Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Quá trình ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.79 KB, 12 trang )

Họ và tên:
Ngày sinh:
Số báo danh:
Số trang bài làm: 11 trang

BÀI KIỂM TRA LẦN 1
LỚP BỒI DƯỠNG LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ CẤP PHÒNG
Tổ chức tại tỉnh Đồng Tháp. Mã số: 18/2021CP

Điểm số

Chữ ký giảng viên chấm bài

Giám thị 1

Giám thị 2

Đề số 2:
Câu 1: (5 điểm) Anh/chị hãy trình bày các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực
của lãnh đạo cấp phịng?
Câu 2: (5 điểm Trình bày lợi ích của xã hội hóa dịch vụ cơng; Nêu thực
trạng xã hội hóa dich vụ công tại địa phương nơi anh/ chị công tác (ưu điểm và hạn
chế)? Biện pháp khắc phục?
Bài làm
Câu 1: Anh/chị hãy trình bày các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực của lãnh
đạo cấp phòng?
Theo quan điểm của các nhà tâm lí học, năng lực là tổng hợp các đặc điểm,
thuộc tính tâm lí của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động
nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao.
Cũng có định nghĩa cho rằng:


Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện
một hoạt động nào đó như năng lực tư duy, năng lực tài chính, năng lực chun
mơn, năng lực lãnh đạo.
Cũng có thể hiểu theo cách đơn giản:
Năng lực là khả năng làm việc của một người trong thực tế.


2

Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực
Xét về tiêu chí đánh giá, năng lực phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Kiến thức: là những hiểu biết chung về tự nhiên, xã hội; những lí thuyết,
phương pháp, số liệu...
Kiến thức được coi là nền tảng, điều kiện cần của năng lực vì có kiến thức con
người có cơ sở lí luận dẫn đường nên tránh được hành động mù quáng, tự phát, dẫn
đến nhiều rủi ro.
Muốn có được và không ngừng gia tăng kiến thức, con người cần phải được
đào tạo. Tuy nhiên, việc đào tạo không đơn thuần chỉ theo những khóa học trong
các trường, lớp với cách thức truyền thống mà có thể bằng cách khác như tự trau
dồi, rèn luyện...
Kĩ năng: là mức độ thành thạo trong việc tiến hành một hoạt động cụ thể nào
đó.
Mỗi người phải thực hiện nhiều công việc khác nhau nên cần có nhiều kĩ năng
khác nhau.
Kĩ năng là bộ phận rất quan trọng của năng lực, vì suy cho cùng, năng lực
được biểu hiện qua kết quả đạt được trong thực tế, mà các kết quả đạt được là sản
phẩm trực tiếp của các kĩ năng.
Muốn có và khơng ngừng gia tăng kĩ năng, khơng có con đường nào khác là
phải nỗ lực rèn luyện, làm việc.
- Kinh nghiệm: là những bài học tích luỹ được từ thực tế cuộc sống.

Trong quá trình làm việc, con người phải thực hiện nhiều cơng việc khác nhau,
trong đó có việc mới, việc cũ. Khi làm việc cũ đỡ tốn kém thời gian, đỡ sai sót, rủi
ro hơn việc mới. Sở dĩ như vậy vì khi làm việc cũ người ta sử dụng kinh nghiệm có
sẵn.
Đặc biệt đối với những cơng việc nếu làm sai sẽ gây hậu quả nghiêm trọng thì
kinh nghiệm là một thành tố vô cùng quan trọng của năng lực.
Kinh nghiệm có được chủ yếu thơng qua q trình tự đánh giá, phân tích
những được, mất qua từng hoạt động và rút ra những bài học cần ghi nhớ trong q
trình hoạt động của chính bản thân mình.


3

Trong một số trường hợp, có thể học kinh nghiệm từ những người khác thông
qua cách giải quyết công việc trong những tình huống cụ thể.
- Các mối quan hệ: là những quan hệ mang tính chất cá nhân do từng người
tự xây dựng cho mình qua thời gian.
Các mối quan hệ thể hiện sự hiểu biết lẫn nhau cũng như niềm tin dành cho
nhau nên chúng sẽ giúp cho việc thực hiện nhiệm vụ được nhanh hơn, thậm chí
hiệu quả hơn.
Chẳng hạn như người nào đó lần đầu tiên vay vốn từ ngân hàng cho hoạt động
sản xuất kinh doanh thì việc tiến hành các thủ tục mất nhiều thời gian nhưng nếu đã
quan hệ với ngân hàng trong nhiều năm thì thủ tục sẽ nhanh chóng hơn nhiều.
Do vậy các mối quan hệ cá nhân cũng là một yếu tố quan trọng cấu thành
năng lực.
- Sự mong muốn (động cơ, hồi bão)
Mỗi cá nhân thường có mong muốn hay ước mơ làm việc trong một lĩnh vực
nào đó. Sự mong muốn này mang lại cho họ cảm giác hứng thú, say mê. Khi có
hứng thú, say mê, con người sẽ được thúc đẩy để không ngừng học tập và rèn
luyện, vượt qua mọi khó khăn, thách thức.

Từ đó năng lực có điều kiện phát triển. Sự mong muốn được coi là bộ phận
quan trọng hàng đầu của năng lực, vì nếu khơng có sự hứng thú, say mê, kết quả
làm việc khó có thể tốt đẹp.
- Quan niệm về trách nhiệm xã hội: là những quan niệm về mục tiêu, lí tưởng
sống, đạo đức...
Chúng sẽ được biểu hiện trên hành vi, thái độ của con người trong cuộc sống
hàng ngày và trong công việc. Yếu tố năng lực này rất cần thiết cho con người,
chẳng hạn, nếu ai đó có quan niệm tơn trọng "chữ tín", cuộc sống và công việc
thường thuận lợi, được người khác tôn trọng.
- Các đặc điểm cá nhân
Bên cạnh những yếu tố đã đề cập trên, năng lực còn phụ thuộc vào đăc điểm
cá nhân của từng con người cụ thể.


4

Có những đăc điểm cá nhân do bẩm sinh mà có, như sự nhạy bén, trí thơng
minh… nhưng những đặc điểm bẩm sinh như vậy không nhiều và cũng phải rèn
luyện mới phát triển được.
Phần lớn các đặc điểm cá nhân chủ yếu do học tập, rèn luyện mà có. Những
đặc điểm ấy thường là: Tự tin, quyết đoán, sẵn sàng chịu trách nhiệm, thích ứng với
mơi trường, khả năng chịu đựng cao, có tinh thần hợp tác...
Câu 2: Trình bày lợi ích của xã hội hóa dịch vụ cơng; Nêu thực trạng xã hội
hóa dich vụ cơng tại địa phương nơi anh/ chị công tác (ưu điểm và hạn chế)? Biện
pháp khắc phục?
Lợi ích của xã hội hóa dịch vụ cơng:
Nhằm giảm gánh nặng tài chính của nhà nước thì xã hội hóa dịch vụ cơng là
một trong những nội dung quan trọng nhất trong mơ hình quản lý cơng mới ở các
nước phát triển. Xã hội hóa dịch vụ công đồng nghĩa với việc giảm thiểu trách
nhiệm của nhà nước trong cung cấp các dịch vụ, nhà nước đóng vai trị điều tiết bảo

đảm sự có mặt của dịch vụ cơng đó thay vì trực tiếp cung cấp các dịch vụ công.
Việc cung ứng dịch vụ được giao cho các thành phần kinh tế tư nhân, cá nhân thực
hiện. Như vậy, vai trò của nhà nước lúc này dần trở thành người "lái thuyền" thay
vì người "chèo thuyền" như trước đây.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, nền hành chính cơng ở các quốc gia đều phải
giải quyết nhiều hơn những vấn đề phức tạp của đời sống kinh tế - xã hội, là thách
thức đối với chính phủ ở nhiều nước. Để vượt qua những thách thức này địi hỏi
hành chính cơng ở các nước phải thay đổi mạnh mẽ và tích cực hơn. Theo đó, mơ
hình quản lý cơng mới gắn liền với xây dựng một chính phủ gọn nhẹ, hoạt động
hiệu quả, nhanh nhạy. Đây là một xu hướng mới trong hoạt động của nhà nước nền hành chính chuyển chức năng từ “cai trị” sang chức năng “phục vụ”, cung cấp
dịch vụ công cho xã hội.
Một trong những chức năng cơ bản của nhà nước giao cho nền hành chính
đảm trách là cung ứng dịch vụ cơng. Nền hành chính ngày càng phát triển, vì vậy
dịch vụ công được mở rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau với yêu cầu ngày càng
cao về chất lượng, đồng thời cần phối hợp và điều hòa các nguyện vọng cá nhân
với lợi ích của cộng đồng, của đất nước, hướng tới các mục tiêu của một xã hội dân
chủ. Nhiều hoạt động cung ứng dịch vụ công được chuyển giao dần cho các khu
vực ngoài nhà nước thực hiện, nhà nước khơng tự mình giải quyết tất cả các vấn đề
xã hội mà đẩy mạnh dân chủ hóa gắn với phân quyền, xã hội hóa nhằm tập trung
chỉ thực hiện tốt vai trò “lái thuyền”. Theo cách tiếp cận này, hành chính cơng được
coi là quản lý cơng hay mơ hình quản lý cơng mới, đó là sự điều hành, giám sát và
quản lý các chủ thể khác nhau của xã hội nhằm phục vụ tốt hơn các nhu cầu chính


5

đáng của nhân dân. Quản lý cơng mới có mục tiêu tạo ra một nền hành chính hoạt
động hiệu quả và gần với thị trường hơn, đồng thời mơ hình này cũng áp dụng các
nguyên tắc, kỹ thuật và thực tiễn quản lý theo cơ chế thị trường và cách thức hoạt
động của khu vực tư.

Trong nền kinh tế thị trường, các lợi ích chung mà dịch vụ cơng đem lại thể
hiện dưới hình thức hàng hóa cơng cộng, là loại hàng hóa mà mọi người đều có thể
sử dụng, việc tiêu dùng của người này không giảm lượng tiêu dùng của người khác
và nó vẫn tồn tại khi khơng tiêu dùng. Dịch vụ cơng có nhiều loại, từ y tế, giáo dục,
kết cấu hạ tầng, xóa đói giảm nghèo cho đến an ninh, bảo trợ xã hội... Dịch vụ cơng
có đặc điểm là tính chất xã hội cao, tính quần chúng rộng rãi với mục tiêu là phục
vụ lợi ích cộng đồng, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội, cơng bằng. Do đó,
tính kinh tế, lợi nhuận trong cơ chế thị trường không phải là điều kiện cần có của
hoạt động dịch vụ cơng, việc trao đổi dịch vụ công không thông qua hoặc không
bao hàm quan hệ thị trường đầy đủ. Đối với một số dịch vụ cơng người sử dụng
phải trả một phần hay tồn bộ kinh phí, thì nhà nước vẫn có trách nhiệm cung cấp
các dịch vụ này không nhằm mục tiêu lợi nhuận (như pháp luật, an ninh, quốc
phòng, cấp các loại giấy tờ bảo đảm quyền sở hữu và các lợi ích khác của người
dân).
Xã hội hóa dịch vụ cơng mang đến "lợi ích kép" cho cả khu vực nhà nước và
khu vực tư nhân, nhà nước giảm được gánh nặng, tập trung hơn vào công tác quản
lý vĩ mô, từ đó tạo điều kiện để khu vực tư nhân có cơ hội đầu tư và cạnh tranh phát
triển. Nhiều nhà cung ứng dịch vụ công sẽ tạo ra sự cạnh tranh nên dịch vụ cung
cấp được rẻ hơn, tốt hơn; mặt khác, bộ máy nhà nước cũng trở nên gọn nhẹ và tiết
kiệm hơn.
Tại Việt Nam, xã hội hóa được hiểu là chuyển giao việc cung ứng dịch vụ
công cho các khu vực ngồi nhà nước; huy động đóng góp và động viên sự tham
gia rộng rãi của công dân và các tổ chức xã hội, nghề nghiệp vào quá trình cung
ứng dịch vụ cơng và Nhà nước là người chịu trách nhiệm trước xã hội về việc bảo
đảm đáp ứng nhu cầu của nhân dân ở mức cao nhất với bất kỳ hình thức cung ứng
nào.
Hiện nay có các hình thức xã hội hóa dịch vụ cơng như sau:
Nhà nước ủy quyền cho các tổ chức xã hội hay các công ty tư nhân cung ứng
một số dịch vụ mà nhà nước có trách nhiệm bảo đảm và thường có nguồn kinh phí
từ ngân sách (vệ sinh mơi trường, hệ thống cấp thoát nước, thu gom và xử lý rác

thải...). Các tổ chức và công ty được ủy quyền phải tuân thủ những quy định của
nhà nước và được nhà nước cấp kinh phí.
Chuyển giao trách nhiệm cung ứng dịch vụ cơng cho một số tổ chức ngồi nhà
nước có điều kiện thực hiện có hiệu quả (đào tạo, khám chữa bệnh, tư vấn, giám
định). Các tổ chức ngoài nhà nước (như các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức xã


6

hội) này được khuyến khích hoạt động theo cơ chế khơng vì lợi nhuận, mà chỉ thu
phí để tự trang trải.
Tư nhân hóa một số dịch vụ cơng theo những tiêu chí về quyền lợi và trách
nhiệm, đồng thời nhà nước vẫn giám sát và bảo đảm lợi ích cơng cộng theo pháp
luật. Ở trình độ phát triển cao về kinh tế và xã hội, nhà nước mua dịch vụ công từ
khu vực tư nhân, những dịch vụ mà tư nhân có thể làm tốt. Nhờ đó, số người làm
dịch vụ trong cơ quan nhà nước sẽ được giảm bớt.
Thực trạng xã hội hóa dịch vụ cơng:
Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, chính sách về đẩy mạnh xã hội hóa
dịch vụ cơng, nhằm huy động nguồn lực từ trong nhân dân và sự tham gia của
người dân vào việc giải quyết các vấn đề thuộc chính sách xã hội của Nhà nước,
nhưng khơng làm giảm vai trị, trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm các
dịch vụ công cơ bản cho người dân.
Thời gian qua, chúng ta đã đạt được một số thành quả từ việc xã hội hóa dịch
vụ cơng trên tất cả các lĩnh vực đời sống. Bắt đầu từ thay đổi nhận thức về vai trò
của Nhà nước đối với các dịch vụ cơng liên quan đến thủ tục hành chính - lĩnh vực
mà trước đây chỉ có Nhà nước đảm trách - thì hiện nay đã đã chuyển giao một phần
cho các tổ chức ngồi nhà nước. Các chính sách, quy định làm cơ sở cho việc thực
hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa đã được Chính phủ nghiên cứu, ban hành
nhằm thu hút các nguồn lực tham gia vào hoạt động phát triển sự nghiệp giáo dục,
y tế, văn hóa, thể dục, thể thao. Kết quả cho thấy, hệ thống các cơ sở cung ứng dịch

vụ cơng ngồi cơng lập ngày càng phát triển đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu
của xã hội trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao…, tạo
cơng ăn việc làm cho hàng chục vạn người. Mạng lưới các trường, cơ sở đào tạo,
dạy nghề ngồi cơng lập được mở rộng ở các cấp học. Trình độ đào tạo; tỷ lệ học
sinh, sinh viên ở các trường ngoài công lập ngày càng tăng. Nhiều cơ sở y tế ngồi
cơng lập được thành lập ở các địa phương, thực hiện cấp cứu, khám, chữa bệnh cho
hàng triệu lượt người, góp phần giảm tải cho các cơ sở khám, chữa bệnh công lập.
Các cơ sở cung ứng dịch vụ văn hóa và thể dục, thể thao ngồi cơng lập tăng
nhanh, thu hút được nhiều nguồn lực, nhiều thành phần kinh tế trong xã hội tham
gia.
Chúng ta thực hiện có hiệu quả chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa, huy động
được nhiều nguồn lực xã hội để cùng với ngân sách nhà nước đầu tư cho các lĩnh
vực dịch vụ công, tạo điều kiện cho ngân sách nhà nước tập trung đầu tư phát triển
các cơ sở công lập phục vụ những vùng nghèo, người nghèo và bảo đảm những
dịch vụ cơ bản như giáo dục phổ cập; các chương trình mục tiêu quốc gia; y tế dự
phòng, y tế cơ sở, chăm sóc sức khoẻ cơ bản cho các đối tượng chính sách, người
nghèo... Thúc đẩy việc hình thành cơ chế cạnh tranh giữa các loại hình tổ chức
cung ứng dịch vụ cơng lập và ngồi cơng lập nhằm mở rộng và nâng cao chất


7

lượng phục vụ; nâng cao ý thức trách nhiệm và mở rộng sự tham gia của toàn dân
vào sự nghiệp phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao… của đất nước.
Tuy nhiên, hiện nay, việc tăng nhanh số lượng các cơ sở cung ứng dịch vụ
ngoài cơng lập địi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước phải có những biện pháp quản
lý mới, nội dung và phương thức quản lý cần thay đổi do có nhiều vấn đề nảy sinh
trong việc kiểm soát chất lượng dịch vụ. Khơng ít các doanh nghiệp trong khu vực
tư nhân thường chú trọng đến lợi nhuận nhiều hơn nên có xu hướng đẩy cao giá
dịch vụ, các loại phí dịch vụ bị điều chỉnh tùy tiện, chất lượng dịch vụ khơng tương

xứng, cơ chế tài chính thiếu minh bạch. Nhiều cơ sở tư nhân được thành lập tự phát
khó kiểm soát được chất lượng, như hàng loạt trường mầm non tư thục thành lập
nhưng không đáp ứng đủ về không gian cho trẻ, thực phẩm và các điều kiện chăm
sóc trẻ cũng khơng được bảo đảm, thiếu giáo viên cơ hữu; các cơ sở khám, chữa
bệnh không đáp ứng được yêu cầu, nâng tùy tiện giá thuốc; các hãng phim chạy
theo xu hướng giải trí rẻ tiền, thiếu tính giáo dục, định hướng... Tất cả đang đặt ra
vấn đề về kiểm soát chất lượng đối với các dịch vụ được khối tư nhân cung ứng cho
xã hội. Tất nhiên, tình trạng kém chất lượng trong cung ứng dịch vụ khơng bắt
nguồn từ việc xã hội hóa, song mức độ xã hội hóa ồ ạt, thiếu kiểm sốt rõ ràng đã
tác động tiêu cực đến quyền lợi của người thụ hưởng dịch vụ…
Ưu điểm của xã hội hóa dịch vụ công:
Thời gian qua, chúng ta đã đạt được một số thành quả từ việc xã hội hóa dịch
vụ cơng trên tất cả các lĩnh vực đời sống. Có thể thấy nó đã đem lại những lợi ích
khơng thể phủ nhận. Bắt đầu từ thay đổi nhận thức về vai trò của Nhà nước đối với
các dịch vụ công liên quan đến thủ tục hành chính - lĩnh vực mà trước đây chỉ có
Nhà nước đảm trách - thì hiện nay đã chuyển giao một phần cho các tổ chức ngoài
nhà nước.
Các chính sách, quy định làm cơ sở cho việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh
xã hội hóa đã được Chính phủ nghiên cứu, ban hành nhằm thu hút các nguồn lực
tham gia vào hoạt động phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể
thao. Kết quả cho thấy, hệ thống các cơ sở cung ứng dịch vụ cơng ngồi cơng lập
ngày càng phát triển, đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu của xã hội trong các lĩnh
vực giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao… tạo công ăn việc làm cho hàng
chục vạn người.
Mạng lưới các trường, cơ sở đào tạo, dạy nghề ngồi cơng lập đã được mở
rộng ở các cấp học. Trình độ đào tạo; tỷ lệ học sinh, sinh viên ở các trường ngồi
cơng lập ngày càng tăng. Nhiều cơ sở y tế ngồi cơng lập được thành lập ở các địa
phương, thực hiện cấp cứu, khám chữa bệnh cho hàng triệu lượt người, góp phần
giảm tải cho các cơ sở khám chữa bệnh công lập. Các cơ sở cung ứng dịch vụ văn
hóa và thể dục thể thao ngồi cơng lập tăng nhanh, thu hút được nhiều nguồn lực,

nhiều thành phần kinh tế trong xã hội tham gia.


8

Có thể thấy, Đồng Tháp đã thực hiện có hiệu quả chủ trương đẩy mạnh xã hội
hóa, huy động được nhiều nguồn lực xã hội để cùng với ngân sách nhà nước đầu tư
cho các lĩnh vực dịch vụ công, tạo điều kiện cho ngân sách nhà nước tập trung đầu
tư phát triển các cơ sở công lập phục vụ những vùng nghèo, người nghèo và đảm
bảo những dịch vụ cơ bản như: Giáo dục phổ cập; Các chương trình mục tiêu quốc
gia; Y tế dự phòng, y tế cơ sở, chăm sóc sức khoẻ cơ bản cho các đối tượng chính
sách, người nghèo...
Đẩy mạnh xã hội hóa bằng việc khuyến khích thành lập các cơ sở ngồi cơng
lập, mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng dịch vụ của các cơ sở này; thúc đẩy
việc hình thành cơ chế cạnh tranh giữa các loại hình tổ chức cung ứng dịch vụ cơng
lập và ngồi cơng lập nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng phục vụ; nâng cao ý
thức trách nhiệm và mở rộng sự tham gia của toàn dân vào sự nghiệp phát triển
giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao… của đất nước.
Hạn chế của xã hội hóa dịch vụ cơng:
Thực tế hiện nay, việc tăng nhanh số lượng các cơ sở cung ứng dịch vụ ngồi
cơng lập địi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước phải có những biện pháp quản lý
mới, nội dung và phương thức quản lý cần phải thay đổi do có nhiều vấn đề nảy
sinh trong việc kiểm soát chất lượng dịch vụ. Các doanh nghiệp trong khu vực tư
nhân thường chú trọng đến lợi nhuận nhiều hơn nên có xu hướng đẩy cao giá dịch
vụ, các loại phí dịch vụ bị điều chỉnh tùy tiện, chất lượng dịch vụ khơng tương
xứng, cơ chế tài chính khơng minh bạch, nhiều cơ sở tư nhân được thành lập tự
phát khó kiểm sốt được chất lượng. Ví dụ như, hàng loạt trường mầm non tư thục
thành lập nhưng không đáp ứng đủ về không gian cho trẻ, thực phẩm và các điều
kiện chăm sóc trẻ cũng khơng được đảm bảo, thiếu giáo viên cơ hữu; các cơ sở
khám chữa bệnh không đáp ứng được yêu cầu, nâng tùy tiện giá thuốc; các hãng

phim chạy theo xu hướng giải trí rẻ tiền, thiếu định hướng...
Tất cả đang đặt ra vấn đề về kiểm soát chất lượng đối với các dịch vụ được
khối tư nhân cung ứng cho xã hội. Tất nhiên, tình trạng kém chất lượng trong cung
ứng dịch vụ khơng bắt nguồn từ việc xã hội hóa, tuy nhiên, mức độ xã hội hóa ồ ạt,
thiếu kiểm sốt rõ ràng đã tác động tiêu cực đến quyền lợi của người thụ hưởng
dịch vụ.
Thứ nhất, các cấp, các ngành quan niệm về xã hội hóa chưa tồn diện và đầy
đủ, chỉ mới xem xã hội hóa là biện pháp huy động sự đóng góp của nhân dân tạm
thời trong điều kiện Nhà nước đang khó khăn về tài chính và ngân sách; và chưa
thực sự quyết tâm đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động dịch vụ cơng.
Thứ hai, một bộ phận cán bộ, cơng chức và người dân có tư tưởng trông chờ, ỷ
lại vào sự cung cấp của Nhà nước, trong khi đó, việc quán triệt, tuyên truyền về
mục tiêu, sự cần thiết của xã hội hóa chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ ba, những chính sách, quy định, cơ chế để thu hút đầu tư của các nguồn
lực xã hội nhằm phát triển các dịch vụ cơng ngồi công lập chưa đủ thu hút, chưa


9

đủ mạnh. Các chính sách địn bẩy kinh tế như thuế, tín dụng, đất đai, chế độ tiền
lương, bảo hiểm xã hội chưa được triển khai thực hiện đồng bộ và nhất quán để
thúc đẩy sự phát triển của hệ thống các cơ sở dịch vụ ngồi cơng lập. Cơng tác phối
hợp giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Công tác chỉ đạo triển khai thực
hiện của Nhà nước cịn chưa quyết liệt.
Thứ tư, thói quen bao cấp, cửa quyền của cơ quan nhà nước chưa xóa bỏ hết,
đồng thời chưa hình thành được thói quen về u cầu xã hội hóa dịch vụ cơng trong
xã hội. Trong khi đó, tính tự phát của thị trường và người dân phát sinh khá phổ
biến gây ra nhiều khó khăn cho những người muốn sống đúng pháp luật hay cạnh
tranh lành mạnh. Nạn hối lộ, tham những lớn nhỏ diễn ra khắp nơi mà chưa được
xử lý triệt để. Đó là khó khăn cho xã hội hóa dịch vụ cơng.

Biện pháp khắc phục hạn chế của xã hội hóa dịch vụ công:
Đồng Tháp đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa và cải cách hành chính nhà nước. Trong bối cảnh tồn cầu hóa, chúng ta phải
đối diện với nhiều thách thức hơn bởi các yếu tố môi trường tự nhiên, kinh tế, xã
hội ln ln biến đổi, u cầu một nền hành chính năng động, đổi mới và sáng
tạo. Nâng cao hiệu quả của xã hội hóa dịch vụ cơng là u cầu tất yếu trong giai
đoạn phát triển mới của tỉnh Đồng Tháp.
Trong hồn cảnh của Đồng Tháp hiện nay, cơng tác xã hội hóa mới chỉ được
thực hiện, triển khai nhen nhóm, chưa đủ mạnh. Nguyên nhân chủ yếu là do chưa
có cơ chế quản lý hiệu quả, khu vực tư nhân chưa đủ lớn mạnh để tiếp nhận việc
cung ứng dịch vụ một cách tốt nhất. Do đó, Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong
cung ứng dịch vụ công. Vấn đề đặt ra cho Nhà nước và các cơ sở cơng lập ở đây
chính là muốn thúc đẩy xã hội hóa thì cần phải tự nâng cao chất lượng phục vụ, đặt
chức năng phục vụ lên hàng đầu. Nhà nước cần đảm bảo những dịch vụ cần thiết và
chất lượng cho người dân, xã hội.
Để giải quyết các vấn đề đó, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:
Một là, có cái nhìn đúng về bản chất và mục tiêu xã hội hóa dịch vụ cơng, đặc
biệt là trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm khuyến
khích phát triển xã hội hóa dịch vụ cơng. Hơn hết, coi đây là một trong những giải
pháp quan trọng để huy động các nguồn lực và năng lực của xã hội một cách mạnh
mẽ, đáp ứng nhu cầu và lợi ích của các tầng lớp nhân dân, phù hợp với sự phát triển
đất nước. Phát huy mọi tiềm năng, mọi sức lực trong xã hội nhằm phát triển dịch vụ
công. Tạo điều kiện cho mọi thực thể kinh tế tham gia vào dịch vụ cơng để làm
giàu cho mình và cho tồn xã hội.
Các cấp chính quyền cần hiểu rõ trách nhiệm quản lý và tổ chức cung ứng
dịch vụ công trên mọi mặt như ban hành các cơ chế, chính sách và quy định những
tiêu chuẩn, định mức, chất lượng, giá cả và dịch vụ… sao cho hợp lý và đảm bảo
cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản, bước đầu đáp ứng nhu cầu của xã hội; giao kế
hoạch/đặt hàng và thanh toán dịch vụ theo đơn đặt hàng với đơn vị tổ chức cung



10

ứng dịch vụ công; thực hiện trợ giúp người nghèo, đối tượng chính sách được thụ
hưởng dịch vụ sự nghiệp cơng; thanh tra, kiểm tra q trình thực hiện dịch vụ công.
Đảm bảo việc các chủ thể kinh tế dịch vụ công cạnh tranh và hợp tác một cách văn
minh và kinh doanh có văn hóa.
Hai là, những quan niệm về quyền sở hữu trong các loại hình xã hội hóa dịch
vụ cơng như trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu, cơ sở văn hoá, thể dục thể
thao, vui chơi giải trí ngồi cơng lập... cần được làm rõ để người dân và xã hội hiểu
đúng, hiểu đủ; đồng thời hình thành các quan niệm đúng đắn, phù hợp, liên quan
đến các vấn đề về dịch vụ ngồi cơng lập.
Ba là, Nhà nước cần phải có cơ chế thích hợp để đảm bảo được chất lượng
dịch vụ công cung ứng đến người dân, đồng thời mở rộng chuyển giao việc cung
ứng dịch vụ cho tư nhân một cách mạnh mẽ. Muốn làm được việc này, Nhà nước
cần hoàn thiện pháp luật một cách đồng bộ về bộ máy nhà nước, trao thẩm quyền
cụ thể cho từng loại cơ quan thực hiện quản lý và cung ứng dịch vụ công; đặt ra chế
tài xử lý vi phạm cùng với cơ chế bảo đảm thực hiện các chế tài đó khi có hành vi
vi phạm. Đồng thời, nâng cao vai trò của Tịa Hành chính trong việc xét xử các
quyết định hành chính, hành vi cơng vụ. Nhà nước cũng cần phải xây dựng, hoàn
thiện hành lang pháp lý với những cơ chế, chính sách ưu đãi hiệu quả và khả thi
nhằm khuyến khích việc chuyển đổi mơ hình hoạt động đối với các đơn vị sự
nghiệp bán công và công lập sang hình thức tư thục cũng như cho việc thành lập
các cơ sở ngồi cơng lập, cổ phần hóa...
Khuyến khích các cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế cùng tham gia bằng
cách từng bước chuyển cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập sang cơ
chế cung ứng dịch vụ. Xây dựng các chế độ học phí, viện phí và phí, lệ phí trong
các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao... được tính tốn đầy đủ, bao
gồm các chi phí cơ bản, đảm bảo phù hợp với khả năng huy động các nguồn lực
trong xã hội và phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương, từng loại đối

tượng. Cần có những quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi tự chịu trách
nhiệm đối với những cơ sở công lập chuyển đổi sang hoạt động theo cơ chế sự
nghiệp - tự chủ, tự hạch toán, tự chịu trách nhiệm.
Cơ chế tài chính cần được làm rõ và mức độ vượt quá để Nhà nước có thể can
thiệp kịp thời, tránh để tình trạng khơng kiểm sốt được. Những vấn đề này chủ yếu
liên quan đến học phí, viện phí, trợ giá, trợ cước và các loại phí dịch vụ khác. Quy
định rõ Nhà nước sẽ can thiệp khi có những thay đổi khách quan như thay đổi mức
phí khi giá dịch vụ cao hơn mặt bằng chung hoặc khi thực hiện chính sách xã hội…
Bốn là, việc quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập cần được rà
soát, kiểm tra, đặc biệt chú ý đến quy hoạch phát triển các dịch vụ ngồi cơng lập
nhằm đáp ứng quy mô định hướng phát triển, phù hợp với yêu cầu của xã hội; điều
chỉnh, bổ sung quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng mở
rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư của nước ngoài. Các


11

nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển các đơn vị dịch vụ công
lập và dịch vụ ngồi cơng lập được tăng cường và đa dạng hóa.
Năm là, Nhà nước cần ban hành những chính sách hỗ trợ đầu tư ban đầu,
khuyến khích các cơ sở ngồi cơng lập cùng với các chính sách đầu tư có hiệu quả
cho các loại hình dịch vụ cơng lập, đa dạng các hình thức, như: Tư nhân góp vốn,
liên doanh, vốn đầu tư nước ngoài; BOT (đầu tư - khai thác - chuyển giao), BT,
BTO; Đầu tư xây dựng nhà cửa, cơ sở hạ tầng cho các cơ sở ngồi cơng lập th
dài hạn với giá ưu đãi, khuyến khích các cơ sở ngồi cơng lập có điều kiện phát
triển. Các địa phương có quy hoạch về đất, dành quỹ đất để xây dựng và phát triển
các cơ sở ngồi cơng lập phù hợp với định hướng phát triển xã hội hóa.
Sáu là, đẩy mạnh truyền thơng, thơng tin liên tục trong xã hội về chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có các nội dung xã hội hố dịch vụ
cơng một cách thường xun, sinh động, đa dạng và hiệu quả trên các phương tiện

truyền thông.
Bảy là, để đảm bảo chất lượng cung ứng dịch vụ của các cơ sở ngồi cơng lập,
cần có cơ chế kiểm tra, kiểm soát hợp lý, quan trọng là phải ban hành được các
chuẩn về chất lượng dịch vụ công. Các dịch vụ công hiện nay mới chỉ được cung
ứng tới người dân và xã hội một cách thụ động, mức độ cung ứng cơ bản, thiết yếu
so với nhu cầu và chưa có một hệ thống chuẩn mực nào để so sánh, đánh giá và
hướng tới. Phương thức cung ứng vẫn cịn hạn chế, dập khn, kém năng động và
chưa phù hợp với các vùng miền có đặc điểm kinh tế - xã hội đặc biệt (như việc
phân biệt giữa thành thị và nông thôn, miền núi và đồng bằng).
Cụ thể, cần phải xây dựng và ban hành tiêu chuẩn hóa về cán bộ, cơ sở vật
chất và các yêu cầu khác đối với các cơ sở ngoài công lập; quy định chế độ thông
tin, báo cáo và trách nhiệm giải trình của các đơn vị dịch vụ sự nghiệp cơng. Hình
thành các tổ chức kiểm định, đánh giá chất lượng dịch vụ độc lập theo ngành, lĩnh
vực; xây dựng cơ chế giám sát và đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra để kịp thời
xử lý những hiện tượng tiêu cực, tùy tiện. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ trong quản lý và tổ chức cung ứng dịch vụ
công. Chế độ chịu trách nhiệm phải được thực hiện nghiêm túc và thường xuyên.
Nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức trong cung ứng dịch vụ song song
với việc đặt ra hệ thống tiêu chuẩn chất lượng; đề cao trách nhiệm của cá nhân và
đặt ra cơ chế giải trình hợp lý, như vậy, cơng tác kiểm tra, giám sát sẽ đạt hiệu quả
cao hơn.
Tám là, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi nguồn viện trợ nhằm đẩy
mạnh cho giáo dục, y tế, khoa học, cơng nghệ; có chính sách động viên, thu hút đội
ngũ trí thức Việt kiều về nước tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học, khám chữa bệnh, hoạt động văn hóa, thi đấu thể thao.
Như vậy, thơng qua nhiều cơ chế, chính sách khác, Nhà nước cần có các biện
pháp hữu hiệu để giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bình đẳng xã


12

hội trong việc đáp ứng nhu cầu dịch vụ công. Tức là, Nhà nước tạo ra những điều

kiện cần thiết để mọi người đều có cơ hội tham gia, giành thắng lợi và được lựa
chọn ngang nhau trên thị trường dịch vụ cơng. Vai trị của Nhà nước là sáng tạo và
vận dụng phương tiện lập pháp để tạo điều kiện cho tự do cạnh tranh một cách hoàn
hảo trên lĩnh vực này. Đây là lĩnh vực nhạy cảm, để đảm bảo việc đa dạng hóa
thành phần kinh tế trong việc tham gia dịch vụ hành chính cơng, khơng dẫn tới
chệch hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt những
nguyên tắc căn bản của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Xã hội hóa dịch vụ cơng một phần xuất phát từ quá trình chuyển đổi nền kinh
tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, nhưng cũng chính dịch vụ
cơng lại bị ảnh hưởng trở lại bởi kinh tế thị trường với những tác động hai mặt của
nó. Bởi vậy, để tránh được tình trạng biến tướng từ “xã hội hóa” dịch vụ cơng thành
“tư nhân hóa”, khơng chỉ cần đến những giải pháp mạnh mẽ và đồng bộ hơn, mà
cịn u cầu phải có cách nhìn thấu đáo hơn trong việc xác định trọng tâm của công
cuộc đổi mới.
-Hết-



×