Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Van dung ve dinh nghia vat chat cua Le nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.39 KB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>HƯỚNG DẪN ÔN TẬP MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận? * Hoàn cảnh lịch sử: Sự khủng hoảng của thế giới quan trong vật lý cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, sự ra đời của chủ nghĩa duy tâm vật lý học, quan niệm duy tâm - bất khả tri về cái gọi là "vật chất biến mất.". Lênin đã khái quát những thành tựu khoa học tự nhiên và khẳng định vật chất không biến mất, chỉ có quan niệm cũ xưa lỗi thời về vật chất là không còn phù hợp nữa, cần có một cách hiểu mới về phạm trù vật chất trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học và nhận thức.. * Cơ sở để V.I.Lênin đưa ra định nghĩa vật chất: + Lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen: Đã phân biệt tính khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại vật chất ở những dạng cụ thể; Chỉ ra sự tồn tại khách quan của vật chất Chỉ ra tính vô tận, vô hạn của vật chất, tính không thể sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được của nó. Tính thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó. Chỉ ra các phương thức tồn tại của vật chất là không gian, thời gian và vận động. Tuy nhiên, hai ông chưa đưa ra định nghĩa về vật chất, chỉ đến V.I.Lênin, Người mới đưa ra định nghĩa về vật chất. + Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc về cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cũng như phê phán chủ nghĩa duy tâm => Lênin đã đưa ra định nghĩa toàn diện, sâu sắc và khoa học về vật chất "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ một thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác" (V.I.Lênin toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1980, Tr.15) * Giải thích thêm về "Cảm giác" theo quan điểm Tâm lý học Mác-Lênin: VI.Lênin đã chỉ rõ: “Cảm giác là mối liên hệ trực tiếp giữa ý thức và thế giới bên ngoài, là sự chuyển hoá của năng lượng kích thích bên ngoài thành hiện tượng ý thức”. Cảm giác chính là kênh thu nhận các loại tư tưởng phong phú và sinh động từ thế giới bên ngoài ảnh hưởng quan trọng đến nhận thức cao hơn sau này. Không có nguyên vật liệu quan trọng với cảm giác thì không thể có nhận thức cao hơn. VI.Lênin cho rằng: “Cảm giác là nguồn gốc duy nhất của hiểu biết”..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Cảm giác là nguồn cung cấp những nguyên vật liệu cho chính các hình thức nhận thức cao hơn “Cảm giác là viên gạch xây nên toàn bộ lâu đài nhận thức”. V.L.Lênin đã nói: “Ngoài thông qua cảm giác, chúng ta không thể nào nhận thức được bất cứ một hình thức nào của vật chất, cũng như bất cứ hình thức nào của vận động”, “tiền đề đầu tiên của lí luận về nhận thức chắc chắn nói rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất của hiểu biết” và “Tất cả hiểu biết đều bắt nguồn từ kinh nghiệm, từ cảm giác, tri giác”. Nếu không có cảm giác thì chúng ta không hiểu biết gì về hình thức vật chất Theo Tâm lý học Mác-Lênin: Cảm giác Là 1 quá trình tâm lý phản ánh riêng lẻ từng thuộc tính của sự vật hiện tượng khi chúng ta đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta. Vd: Tay đụng vào vật nhọn thấy đau, sờ vào nước đá thấy lạnh... Trong cuộc sống thường ngày con người luôn bị tác động bởi các sự vật, hiện tượng vô cùng đa dạng và phong phú. Các sự vật, hiện tượng có các thuộc tính của mình như màu sắc, âm thanh, hình dáng, khối lượng, tính chất…. tác động vào nhận thức của con người, từ đó đầu óc của con người có được hình ảnh về các thuộc tính của sự vật, hiện tượng. Nhận thức là một quá trình. Đặc trưng nổi bật nhất của hoạt động nhận thức là phản ánh hiện thực khách quan. Hoạt động này bao gồm nhiều quá trình khác nhau, thể hiện những mức độ phản ánh hiện thực khác nhau (cảm giác, tri giác, tư duy, trừu tượng…) và mang lại những sản phẩm khác nhau về hiện tượng khách quan (hình ảnh, hình tượng, biểu tượng, khái niệm) Mọi sự vật hiện tượng xung quanh ta tất cả đều được bộ não phản ánh lại nhờ vào cảm giác. Nhưng bộ não chúng ta chỉ mới phản ánh được từng thuộc tính bề ngoài của sự vật nhờ vào cảm giác. Con người có thể phản ánh được các thuộc tính của sự vật, hiện tượng là do có một hệ thống hết sức phức tạp của cơ quan cảm giác có thể tiếp xúc các kích thích từ bên ngoài, mỗi kích thích liên quan đến một sự vật, hiện tượng. Các kích thích này tác động lên giác quan làm cho giác quan của con người tiếp nhận kích thích sau đó mã hoá chuyển tới não bộ. Tại vỏ não, thông tin này được xử lý và con người có được cảm giác. Ngoài ra, con người còn có những cảm giác từ các kích thích xuất hiện chính bên trong cơ thể người đó. Nói cách khác, con người không chỉ có cảm giác phản ánh các thuộc tính của sự vật, hiện tượng mà còn có cảm giác phản ánh các trạng thái của cơ thể đang tồn tại. I. PHÂN TÍCH NỘI DUNG ĐỊNH NGHĨA:.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Vật chất là phạm trù triết học: Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực nói chung. Những khái niệm này chỉ xuất hiện khi con người đạt đến trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa các sự vật hiện tượng thành những học thuyết, lý luận. Với tư cách là một phạm trù Triết học, phạm trù vật chất phải thể hiện thế giới khách quan và hướng đến sự giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. vật chất với tính cách vật chất là 1 khái niêm rộng được tư duy khái quát từ vô vàn những sự vật hiện tượng cụ thể trong thế giới mà lại không đồng nhất với bất kỳ sự vật hiện tượng riêng lẻ nào. Cần phân biệt vật chất dưới góc độ là phạm trù triết học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng vật chất khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn. Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với các dạng cụ thể của vật chất như: nước lửa không khí, nguyên tử, thịt bò… Vật chất là một phạm trù rộng lớn nhất nên không thể định nghĩa bằng cách thông thường trong logic học, không thể quy nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù rộng hơn phạm trù vật. Vật chất chỉ có thể định nghĩa bằng cách đặt nó trong quan hệ đối lập với ý thức, xem cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào.. Dùng để chỉ thực tại khách quan, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác: Vật chất có vô vàn các thuộc tính khác nhau, vật chất là vô cùng vô tận. Nhưng thuộc tính quan trọng nhất, chung nhất của mọi dạng khác nhau của vật chất là thuộc tính "thực tại khách quan" tức là sự tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người. Tất cả những cái gì tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người đều là những dạng khác nhau của vật chất. Thuộc tính tồn tại khách quan bên ngoài và độc lập với ý thức của con người chính là tiêu chuẩn để phân biệt những gì là vật chất (cả trong tự nhiên và trong đời sống xã hội) và những gì không phải là vật chất. Ví dụ: những quan hệ kinh tế - xã hội, quan hệ sản xuất của xã hội... tuy không tồn tại dưới dạng vật thể, cũng không có cấu trúc phân tử, nguyên tử những chúng tồn tại khách quan, có trước ý thức và quyết định ý thức, bởi vậy chúng chính là vật chất dưới dạng xã hội..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Thuộc tính tồn tại khách quan còn là những tiêu chuẩn để khẳng định thế giới vật chất là có thực, tồn tại tự thân, không phụ thuộc vào bất kỳ một lực lượng siêu nhiên nào. Được đem lại cho con người trong cảm giác: Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hay trực tiếp tác động lên giác quan của con người. Vật chất chính là nguồn gốc, nguyên nhân của cảm giác, có trước cảm giác (ý thức) và quyết định nội dung của cảm giác, vật chất là tính thứ nhất, cảm giác là tính thứ hai. Được chép lại, chụp lại, phản ánh: Vật chất tồn tại khách quan nhưng không phải là vô hình, trừu tượng mà tồn tại cụ thể, khi tác động đến các giác quan của con người thì tạo nên cảm giác ở con người và con nguời hoàn toàn có thể nhận thức được về vật chất. Như vậy, về nguyên tắc, đối với thế giới vật chất thì chỉ có cái con người chưa thể nhận thức được chứ không thể có cái con người không thể nhận thức. khả năng nhận thức của con người đối với vật chất xuất phát từ thuộc tính tạo nên cảm giác ở con người của bản thân vật chất. II. Ý NGHĨA CỦA ĐỊNH NGHĨA: Nội dung định nghĩa vật chất của Lê nin đã kế thừa, phát triển được những tư tưởng của Các Mác và Ph.Ăngghen về vật chất, giải quyết đúng đắn về vấn đề cơ bản của Triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, có ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận sâu sắc đối với nhận thức khoa học và thực tiễn. Khắc phục được tính trực quan siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ... do đó làm cho chủ nghĩa duy vật phát triển lên một trình độ mới, trở thành chủ nghĩa duy vật biện chứng, tạo cơ sở khoa học cho sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa lịch sử. Là cơ sở khoa học và vũ khí lý luận để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ quan cũng như thuyết không thể biết (thuyết "bất khả tri"cho rằng: con người chỉ nhận thức được bề ngoài của sự vật hiện tượng chứ không nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng ), phân biệt chủ nghĩa duy vật với nhị nguyên luận... Góp phần hoàn thiện thế giới quan và phương pháp luận cho các nhà khoa học, động viên cổ vũ họ tin tưởng ở khả năng nhận thức của con người trong nghiên cứu thế giới vật chất vô cùng phong phú. Là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật biện chứng trong lĩnh vực xã hội III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN: Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức phân tích ý nghĩa phương pháp luận. liên hệ thực tiển?.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng. Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất và ý thức đây là những phạm trù cơ bản của triết học. Chung quanh các phạm trù này từ lâu đã trở thành nội dung luận bàn sôi nổi, tốn bao nhiêu giấy mực của các trường phái triết học, bởi vì làm rõ nội dung vật chất và ý thức cũng như mối quan hệ của nó sẽ có ý nghĩa lớn về mặt lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn. Vậy vật chất và ý thức là gì? mối quan hệ của nó ra sao? Theo quan điểm của Mác và Ăngghen thì vật chất tồn tại khách quan cảm tính. Các ông khẳng định ý thức do vật chất sinh ra và vật chất quyết định ý thức. Tuy nhiên những quan điểm của Mác và Ăng ghen còn có những hạn chế nhất định khi nói rằng vật chất là tổng thể những vật thể chưa khái quát được tất cả các dạng cụ thể của vật chất, tức là chưa chỉ ra được cái thuộc tính cơ bản của phạm trù vật chất. Còn Lê Nin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Định nghĩa nêu rỏ vật chất là một phạm trù triết học, vật chất có 2 dạng cụ thể đó là: dạng vật thể (hữu hình cụ thể cảm tính) và dạng xã hội (như các quy luật), là một phạm trù rộng nhất nên không thể định nghĩa bằng cách thông thường trong logic học đem quy khái niệm cần định nghĩa về khái niệm rộng hơn, vật chất có thể định nghĩa được bằng cách bằng cách đặt nó trong mối quan hệ đối lập với ý thức xem cái nào có trước cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Thuộc tính chung nhất của vật chất là tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với con người là điều kiện phân biệt cái gì là vật chất cái gì không phải là vật chất. Vật chất là nguyên nhân của cảm giác nó có trước và tạo nên nội dung của ý thức, ý thức là sự chép lại chụp lại có sau, vật chất là ính thư nhất, ý thức là tính thứ hai Định nghĩa vật chất của Lênin khắc phục được tính trực quan siêu hình, máy móc trong quan niệm vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ, do đó làm cho chủ nghĩa duy vật phát triển thành chủ nghĩa duy vật biện chứng, tạo cơ sở khoa học cho sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa lịch sử. Định nghĩa này cũng chính cơ sở khoa học và là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, cả duy tâm khách quan lẫn duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một cách có hiệu quả để đảm bảo sự đứng vững cho chủ nghĩa duy vật trước sự phát triển mới của khoa học tự nhiên. Vật chất là cái có trước quyết định ý thức vậy ý thức nó là gì? bản chất nó ra sao? Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử-xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất. Nó có nguồn gốc tự nhiên, ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ não con người Thông qua bộ não con người cùng với quá trình hoạt động sinh lý học thần kinh. Thế giới quan là thuộc tính phản ánh của.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> nó, phản ánh là thộc tính chung phổ biến của vật chất biểu hiện trong sự tác động qua lại giữa các sự vât hiện tượng, phản ánh là sự tái tạo lại những đặc điểm của sự vật này với sự vật khác trong sự tác động qua lại giữa chúng và ý thức nó có nguồn gốc xã hội thông qua lao động và ngôn ngữ. Thông qua lao động con người đã tìm lửa, sáng tạo, phát minh ra công cụ lao động. Lao động là hoạt động đặc thù của con người nhờ quá trình lao động bộ não con người ngày càng hoàn thiện làm cho khả năng tư duy trừu tượng ngày càng phát triển, hoạt động lao động là phương thức hình thành và phát triển của ý thức. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai là cái vỏ của vật chất của tư duy, là phương tiện để con người giao tiếp phản ánh một cách khái quát của sự vật, là phương tiện không thể thiếu trong quá trình hình thành ý thức của con người. Nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để hình thành ý thức con người, ý thức con người là sản phẩm của quá trình lịch sử tự nhiên và xã hội Bản chất của ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ não con người, nói cách khác ý thức là hình ảnh hiện thực khách quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội dung của ý thức là do thế giới khách quan qui định, nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần . Nó là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người như: Tình cảm yêu thương, tâm trạng, cảm súc, ý trí, tập quán, truyền thống, thói quen quan điểm, tư tưởng, lý luận, đường lối, chính sách, mục đích, kế hoạch, biện pháp, phương hướng. Ý thức phản ánh hiện thực nhưng phản ánh có chon lọc, ý thức chỉ phản ánh cái cơ bản cốt yếu nhất mà con người quan tâm, xã hội càng phát triển thì trình độ con người ngày càng cao sự phản ánh chắt lọc ngày càng lớn Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cũng có nghĩa là ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới do vậy phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức, nó luôn đi đôi với nhau. Ý thức theo lát cắt ngang gồm tri thức (sự hiểu biết) và Tình cảm (hình thức phản ánh đặc biệt) và theo lát cắt dọc gồm sự tự ý thức (của cá nhân, giai cấp, dân tộc), Tiềm thức (kỹ năng kỹ xảo) và vô thức ( giấc mơ) mổi thuộc tính của nó có mối quan hệ biện chúng vói nhau, bổ trợ cho nhau. Vậy mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nó có mối quan hệ như thế nào? Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật Mácxít vật chất có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Vật chất suy cho cùng thí nó quyết định ý thức, vật chất có trước ý thức có sau, vật chất tồn tại khách quan đối lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức Vật chất quyết định ý thức trong đời sống xã hội biểu hiện ở mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đời sống vật chất và đời sống tin thần. Trong xã hội phát triển kinh tế quy định sự phát triển của văn hóa, đời sống vật chất thay đổi sớm muộn đời sống tinh thàn thay đổi theo. Ý thức có tính độc lập tương đối tác động lại vật chất thông qua hoạt động thực tiển của con người. Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan thì thúc đẩy hoạt.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> động thực tiển ngược lại ý thức không phản án đúng hiện thực khách quan thì nó kìm hảm hoạt động thực tiển Nhận thức đúng đắn về vật chất và ý thức theo chủ nghĩa duy vật mác xít cho ta phương pháp luận đúng đắn dựa trên 3 nguyên tắc phương pháp luận đó là: Thứ nhất, nguyên tắc khách quan trong nhận thức và hành động biểu hiện là: trong nhận thức và hành động phải bảo đảm tính khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; phải xuất phát từ bản thân sự vật hiện tượng, từ hiện thực khách quan, không lấy ý thức chủ quan áp đặt cho thực tế, nắm nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng sự vật tránh thái độ chủ quan duy ý chí, nóng vội, không trung thực. Thứ hai, nguyên tắc phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người biểu hiện ở nguyên tắc này đó là nguyên tắc khách quan khồn bài trừ mà đòi hỏi phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức vì vậy trong hoạt động thực tiển, phải giáo dục nâng cao trình độ tri thức cho cán bộ, Đảng viên và nhân dân mặt khác củng cố bồi dưởng ý chí cách mạng lòng nhiệt tình, rèn luyện phẩm chất đạo đức đảm bảo sự nhiệt tình cách mạng và tro thức khoa học; phát huy tính năng động chủ quan của con người bằng việc vận dụng đúng các quan hệ lợi ích, có động cơ trong sáng khoa học, không vụ lợi. Thứ ba, nguyên tắc khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan duy ý chí biểu hiện ở khuynh hướn tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân, xa rời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình thay cho sự yếu kém của tri thức khoa học, sai lầm của bệnh chủ qua duy ý chí là lối suy nghĩ giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan.nguồn gốc của bệnh chủ quan là do nhận thức và sự yếu kém về lý luận của tri thức khoa học không được đòi hỏi của tri thức thực tiển. do cơ chế quan liêu bao cấp và tâm lý của người sản xuất nhỏ. Giải pháp để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí dó là cần đổi mới tư duy lý luận, năng lực trí tuệ và trình độ nhận thức. Trong hoạt động phải tôn trọng QLKQ. Đổi mới cơ chế quản lý KT, đổi mới hoạt động của HTCT, chống bảo thủ trì trệ và quan liêu. Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức và phương pháp luận của nó để nhận thấy ỏ thực tiển của Việt Nam trước thời kỳ đổi mới đó là Bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ là những sai lầm khá phổ biến ở nước ta trong thời kỳ trước đổi mới và nhiều nước XHCN trước đây, nhà nước ta xây dựng XHCN và xem Liên Xô như là một "hình mẫu" và rập khuôn 1 cách giáo đều theo mô hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trong những hoàn cảnh và điều kiện đất nước khác biệt so với Liên xô, nó gây tác hại nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI (1986) của Đảng đã nhìn thẳng vào vấn đề, nhìn thẳng vào sự thật, là một bước đi tất yếu của lịch sử, Quan điểm Đổi Mới về kinh tế đã được hoàn thiện dần trong quá trình thực hiện, Đổi Mới về kinh tế : Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Đảng đã chỉ rõ bài học kinh nghiệm trong thực tiễn cách mạng ở nước ta là muốn đảm bảo thành công thì phải vận dụng đúng nguyên tắc khách quan “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng” Đây là sự thừa nhận vai trò quyết định của vật chất và các quy luật khách quan vốn có của nó trong việc đề ra các chế định, chủ trương, chính sách vào thực tế của công cuộc xây dựng đất nước ta. Văn kiện Đại hội VI đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trãi qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết”. Do chủ quan duy ý chí, trong nhận thức và hành động của Đảng trong giai đoạn này vi phạm các quy luật khách quan, biểu hiện qua một số lĩnh vực cụ thể được Văn kiện ĐH Đảng lần VI đánh giá như sau : “chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta tồn tại trong một thời gian tương đối dài” nên “đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa”, “chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ SX với tính chất và trình độ SX” nên “có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ” hoặc “đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết”. Bênh bảo thủ trì trệ được biểu hiện qua việc “chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời”, trong công tác tổ chức thời kỳ này “khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp còn theo quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng tính hình thức..” Ngoài ra, cũng do chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ nên trong kinh tế, Đảng ta đã “duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp” - một cơ chế "gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí", “có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ “ cùng với “việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là SX và đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện khả năng thực tế ”, bỏ qua không thừa nhận và vận dụng những quy luật khách quan của phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa ... vào việc chế định các chủ trương chính sách kinh tế do định kiến cho rằng những quy luật này là chủ nghĩa tư bản, không được áp dụng vào chủ nghĩa xã hội … dẫn đến việc SX chậm phát triển, khủng hoảng kinh tế. Để đảm bảo sự lãnh đạo thành công trong công cuộc đổi mới này thì Văn kiện Đại hội Đảng lần đã xác định : “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng. Năng lực nhận thức theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng” . Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", Đại hội VI đã xác định phải điều chỉnh lại các cơ cấu này theo hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế", tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Hai là đồng thời với việc đổi mới toàn diện về kinh tế và tư duy lý luận, việc tăng cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT, đội ngũ cán bộ quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước “nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển KTXH, từng bước phát triển kinh tế tri thức”..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Ba là tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới, không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh lý luận về mô hình, mục tiêu, bước đi, đổi mới và kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị trong điều kiện mới, căn cứ vào sự vận động của thực tiễn, của cuộc sống để kịp thời loại bỏ những hiểu biết lỗi thời, lạc hậu. Bốn là phải đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, đã khẳng định một trong những bài học chủ yếu đưa công cuộc đổi mới ở nước ta đi đến thắng lợi là: “ đường lối đúng đắn của đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới. Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, hoàn thiện đường lối đổi mới; thường xuyên xây dựng chỉnh đống Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong toàn Đảng; lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh” Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, chế độ XHCN ngày càng củng cố và đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và đang có những bước chuyển biến tích cực trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Tóm lại, từ những phân tích trên cho thắng lợi của công cuộc đổi mới có được là dựa trên một nền tảng tư tưởng đúng, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà trong đó sự quán triệt và vận dụng đúng quy luật, nguyên tắc khách quan là điều kiện đảm bảo sự dẫn dắt đúng đắn của Đảng.. IV. KẾT LUẬN: Định nghĩa này đã có tác dụng đưa khoa học tự nhiên và nhất là vật lý học thoát khỏi khủng hoảng vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 để tiếp tục tiến lên. Cho đến nay, mặc dù khoa học đã tiến lên một bước rất dài so với định nghĩa vật chất của Lênin (được viết trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán được Lênin viết năm 1908 và xuất bản năm 1909) nhưng nó vẫn còn nguyên giá trị . Định nghĩa này vẫn là tiêu chuẩn để phân biệt thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. * Tài liệu tham khảo: Hướng dẫn ôn tập môn Triết học Mác-Lênin của Khoa lý luận Mác-Lênin, Trường Cán bộ TP.HCM, NXb Đại học Quốc gia TP.HCM, 2008..

<span class='text_page_counter'>(10)</span>

×