hội dạng đề mở khuyến khích các em tự do bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của mình trước những vấn đề về tư tưởng, đạo đức, lối sống... Nhưng tự do không có nghĩa là học sinh được viết tùy tiện mà cần trình bày nghiêm túc, chín chắn tư tưởng của mình với tư.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> cách là công dân trẻ sống trách nhiệm, có lí tưởng cao đẹp, muốn xây dựng đất nước. - Nghị luận xã hội dạng đề mở đề cao suy nghĩ độc lập và chân thật của người viết. Cho nên, học sinh nên xuất phát từ bản thân mình khi đánh giá một vấn đề, một hiện tượng mà đề đặt ra. Nghĩa là, nên từ hoàn cảnh, vốn sống, lứa tuổi, cá tính... mà nhìn nhận vấn đề, tránh công thức, nói theo những điều sáo rỗng. Có như vậy mới dễ thuyết phục người đọc cả về lí và tình. - Nghị luận xã hội dạng đề mở nhằm phát huy tính sáng tạo của học sinh nên người viết cần tìm một hình thức trình bày hợp lí và độc đáo, chọn thao tác lập luận phù hợp. Lời văn nên giản dị, sinh động, giàu chất văn.. 4. Giới thiệu một số đề và bài làm của học sinh 4.1. Đề: Internet – ông thầy không mời mà đến – đang là mối bận tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ. Ý kiến của anh/ chị về vấn đề này? Bài làm Mẹ ạ, Hôm qua, lúc con đang dùng Internet, mẹ bước vào phòng con, giận dữ bắt con phải tắt máy. Con thanh minh thì mẹ bảo: Mạng với miếc, chẳng được ích lợi gì. Ai mà cần cái thứ thầy không mời mà đến ấy. Lời của mẹ làm con nghĩ nhiều lắm. Đúng là Internet có những mặt tiêu cực của nó. Trước hết là tốn kém thời gian. Con biết mẹ bực mình cũng một phần là vì mỗi ngày, con dành cả hai giờ đồng hồ ngồi trước màn hình máy tính. Mẹ sợ con quá mê mẩn, sa đà vào mạng mà không có thời gian học tập, phụ giúp công việc gia đình. Quả, có mấy lần mẹ gọi con xuống giúp việc này việc nọ, nhỏ thôi, nhưng vì đang dở việc trên máy tính nên con ngại ngần thoái thác. Như thế là không đúng phải không mẹ? Cho nên từ đây, con hứa với mẹ sẽ điều chỉnh lại thời gian dành cho Internet ít hơn mỗi ngày, để tập trung vào việc học cho kì thi sắp tới và giúp mẹ nhiều hơn trong công việc nhà..

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Nhưng xem chừng đó vẫn chưa phải lí do chính. Tối qua tỉ tê nói chuyện với ba, con mới hiểu tại sao mẹ lại bất ngờ thay đổi thái độ với Internet như thế rồi. Ba kể với con rằng, mẹ vừa nói chuyện với cô Ba hàng xóm. Con gái cô ấy, vì xiêu lòng sau những cuộc chat trên mạng với một người không quen, vừa bỏ nhà đi và mấy tháng sau thì khóc lóc trở về với cái bụng lùm lùm. Con bé ấy cũng chỉ bằng tuổi con thôi, mẹ lo cũng phải. Đã mấy lần con thuyết phục mẹ thử dùng Internet, mẹ vào Google và tình cờ thấy một mẫu quảng cáo khiêu dâm, con thấy mắt mẹ nhíu lại, mẹ lườm con và từ đó mẹ bắt đầu khắt khe với con hơn trong việc dùng máy tính. Rồi những thông tin cứ nhan nhản hằng ngày trên báo đài, những vụ nữ sinh có bạn trai, những vụ giết người man rợ chỉ để kiếm tiền chơi game online, cũng như bởi bị ám ảnh bởi những cảnh giết chóc trong những trò bạo lực. Những chuyện như thế sao tránh khỏi gây nên mối bận tâm, nhất là với những bậc phụ huynh như mẹ. Quả thực như mẹ gọi Internet là “ông thầy không mời mà đến”. Nó là một thế giới quá rộng lớn, mênh mông như một mê cung chằng chịt, sơ sẩy là lạc lối. Giữa biển thông tin ấy là bao nhiêu thứ thông tin tạp nham, những tờ báo lá cải, những mẩu tin, bài chẳng giúp ích gì được cho ai, mà đôi khi còn gây nên những hiểu nhầm tai hại. Web đen, web bạo lực thì đầy rẫy, những “ông thầy” như thế dạy người dùng toàn những điều cần phải tránh xa. Như thế thì nguy hiểm thật. Nó để lại ảnh hưởng tiêu cực đến việc hình thành và phát triển nhân cách, đạo đức của mỗi người, và có lẽ mẹ sợ con cũng rơi vào số ấy, nếu quá ham mê, mê mải, để nó chi phối. “Học mà không chơi đánh rơi tuổi trẻ, chơi mà không học bán rẻ tương lai”, bán rẻ luôn trách nhiệm đối với gia đình, cộng đồng, ấy là một hệ lụy không thể phủ nhận, nếu chúng con, những người trẻ, quá sa đà vào Internet. Con không trách mẹ vì đã lo lắng cho con những điều ấy, con hiểu mẹ thương con lắm chứ. Nhưng con cảm thấy hơi buồn mẹ ạ. Mẹ lên án Internet là xấu, nhưng nó chỉ xấu khi bị sử dụngvào mục đích xấu mà thôi (chứ bản thân Internet từ khi ra đời được xem là một phát minh vĩ đại có tầm ảnh hưởng lớn lao đến sự phát triển của đời sống con người trên toàn thế giới). Tại sao mẹ không tin tưởng con hơn một chút, rằng con có đủ khả năng để quyết định xem cái gì là đúng, là sai? Và học sinh cuối cấp, gần mười tám tuổi rồi, con nghĩ con có đủ khả năng tỉnh táo để đứng vững giữa biển thông tin vô tận ấy. Cũng giống như đãi cát tìm vàng, bên cạnh những thông tin xấu, tạp nham, lá cải đầy rẫy kia, thì Internet còn là kho thông tin khổng lồ, vô tận với những kiến thức hữu ích phục vụ cho việc học, việc làm. Chỉ một cú click chuột, mẹ có thể truy cập vào bách khoa toàn thư Wikipedia với hàng triệu đơn vị kiến thức về đủ.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> mọi thể loại mẹ cần. bỏ khoảng mười phút, con đã có thể tải về máy tính bao nhiêu là sách vở, tài liệu mà không mất tiền mua, có những tài liệu đôi khi không còn có thể mua hay mượn được. Rất nhiều kinh nghiệm quý báu gia đình mình có được là nhờ Internet. Mẹ còn nhớ lần vừa rồi nhà mình đi Đà Lạt, mẹ đã tấm tắc khen ngon trước những quán ăn con dẫn mẹ đi không? Đấy là con tham khảo từ những trang web về du lịch mẹ ạ. Rồi năm trước, khi ba mẹ làm visa cho bà ngoại qua chữa bệnh ở nước ngoài, thời gian làm thủ tục giấy tờ cũng rất nhanh, chỉ bằng một nửa so với những gia đình khác. Đó là vì ba đã cẩn thận lên trang mạng về di trú, ghi lại những kinh nghiệm mà những người đi trước đã chia sẻ. Internet, như vậy đâu có xấu phải không mẹ? Một ông thầy không mời mà đến, nhưng cũng mang lại thật nhiều thông tin hữu ích như thế cũng đáng được giữ chân lắm chứ? Hơn nữa, Internet còn giúp mở rộng cơ hội học tập, thay đổi thái độ học tập, làm việc của chính con đấy mẹ ạ. Mẹ biết không, trên mạng hiện giờ có rất nhiều phần mềm giúp đỡ việc học, việc làm rất tiện ích và phần mềm miễn phí. Nhờ chúng mà con làm được nhiều việc hay ho mà trước đây con toàn phải đi nhờ người khác. Chỉnh sửa lại một tầm hình, tăng âm cho một tập tin nhạc để làm đĩa văn nghệ cho lớp, tự lên thời khóa biểu tính toán, những viếc ấy con có thể tự làm. Chủ động làm được việc gì, cái cảm giác ấy vui lắm mẹ ạ. Và con tin nó sẽ giúp được con nhiều trong công việc sau này. Cũng nhờ Internet mà cơ hội học tập được mở rộng. Mẹ còn nhớ đứa bạn học chung từ thời cấp một của con không? Đầu năm sau nó sẽ lên máy bay đi du học ở Mĩ vào khóa mùa xuân. Nó chẳng hề đến các trung tâm luyện thi, nó tự học các kĩ năng ở nhà nhờ các video hướng dẫn trên Internet, hồ sơ tuyển sinh qua Internet, và giấy báo chấp thuận cùng học bổng trước tiên cũng được gửi đến qua Internet. Vậy nên, còn nhiều, nhiều nữa những lợi ích mà Internet mang lại. tất nhiên, không phải vì thế mà phủ nhận những mặt trái, hệ lụy “ông thầy không mời mà đến này” gây ra. Nhưng con tin mẹ cũng không phải vì thế mà ngăn cấm con dùng Internet nữa phải không mẹ? Tốt hay xấu là do người sử dụng biết tỉnh táo kiểm soát chính mình, dung hòa thời lượng sử dụng. Con tin là con sẽ làm được điều này (bởi con còn có sự hướng dẫn, quan tâm của mẹ trong vấn đề này nữa mà). Con hy vọng mẹ sẽ vì những điều con viết đây mà có cái nhìn khoan dung hơn đối với việc con dùng Internet. Con hy vọng mẹ sẽ tin tưởng hơn ở con trong việc tiếp tục “ông thầy không mời mà đến này”. Con gái đã lớn của mẹ. Nguyễn Phạm Thanh Thảo.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> (Lớp 11 Văn, Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh). 4.2. Đề: Ý kiến của anh (chị) về lối sống sành điệu của một bộ phận thanh niên hiện nay. Bài làm Kính gửi người lớn! Hình như đã từ lâu rồi, luôn luôn trên cửa miệng người lớn, nhan nhản trên các phương tiện truyền thông, hình ảnh của giới trẻ chúng con đã xuất hiện như một biểu hiện của sự suy đồi về đạo đức và suy thoái về lối sống. Người lớn cho rằng, thanh niên ngày nay chạy theo lối sống sành điệu mà ngày càng xa rời truyền thống, bỏ quên những giá trị tốt đẹp của ông bà, cha mẹ. Có lẽ, vì thế mà người lớn và giới trẻ chúng con ngày càng cảm thấy ngăn cách, xa lạ với nhau hơn! Thưa người lớn! Không ai có thể phủ nhận rằng, lối sống của thanh niên ngày nay là sành điệu, hay đang có xu hướng sành điệu. Và, bản thân chúng con, những người trẻ cũng không ngần ngại xem hai chữ “sành điệu” như một danh hiệu đầy kiêu hãnh mà bất cứ ai cũng luôn mong muốn. Người trẻ chúng con chỉ hiểu đơn giản thế này: “Sành” là sành sõi, am hiểu. “Điệu” là nhịp điệu, điệu sống, là phong cách sống. Đối với chúng con, sành điệu là sự am tường và phát huy những lối sống cho là hợp thời, như cách cư xử, nói năng, ăn mặc mà trong thị hiếu của mình, chúng con thấy rằng nó thật sự đẹp, thật sự thú vị và cuốn hút. Thế nhưng, qua lăng kính của người lớn, phương châm sành điệu của chúng con lại bị hiểu là tính từ “đặc chỉ” lối sống a dua, ăn chơi đua đòi, thậm chí là sa đọa, trác táng. Buồn biết bao khi suy nghĩ, sở thích của thanh niên chúng con bị một bộ phận nhỏ tiêu cực, bóp méo đi mà trở thành lệch lạc trong mắt người lớn. Người lớn cho rằng chúng con ăn mặc chẳng giống ai: Tóc tai loăn xoăn nhuộm xanh nhuộm đỏ, quần áo lành lặn không thích chỉ thích mặc quần áo rách rưới, thiếu dưới hụt trên…! Thưa người lớn, xã hội ngày càng phát triển, kinh tế phát triển thì văn hóa, lối sống cũng cần phải thay đổi theo, năng động hơn, tiện lợi hơn và cũng đẹp hơn nữa. Khi có đủ điều kiện thì nhu cầu “ăn ngon mặc đẹp” có gì là sai? Ngày xưa đất nước còn khó khăn, mỗi gia đình còn thiếu thốn thì con người chỉ cần “ăn no mặc ấm”, nay xã hội, thời đại đã đổi khác, làm sao có thể bắt chíng con – một giới trẻ năng động, có phần nghịch.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> ngợm vận mình một cách gò bó trong những chiếc áo bà ba, áo dài, áo tứ thân được nữa! Người lớn bảo chúng con dùng tiền phung phí, đồ đạc thì phải mốt này, mốt kia, hiệu này hiệu nọ, máy tính, điện thoại phải cảm ứng, phải công nghệ cao, phải kiểu cọ. Nhưng người lớn có biết không? Xã hội loài người phát triển văn minh được đến ngày hôm nay chính là nhờ sự ra đời của những máy móc, công nghệ kĩ thuật hiện đại ấy. Và, những công cụ hiện đại ấy được tạo ra ngoài mục đích nào khác là phục vụ con người? Trang bị cho mình một cách chính đáng, để cuộc sống thuận tiện hơn, hòa nhập hơn, để phát triển đất nước, phát triển nhân loại lẽ nào lại gọi là a dua, đua đòi? Người lớn bảo chúng con ăn chơi sa đọa, thanh niên mới lớn, nhiều người chưa kiếm ra tiền mà đã biết đi trung tâm mua sắm, biết ăn chơi thâu đêm suốt sáng ở những quán bar. Thưa người lớn, chúng con không phủ nhận những mặt xấu, những mặt tiêu cực của hành vi ăn chơi thiếu lành mạnh xuất hiện ở một bộ phận giới trẻ, gây ra sự phản cảm thậm chí diễn ra những hiện tượng đau lòng. Nhưng chúng con chỉ xin người lớn biết rằng, ngoài việc trang bị về mặt tri thức trên ghế nhà trường, học hành và lao động vừa sức mình, chúng con luôn cần đến những trò giải trí để giải tỏa căng thẳng, để tìm niềm vui, để thấy rằng cuộc sống của một người trẻ không tẻ nhạt mà vô cùng phong phú, thú vị, đáng sống và đáng yêu biết chừng nào. Người lớn bảo chúng con làm mất đi sự trong sáng của ngôn ngữ Việt, ăn nói lai căng đến chướng tai. Thưa người lớn! Quả thật nhiều bạn trẻ đang lạm dụng ngôn ngữ công nghệ một cách bừa bãi, dùng tiếng nước ngoài không đúng cách làm mất vẻ đẹp giao tiếp. Nhưng đó chỉ là một bộ phận. Thưa người lớn, vốn tiếng Việt của chúng ta thêm giàu có một phần là nhờ tiếp nhận một số ngôn ngữ nước ngoài. Nhưng điều này không bị lên án là vì nó đã ăn sâu, bắt rễ để trở nên quen thuộc hơn vốn văn hóa dân tộc. Giáo sư Trần Văn Khê cũng nói, hãy cứ sử dụng ngôn ngữ mới nếu ta có thể, nhưng phải đúng lúc và đúng cách. Chúng con tin rằng bằng sự đúng cách, đúng lúc ấy, ngôn ngữ mới của thanh niên ngày nay cũng sẽ có lúc tốt đẹp hơn, phong phú hơn và được sát nhập vào vốn ngôn ngữ dân tộc. Chúng con không bênh vực cho lối sống chưa hoàn thiện của mình. Nhưng chúng con chỉ trình bày suy nghĩ, tâm tư nguyện vọng của thanh niên, giới trẻ ngày nay. Thưa người lớn!.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> Theo một nghĩa nào đó thì sành điệu cũng như lối sống sành điệu không hề xấu. Sành điệu tích cực phân biệt với sành điệu tiêu cực. Sành điệu tiêu cực cũng chỉ diễn ra ở một bộ phận thanh niên. Xin đừng quy chụp cho tất cả giới trẻ chúng con là hư, là xấu chỉ vì những “con sâu làm rầu nồi canh” ấy! Con người ở thời đại nào cũng hướng tới chân - thiện - mĩ, cũng như mỗi lứa tuổi đều có chuẩn mực cái hay, cái đẹp của riêng mình. Một giới trẻ không cũ kĩ, già nua, không tẻ nhạt mà đầy màu sắc, chứng tỏ những trái tim yêu đời, những dáng vóc khỏe khoắn và những tâm hồn không vô cảm. Thời nào cũng có những vẻ đẹp của mình. Tuổi nhỏ lấy ngây thơ, trong sáng làm vẻ đẹp, tuổi già lấy sự trải nghiệm làm trang sức. Còn tuổi trẻ thanh niên chúng con lấy sự sôi nổi, sắc màu của mình làm vẻ đẹp mà một biểu hiện là sự sành điệu. Xã hội loài người luôn vận động trong sự giao lưu, tác động qua lại. Sự giữ gìn truyền thống, lối sống văn hóa không có nghĩa là từ chối tiếp nhận những cái mới, cái hay từ bên ngoài. Ông bà ta dạy sự “tiếp biến” nhưng phải có sự “tiếp” rồi mới có “biến”, không có nền văn hóa hay bất cứ lối sống nào phủ định việc tiếp nhận cái mới, văn hóa mới. Các bạn trẻ thân mến! Ranh giới giữa sành điệu tích cực và sành điệu tiêu cực rất mong manh. Vì vậy, đừng bao giờ để người lớn nghĩ về chúng ta bằng thái độ thiếu thiện cảm. Yêu mến được hay không, công nhận được hay không, tất cả phụ thuộc vào lối sống đúng đắn của thanh niên chúng ta ngày nay. Sành điệu chỉ thực sự lành mạnh khi các bạn trẻ nhận thức được rằng: Hãy sành điệu đúng lúc, đúng nơi, đúng cách, không lố lăng, nghịch dị. Sành điệu trong điều kiện khả năng có thể và không chối bỏ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, “tiếp” rồi đừng quên “biến” để lối sống của mình phù hợp hơn với toàn xã hội. Hiểu được rồi, thì, bạn trẻ ơi! Hãy cứ sành điệu đi vì tuổi trẻ ngập tràn màu sắc! Nguyễn Triều Viễn Ý (Lớp 12 Văn, Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh). III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> - Việc ra đề văn vói chung, đề nghị luận xã hội nói riêng, theo hướng mở là một trong những đổi mới về phương diện kiểm tra, đánh giá trong dạy học. Cách kiểm tra, đánh giá có thay đổi thì cách dạy và học mới thay đổi. Dạng đề mở sẽ hạn chế lối học tủ, học vẹt, bởi như PGS. TS Đỗ Ngọc Thống nhận xét: Với nghị luận xã hội, người viết nhìn chung chỉ có thể nhờ cậy vào chính mình, huy động năng lực suy nghĩ của chính mình mà không thể trông chờ vào một loại “phao cứu sinh” nào. Biết bao hiện tượng, con người và cuộc sống, biết bao câu danh ngôn kim cổ, đông tây để cho học sinh suy nghĩ, bàn luận và trình bày cách hiểu của mình... Các sách văn mẫu, các “lò luyện thi” làm thế nào mà “chuẩn bị” được tất cả mọi bài văn cho người đi thi học thuộc. Khi đó chỉ còn cách là dạy và học phương pháp, cách thức suy nghĩ, trình bày một vấn đề sao cho sáng sủa, hấp dẫn và giàu sức thuyết phục. Vì vậy, để học sinh làm tốt bài văn nghị luận xã hội, điều quan trọng nhất là giáo viên phải dạy các em phương pháp tư duy, cách thức làm bài. - Hơn thế nữa, rèn luyện viết văn nghị luận đâu phải chỉ để đi thi. Năng lực viết văn nghị luận sẽ giúp các em nhiều trong tương lai, ở bất cứ ngành nghề nào, khi viết luận văn, trình bày đề án, tư duy phản biện... Mục tiêu của làm văn nghị luận, trong đó có văn nghị luận xã hội, là giúp hình thành các tư tưởng mạch lạc và sâu sắc trong đời sống. Và, rõ ràng, có năng lực nghị luận là một điều kiện cơ bản để con người thành đạt trong cuộc sống xã hội. Với tất cả mục đích trên, chúng tôi đã viết SKKN HƯỚNG DẪN HỌC SINH LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI DẠNG ĐỀ MỞ. Sáng kiến kinh nghiệm này là kết quả một quá trình thực hiện trong nhiều năm, được ứng dụng vào thực tế giảng dạy ở Trường THTP chuyên Lương Thế Vinh và đã mang lại kết quả cao trong các kì thi học sinh giỏi môn Ngữ văn cấp quốc gia, cấp khu vực và cấp tỉnh. Đồng thời, khi ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy học sinh của mình trưởng thành hơn trong tư tưởng, mở rộng nhiều về hiểu biết đời sống xã hội, chững chạc hơn trong cách trình bày suy nghĩ của mình. Về phía người giáo viên, giảng dạy nghị luận xã hội theo dạng đề mở đã góp phần tạo hứng thú trong các.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> thao tác nghề nghiệp (ra đề, hướng dẫn thực hiện, chấm bài) và cả niềm hứng thú trước khả năng, sự sáng tạo và sức trẻ của học sinh trước những vấn đề tư tưởng, đạo lí hay sự việc, hiện tượng của đời sống xã hội.. IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Đề nghị luận xã hội dạng mở là một hướng ra đề mới, hay nhưng khó, có mặt tích cực và có mặt hạn chế. Qua thực tế dạy học, chúng tôi có một số đề xuất sau: - Đề nghị luận xã hội dạng mở đòi hỏi học sinh phải sáng tạo, chủ động nêu suy nghĩ riêng trước một luận đề là một tình huống thú vị mà bất ngờ, lại được viết trong thời gian hạn chế, không gian nhất định. Điều này thật khó đối với các em có năng lực trung bình. Vì thế, dạng đề thi này chỉ phù hợp với kì thi cần có tính phân loại học sinh, kì thi chọn học sinh giỏi. Trong các kì thi và kiểm tra thông thường, giáo viên nên kết hợp dạng đề truyền thống và dạng đề mở để vừa khuyến khích học sinh giỏi vừa kiểm tra học sinh bình thường. - Đề mở thì đáp án, biểu điểm cũng mở. Cho nên, người chấm cần tôn trọng ý kiến học sinh, nhất là những kiến giải mang tính sáng tạo, độc đáo của các em. Với những trường hợp có sự lệch chuẩn (chuẩn xã hội, chuẩn chính trị, chuẩn đạo đức,…) trong suy nghĩ của học sinh, người giáo viên cần có sự uốn nắn trên cơ sở phân tích thấu tình đạt lí của một người đi trước. Với tinh thần cầu thị, mỗi thầy cô nên thường xuyên cập nhật kiến thức xã hội, đời sống, tìm hiểu tâm trạng, thị hiếu của giới trẻ. Có như vậy, chúng ta mới thật sự hiểu và chia sẻ được suy nghĩ và cảm xúc của học sinh. - Để học sinh nắm được phương pháp và làm bài có kết quả cao, người thầy giáo cần có một quá trình rèn luyện học sinh trong việc tích lũy vốn sống, nâng tầm hiểu biết, hình thành kĩ năng. Tuy nhiên, mỗi năm học sinh sẽ học một thầy. Vì thế, việc rèn luyện làm sao liên tục được? Khắc phục điều này, một mặt, cần khuyến khích học sinh tự giác nâng cao năng lực bản thân; mặt khác, cần thống nhất phương pháp dạy học trong tổ chuyên môn để các em có cơ hội rèn luyện lâu dài..

<span class='text_page_counter'>(38)</span> - Trong khi chưa có những định chuẩn cụ thể của ngành giáo dục về yêu cầu đối với văn nghị luận xã hội (khác với văn nghị luận văn học, đề văn luôn phù hợp với kiến thức giáo khoa của từng bậc học, lớp học), khi ra đề, giáo viên không chỉ ra đúng dạng thức đề mở mà còn cần phải hết sức cân nhắc đến tính vừa sức của học sinh.. V. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 1. Làm văn 10, 11, 12 (sách hợp nhất chỉnh lí), Nxb. Giáo dục, 2000. 2. Ngữ văn nâng cao 10, 11, 12 (sách giáo khoa), Nxb. Giáo dục, 2007. 3. Ngữ văn nâng cao 10, 11, 12 (sách giáo viên), Nxb. Giáo dục, 2007. 4. Nhiều tác giả, Tuyển tập đề bài và bài văn Nghị luận xã hội, tập 1, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2010. 5. Trần Đình Sử, Đề mở trong dạy – học làm văn, Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ, số 1 năm 2012. 6. Đỗ Ngọc Thống - Tài liệu chuyên văn tập I, II, III – NXB Giáo dục Việt Nam, năm 2012. 7. Bùi Quang Huy - Trần Châu Thưởng, Nghị luận Xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2009. 8. Bùi Quang Huy - Trần Châu Thưởng, Hướng dẫn Làm văn 10, 11, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2007, 2008.. NGƯỜI THỰC HIỆN.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> TRẦN THỊ CHÂU THƯỞNG.

<span class='text_page_counter'>(40)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×