Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

“Nhận thức và chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.02 KB, 29 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Quá trình phát triển nhận thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chủ trương
giải quyết các vấn đề xã hội chính là quá trình phát triển nhận thức từ trước thời kỳ
đổi mới cũng như trong thời kỳ đổi mới cho đến ngày nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện, nhiều năm qua Đảng ta đưa ra nhiều chính sách giải quyết
các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội,
cơng bằng xã hội và xây dựng chính sách xã hội dựa trên cách tiếp cận về dân
quyền của nhân dân ta ngày càng sâu sắc và rõ nét hơn.
Bản thân các thành viên của nhóm cũng muốn tìm hiểu về nhận thức và chủ
trương của Đảng ta về việc giải quyết các vấn đề xã hội thời kỳ trước đổi mới và
trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã đạt được những thành tựu cũng như các mặc hạn
chế qua từng giai đoạn của nước ta.
Vì vậy, nhóm quyết định chọn nội dung “Nhận thức và chủ trương giải
quyết các vấn đề xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam” làm đề tài tiểu luận kết
thúc môn Đường lối cách mạng của Đảng.
II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Để thuận lợi hiểu rõ hơn về đề tài mà nhóm đã chọn tìm hiểu. Nhóm đã tìm
thêm thơng tin qua các trang mạng điện tử sau:
Trên trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương có bài viết về
“Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về chính sách xã hội và giải quyết các
vấn đề xã hội” phát hành vào ngày 16/09/2019 với nội dung chính nói về các giai
đoạn phát triển của đất nước, từ nhận thức đúng đắn tính thống nhất và mâu thuẫn
trong quá phát triển kinh tế và phát triển xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng
bước đề ra những quan điểm, chủ trương đúng đắn để xử lý mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển xã hội, chính sách xã hội ngày càng gắn kết với đảm
bảo các quyền cơ bản của người dân và những nhận thức mới trong từng lĩnh vực
Lao động, Người có công và Xã hội.
/>1



Trên cổng thơng tin điện Tử Chính Phủ Nước Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam có bài báo cáo viết về “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khố IX tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng” theo nguồn Báo
Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam báo cáo về Đại hội X của Đảng họp vào lúc toàn
Đảng, toàn dân ta kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đã trải qua 20
năm đổi mới. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện cơng cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển.
/>ngTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?
categoryId=10000715&articleId=10038386
Trên trang thông tin điện tử Tạp Chí Của Ban Tun Giáo Trung Ương có
bài viết nghiên cứu về “Những thành tựu về nhận thức lý luận của Đảng trong thời
kỳ đổi mới” phát hành vào ngày 03/02/2020 trình bày khái quát những thành tựu
lớn về văn hóa, xã hội và con người, phát triển nhận thức lý luận của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong sự nghiệp Đổi mới.
/>Đề tài của nhóm em khơng đi sâu vào nội dung (Quá trình phát triển nhận
thức của Đảng về chính sách xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội) như PV (theo
BC của Bộ LĐTB &XH), nội dung (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khố IX tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng) theo nguồn
Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam và nội dung nghiên cứu về (Những thành
tựu về nhận thức lý luận của Đảng trong thời kỳ đổi mới) như GS.TS Tạ Ngọc Tấn
- Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương. Mà chỉ đi vào tìm hiểu một cách
khái quát nhận thức và chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội của Đảng Cộng Sản
Việt Nam. Giá trị của ba bài viết trên là tài liệu quý báu để nhóm em tham khảo
trong q trình làm đề tài của nhóm mình.
III. MỤC ĐÍCH VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu để có thêm sự hiểu biết về vấn đề xã hội, nhận thức, nêu ra và giải
thích các chủ trương của Đảng ta về giải quyết vấn đề xã hội thời kỳ trước đổi mới

2


và cuối cùng là đánh giá của Đảng ta về quá trình nhận thức và chủ trương giải
quyết các vấn đề xã hội thời kỳ trước đổi mới. Quá trình Đảng ta đổi mới nhận thức
về việc giải quyết các chính sách xã hội, trình bày rõ hơn quan điểm và chủ trương
của Đảng ta về việc giải quyết các chính sách xã hội cuối cùng là đánh giá của
Đảng ta về quá trình giải quyết các chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, giữ vai trị lãnh đạo tồn điện
đất nước. Vì vậy, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam gồm nhiều
nội dung như: Đường lối cơng nghiệp hóa, Đường lối xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đường lối xây dựng hệ thống chính trị,
Đường lối xây dựng phát triển nền văn hóa và giải quyết các vấn đề xã hội…
Tiểu luận này của nhóm chỉ nhằm tìm hiểu để làm rõ thêm những vấn đề
(hồn cảnh lịch sử, nhận thức, quan điểm, chủ trương, phương hướng, biện pháp)
của Đảng ta về Đường lối vấn đề xã hội, nhận thức, nêu ra và giải thích các chủ
trương của Đảng ta về giải quyết vấn đề xã hội thời kỳ trước đổi mới và cuối cùng
là đánh giá của Đảng ta về quá trình nhận thức và chủ trương giải quyết các vấn đề
xã hội thời kỳ trước đổi mới. Quá trình Đảng ta đổi mới nhận thức về việc giải
quyết các chính sách xã hội, trình bày rõ hơn quan điểm và chủ trương của Đảng ta
về việc giải quyết các chính sách xã hội cuối cùng là đánh giá của Đảng ta về quá
trình giải quyết các chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới.
IV. KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm có
các nội dung sau:
CHƯƠNG 1: Nhận thức và chủ trương của Đảng ta về việc giải quyết các vấn
đề xã hội thời kỳ trước đổi mới.
1.1. Nhận thức của Đảng ta về gỉai quyết các vấn đề xã hội thời kì trước đổi
mới.

1.2. Phân tích chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội thời kì
trước đổi mới.

3


1.3. Đảng ta đánh giá quá trình nhận thức và chủ trương giải quyết vấn đề
xã hội thời kì trước đổi mới như thế nào.
CHƯƠNG 2: Nhận thức và chủ trương của Đảng ta về việc giải quyết các vấn
đề xã hội trong thời kỳ đổi mới.
2.1. Trình bày quá trình Đảng ta đổi mới nhận thức về việc giải quyết các
vấn đề xã hội.
2.2. Phân tích quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội.
2.3. Phân tích chủ trương của Đảng ta về việc giải quyết các vấn đề xã hội.
2.4. Đảng ta đánh giá quá trình nhận thức và chủ trương giải quyết vấn đề
xã hội thời kì đổi mới như thế nào.
QUAN ĐIỂM CỦA NHĨM
V. LỜI CẢM ƠN
Nhóm chúng em xin trân trọng cảm ơn thầy Tạ Trần Trọng – Giảng viên bộ
môn đã hướng dẫn và giúp đỡ tận tình nhóm hồn thành đề tài tiểu luận này.
Tuy bài viết còn nhiều thiếu sót và hạn chế nhưng mong rằng sẽ nhận được
nhiều sự góp ý và nhận xét từ thầy cơ.
Nhóm chúng em xin trân trọng cảm ơn!

4


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
………………………………………………………………………………………
…….

………………………………………………………………………………………
…….
………………………………………………………………………………………
…….
………………………………………………………………………………………
…….
………………………………………………………………………………………
…….
………………………………………………………………………………………
…….
………………………………………………………………………………………
…….
………………………………………………………………………………………
…….
………………………………………………………………………………………
…….
………………………………………………………………………………………
…….
………………………………………………………………………………………
…….
………………………………………………………………………………………
…….
5


………………………………………………………………………………………
…….
………………………………………………………………………………………
…….
………………………………………………………………………………………

…….
………………………………………………………………………………………
…….
………………………………………………………………………………………
….

B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG I: Nhận thức và chủ trương của Đảng ta về việc giải quyết các vấn
đề xã hội thời kỳ trước đổi mới.
Vấn đề xã hội là tất cả những gì liên quan đến con người, các nhóm người,
các cộng đồng người đến sự tồn tại, phát triển của con người trong một hoàn cảnh
xã hội nhất định được nhận thức như một vấn nạn của xã hội, đụng chạm đến lợi
ích của một cộng đồng. Đó là sản phẩm của con người có ảnh hưởng đến một nhóm
người nhất định và chỉ có thể được khắc phục thông qua hành động xã hội.

6


Các vấn đề xã hội trong chương này bao gồm nhiều lĩnh vực như: việc làm,
thu nhập, bình đẳng xã hội, khuyến khích làm giàu, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc
sức khỏe, cung ứng dịch vụ cơng, an sinh xã hội, cứu trợ xã hội, chính sách dân số
và kế hoạch hóa gia đình v.v..
1.1. Nhận thức của Đảng ta về giải quyết các vấn đề xã hội thời kì trước
đổi mới:
Ngay sau cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong những năm thực hiện
nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc, chính sách xã hội của Đảng được chỉ đạo bởi tư
tưởng: chúng ta giành được độc lập tự do rồi mà dân ta cứ chết đói, chết rét, thì tự
do độc lập cũng không làm gì.
1.2. Phân tích chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội thời kì
trước đổi mới:

Giai đoạn 1945 – 1954:
Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình Dân chủ nhân dân: Chính
phủ có chủ trương và hướng dẫn để các tầng lớp nhân dân chủ động và tự tổ chức
giải quyết các vấn đề xã hội của chính mình. Chính sách tăng gia sản xuất (nhằm tự
cấp tự túc), chủ trương tiết kiệm, đồng cam cộng khổ trở thành phong trào rộng rãi,
từ cơ quan chính phủ đến bộ đội, dân chúng, được coi trọng như đánh giặc. Khuyến
khích mọi thành phần xã hội phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Thực hiện
chính sách điều hòa lợi ích giữa chủ và thợ.
Giai đoạn 1955 – 1975:
Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ,
trong hoàn cảnh chiến tranh. Chế độ phân phối về thực chất là theo chủ nghĩa bình
quân. Nhà nước và tập thể đáp ứng các nhu cầu xã hội thiết yếu bằng chế độ bao
cấp tràn lan dựa vào viện trợ.
Giai đoạn 1975 – 1985:
Các vấn để xã hội được giải quyết theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu, bao cấp, trong hoàn cảnh đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội
nghiêm trọng, nguồn viện trợ giảm dần, bị bao vây, cô lập và cấm vận.
1.3. Đảng ta đánh giá quá trình nhận thức và chủ trương giải quyết vấn
đề xã hội thời kì trước đổi mới như thế nào:
Thành tựu:
7


Chính sách xã hội trong 9 năm kháng chiến, kiến quốc, tiếp sau đó là thời
bao cấp tuy có nhiều nhược điểm và hạn chế nhưng đã bảo đảm được sự ổn định
của xã hội, đồng thời còn đạt được thành tựu phát triển đáng tự hào trên một số lĩnh
vực như văn hóa, giáo dục, y tế, lối sống, đạo đức, kỷ cương và an ninh xã hội,
hoàn thành nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.
Những thành tựu đó nói lên bản chất tốt đẹp của chế độ mới và sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng trong giải quyết các vấn đề xã hội trong điều kiện chiến tranh

kéo dài, kinh tế chậm phát triển.
Hạn chế và nguyên nhân:
Trong xã hội đã hình thành tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể
trong cách giải quyết các vấn đề xã hội; chế độ phân phối trên thực tế là bình quân,
cào bằng, không khuyến khích những đơn vị, cá nhân làm tốt, làm giỏi v.v... Đã
hình thành một xã hội đóng, ổn định nhưng kém năng động, chậm phát triển về
nhiều mặt.
Nguyên nhân cơ bản của các hạn chế trên là chúng ta đặt chưa đúng tầm
chính sách xã hội trong quan hệ với chính sách thuộc các lĩnh vực khác, đồng thời
lại áp dụng và duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, bao cấp.

CHƯƠNG II: Nhận thức và chủ trương của Đảng ta về việc giải quyết các vấn
đề xã hội trong thời kỳ đổi mới .
2.1. Trình bày quá trình Đảng ta đổi mới nhận thức về việc giải quyết các
vấn đề xã hội:
Tại Đại hội VI, lần đầu tiên Đảng ta nâng các vấn đề xã hội lên tầm chính
sách xã hội, đặt rõ tầm quan trọng của chính sách xã hội đối với chính sách kinh tế
và chính sách ở các lĩnh vực khác. Đại hội cho rằng, trình độ phát triển kinh tế là
điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội nhưng những mục tiêu xã hội lại
là mục đích của các hoạt động kinh tế. Ngay trong khn khổ của hoạt động kinh
tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm... Do đó, cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài, phù hợp với yêu cầu và
khả năng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế ở
chỗ đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người. Phát triển kinh tế là cơ sở
và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời thực hiện tốt các chính sách
xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
8



Đại hội VIII của Đảng chủ trương, hệ thống chính sách xã hội phải được
hoạch định theo những quan điểm sau đây:
-  Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể
hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất cũng như ở khâu phân phối
kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển
và sử dụng tốt năng lực của mình.
-  Thực hiện nhiều hình thức phân phối.
-  Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo.
-  Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa.
Đại hội IX của Đảng chủ trương, các chính sách xã hội phải hướng vào phát
triển và làm lành mạnh hóa xã hộ, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động
lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình
đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.
Đại hội X của Đảng chủ trương, phải kết hợp các mục tiêu kinh tế với các
mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương.
Trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),
hội nhập sâu rộng hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế, Hội nghị Trung ương 4 khóa X
(tháng 1-2007) nhấn mạnh: phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá
trình thực thi các cam kết với WTO. Xây dựng cơ chế đánh giá và cảnh báo định kỳ
về tác động của việc gia nhập WTO đối với lĩnh vực xã hội để có biện pháp xử lý
chủ động, đúng đắn, kịp thời.
Đại hội XI của Đảng chủ trương phát triển toàn diện, mạnh mẽ các lĩnh vực
văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế.
Đại hội XII xác định: Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội.
2.2. Phân tích quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội:
Một là, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội.
Kế hoạch phát triển kinh tế phải tính đến mục tiêu phát triển các lĩnh vực xã

hội có liên quan trực tiếp. Mục tiêu phát triển kinh tế phải tính đến các tác động và
hậu quả xã hội có thể xảy ra để chủ động xử lý. Phải tạo được sự thống nhất, đồng
9


bộ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Sự kết hợp giữa hai loại mục tiêu
nảy phải được quán triệt ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, ở từng đơn vị
kinh tế cơ sở.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Trong từng bước và từng chính sách phát triển (của chính phủ hay của
ngành, của trung ương hay địa phương), cần đặt rõ và xử lý hợp lý việc gắn kết
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Nhiệm vụ "gắn kết" này
không đừng lại như một khẩu hiệu, một lời khuyến nghị mà phải được pháp chế
hóa thành các thể chế có tính cưỡng chế, buộc các chủ thể phải thi hành. Các cơ
quan, các nhà hoạch định chính sách phát triển quốc gia phải thấu triệt quan điểm
phát triển bền vững, phát triển "sạch", phát triển hài hòa, không chạy theo số lượng,
tăng trưởng bằng mọi giá.
Ba là, chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó
hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ.
Chính sách xã hội có vị trí, vai trò độc lập tương đối so với kinh tế, nhưng
không thể tách rời trình độ phát triển kinh tế, cũng không thể dựa vào viện trợ như
thời bao cấp. Trong chính sách xã hội, phải gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa
cống hiến và hưởng thụ. Đó là một yêu cầu của công bằng xã hội và tiến bộ xã hội;
xoá bỏ quan điểm bao cấp, cào bằng; chấm dứt cơ chế xin - cho trong chính sách xã
hội.
Bốn là, coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát
triển con người (HDI) và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội.
Quan điểm này khẳng định mục tiêu cuối cùng và cao nhất của sự phát triển
phải là vì con người, vì một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh. Phát triển phải bền vững, không chạy theo số lượng tăng trưởng.
2.3. Phân tích chủ trương của Đảng ta về việc giải quyết các vấn đề xã
hội:
Một là, khuyến khích mọi người dân lầm giàu theo pháp luật, thực hiện có
hiệu quả mục tiêu xoá đói, giảm nghèo.
Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát
triển. Tạo động lực làm giàu trong đông đảo dân cư bằng tài năng, sáng tạo của bản
thân, trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức cho phép. Có chính sách hạn chế phân
10


hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị. Xây dựng
và thực hiện có kết quả cao chương trình xoá đói, giảm nghèo; đề phòng tái đói, tái
nghèo; nâng cao dần chuẩn đói nghèo khi mức sống chung tăng lên.
Hai là, bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người
dân, tạo việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội da dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo
hiểm. Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo nhiều việc làm ở trong nước và
đây mạnh xuất khẩu lao động. Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội. Đổi mới chính
sách tiền lương; phân phối thu nhập xã hội công bằng, hợp lý.
Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả.
Hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở; quan tâm chăm sóc y tế tốt hơn đối với các
đối tượng chính sách; phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, các dịch vụ y tế
ngoài công lập.
Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe và cải thiện
giống nòi.
Quan tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản. Giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh
dưỡng. Đây mạnh công tác bảo vệ giống nòi, kiên trì phòng chống HIV/ AIDS và
các tệ nạn xã hội.
Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. +Giảm

tốc độ tăng dân số, bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số hợp lý.
Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc; bảo đảm bình đẳng giới;
chống nạn bạo hành trong quan hệ gia đình.
Sáu là, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội.
Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công
cộng.
2.4. Đảng ta đánh giá quá trình nhận thức và chủ trương giải quyết vấn
đề xã hội thời kì đổi mới như thế nào:
Qua 30 năm đổi mới, việc giải quyết các vấn đề xã hội đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng:

11


- Về lao động - việc làm: Các chính sách về lao động và việc làm của Nhà
nước đã chuyển biến theo hướng ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Bộ luật lao động được sửa đổi nhiều lần qua các năm
(2002, 2006, 2007, 2012) đã tạo hành lang pháp lý cho việc hoàn thiện các tiêu
chuẩn lao động, thiết lập quan hệ lao động giữa các chủ thể, điều chỉnh các quan hệ
xã hội có liên quan đến quan hệ lao động như hợp đồng lao động, thỏa ước lao
động tập thể, tiền lương, bảo hiểm xã hội, thời gian lảm việc, vệ sinh lao động, kỷ
luật lao động, giải quyết tranh chấp lao động, đình công. Mỗi năm bình quân tạo ra
1,5-1,6 triệu việc làm mới. Năm 2014, lao động trong khu vực chính thức đạt trên
30% và lao động đã qua đào tạo chiếm khoảng 49% tổng số lao động. Xây dựng và
triển khai Luật việc làm; nghiên cứu xây dựng Chương trình việc làm công.
- Về giảm nghèo bền vững: Trong 30 năm qua, Đảng vả Nhà nước ta luôn
nhất quán về chính sách giảm nghèo bền vững đi đôi với khuyến khích làm giàu
hợp pháp. Đã đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Chính phủ và
Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, trong đó chủ trọng chính sách giảm
nghèo đa chiều và khắc phục nguy cơ tái nghèo, nhất là đối với các hu vện nghèo,

ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiêu số thuộc huyện nghèo, xã biên giới,
xã an toàn khu, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo;
thu hẹp chênh lệch về mức sống và an sinh xã hội so với bình quân cả nước. Đã
tiến hành điều chỉnh chuẩn nghèo theo từng thời kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 1,5 - 2%/năm; các
huyện, xã đặc biệt khó khăn có tỷ lệ hộ nghèo giảm 4%/năm theo tiêu chuẩn nghèo
từng giai đoạn. Năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn 58,1%, đến năm 2011, tỷ lệ
hộ nghèo giảm còn 9,5%, năm 2013 còn 7,8%, năm 2014 còn 5,8-6%, năm 2015 tỷ
lệ hộ nghèo trong cả nước còn 4,5%; riêng các huyện nghèo còn 28%. Thành tựu
về giảm nghèo của Việt Nam đã được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế công
nhận, đánh giá cao.
- Chăm sóc sức khỏe nhân dân đã có nhiều tiến bộ. Hệ thống cơ sở y tế đã
được hình thành trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân tăng
nhanh. Hệ thống dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao chất lượng. Trong 10 năm
gần đây, các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng đã được thể chế hóa
trong Hiến pháp năm 2013 và 20 luật liên quan đến lĩnh vực y tế, dân số, tạo cơ sở
pháp lý quan trọng đối với lĩnh vực y tế. Trong lĩnh vực y tế, đã có nhiều chủ
trương, chính sách tương đối toàn diện, coi trọng cả về xây dựng thê chế, y tế dự
phòng, y học cổ truyền, quản lý thuốc, khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, vệ
sinh an toàn thực phẩm.
- Chính sách ưu đãi người có công đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm. cả nước hiện có khoảng 8,8 triệu người có công, chiếm khoảng 10% dân
12


số, có khoảng 1,4 triệu người được hưởng trợ cấp thường xuyên. Bảo đảm mức
sống của người có công bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên
địa bàn cư trú.
- Về chính sách an sinh xã hội: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã
hội toàn diện và đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống
bảo hiểm, như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai

nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để
người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm; mở rộng các hình thức
cứu trợ xã hội, nhất là đối với các đối tượng khó khăn. Phát triển hệ thống an sinh
xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, khả năng huy động và cân
dối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên những người có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng hệ thống
an sinh xã hội có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm
dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội. Hệ thống an sinh xã hội phát triển
không ngừng. Đến năm 2014, cả nước có hơn 11 triệu người tham gia bảo hiểm xã
hội bắt buộc, 190 nghìn người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, hơn 9 triệu
người tham gia bảo hiểm thất nghiệp và hơn 61 triệu người tham gia bảo hiểm y tế.
Rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện chính sách về an sinh xã hội; bảo hiểm xã
hội; bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội.
Bảo đảm cung ứng một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là
người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số về giáo
dục tối thiểu, y tế tối thiểu, nhà ở tối thiểu; bảo đảm nước sạch; bảo đảm thông tin.
Đã xây dựng vả thực hiện chiến lược phát triển nhà ở quốc gia và chương trình xóa
nhà tạm, phát triển nhà ở xã hội.
Hệ thống pháp luật và các chính sách phát triển các lĩnh vực xã hội ngày
càng được bô sung và hoàn thiện hơn. Diện thụ hưởng chính sách ngày càng mở
rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Nguồn lực đầu tư các lĩnh vực xã hội ngày càng
được tăng cường và đa dạng hóa.
Đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chính sách đê xây dựng, phát huy
vai trò các giai tầng xã hội trong sự nghiệp đổi mới. Đồng thời, đã xây dựng, ban
hành và thực hiện nhiều chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, về chăm sóc bà
mẹ và trẻ em, hôn nhân và gia đình, chăm sóc người cao tuổi, phòng, chống tệ nạn
xã hội, bạo lực gia đình.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo; đã tăng cường
đầu tư về kết cấu hạ tầng, kinh phí cho miền núi, vùng sâu, vùng xa, tạo chuyên

biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và
13


tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của các dân tộc và các tôn giáo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, việc giải quyết các vấn đề xã hội vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém,
những bức xúc xã hội có chiều hướng gia tăng.
Một số chính sách xã hội chậm đổi mới, chưa sát thực tiễn, thiếu cơ sở khoa
học; còn thiếu những chính sách đặc thù cho những vùng đặc thù; thiếu cơ chế,
chính sách điều tiết hợp lý quan hệ lợi ích, điều hòa các quan hệ xã hội, kiểm soát
các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội. Tiền lương chưa bảo đảm cuộc sống cán bộ,
công chức, viên chức, cải cách tiền lương tiến hành chậm, chưa đạt mục tiêu, yêu
cầu đề ra.
Phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng; phân tầng xã hội theo xu hướng
không hợp thức diễn biến phức tạp. Quản lý xã hội còn nhiều bất cập, lúng túng,
chồng chéo, thiếu hiệu quả; tiêu cực xã hội, tệ nạn xã hội, tai nạn xã hội, tội phạm
xã hội có chiều hướng gia tăng.
Giảm nghèo thiếu bền vững. Chưa hình thành cơ chế đồng bộ về giảm nghèo
đa chiều, đa mục tiêu. Nhiều chính sách an sinh xã hội và giảm nghèo chồng chéo
nhau và chồng chéo với các chính sách khác. Đời sống của một bộ phận nhân dân
còn nhiều khó khăn; kết cấu hạ tầng xã hội ở nhiều địa phương, khu vực, nhất là
vùng sâu, vùng xa còn hạn chế, một bộ phận nhân dân chưa được hưởng thụ một
cách công bằng các thành quả của công cuộc đổi mới. Bất bình đẳng xã hội về thu
nhập, giáo dục, y tế, văn hóa, an sinh xã hội,... chậm được khắc phục.
Một số bức xúc xã hội chậm dược giải quyết; một số vấn đề mới nảy sinh
liên quan đến giai cấp, dân tộc, tôn giáo, dân số, đất đai, lao dộng, việc làm, thu
nhập,... chưa có giải pháp khắc phục hiệu quả. Từ đó, xuất hiện nhiều điểm nóng,
tình trạng khiếu kiện đông người và những căng thẳng trong quan hệ xã hội, tiềm

ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị - xã hội. Một số vấn đề phát sinh trong lĩnh
vực tôn giáo, lợi dụng tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước chưa được giải quyết
kịp thời, thỏa đáng.

Nguyên nhân:
Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội
cơ bản là đúng đắn, hợp lòng dân. Đã động viên, khai thác các nguồn lực trong
nhân dân cùng với Nhà nước và sự hỗ trợ của nhiều tổ chức quốc tế để giải quyêt
14


các vấn đề xã hội. Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tô quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội đã quan tâm, chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội.
Những hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, song nguyên
nhân chủ quan là chính.
Là một nước nông nghiệp vốn nghèo nàn, lạc hậu, thường xuyên bị thiên tai,
lại trải qua hơn 30 năm chiến tranh để lại nhiều hậu quả xã hội nặng nề, cho nên
các vấn đề xã hội không thể giải quyết triệt để trong một thời gian ngắn.
Nhận thức của nhiều cấp ủy đảng và chính quyền về các vấn đề xã hội, chính
sách xã hội chưa đầy đủ và sâu sắc; có nơi còn coi nhẹ mô hình và phương thức
quản lý xã hội, chưa có sự gắn kết giữa chính sách phát triển kinh tế với giải quyết
các vấn đề xã hội.
Chính sách xã hội chậm đổi mới so với chính sách kinh tế. Quản lý nhà nước
còn nhiều bất cập, chồng chéo. Còn thiếu những giải pháp hữu hiệu để thu hẹp
khoảng cách về mức sống và an sinh xã hội giữa các vùng, miền. Việc tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật chưa nghiêm, hiệu quả thấp; sự phối hợp giữa các bộ,
ngành, địa phương chưa chặt chẽ; phân công trách nhiệm không rõ; thiếu thể chế và
thiết chế để tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất. Công tác thanh tra ở
nhiều nơi chưa được coi trọng.
Nhu cầu nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội rất lớn nhưng khả năng

đáp ứng thực tế của đất nước còn rất hạn hẹp, lại sử dụng chưa hiệu quả, còn phân
tán, lãng phí, thậm chí tiêu cực; chưa động viên, thu hút được nhiều sự tham gia
của xã hội và khuyến khích người thụ hưởng chính sách tự vươn lên.

KẾT LUẬN
Đảng luôn giữ vai trò quan trọng và không ngừng cố gắng cải thiện, nâng
cao đời sống của nhân dân, cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Đảng quan
tâm, chăm lo cho dân không phải là làm thay dân mà hướng dẫn người dân tự chăm
lo đời sống của mình. Vai trò của Đảng là đề ra đúng phương châm, chính sách
thực tiễn để có thể huy động, phát huy mọi nguồn lực vốn có trong nhân dân để
người dân tự chăm lo đời sống của mình. Đó là chính sách về phát triển nông
nghiệp, thực hiện chính sách khuyến nông, hỗ trợ tài chính, phân công cán bộ về
giúp các địa phương khó khăn, chính sách khắc phục nghèo đói theo phương châm:
“Làm cho người thiếu đói trở nên đủ ăn, người đủ ăn trở nên khá, người khá trở nên
giàu, người giàu thì ngày càng giàu thêm, toàn dân Việt Nam, ai cũng có cơm ăn,
15


áo mặc, ai cũng được học hành, nước mạnh, dân giàu, đời sống tươi vui hạnh
phúc.”
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện, nhiều năm qua đất nước ta, dân tộc ta đã trải qua những
chặng đường khó khăn, gian khổ, vượt qua nhiều thử thách, hy sinh để giành được
những thành tựu to lớn chưa từng thấy, mang lại độc lập, tự do cho dân tộc, hịa
bình, thống nhất cho đất nước, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, uy tín và vị thế
ngày càng cao của quốc gia trên trường quốc tế.
QUAN ĐIỂM CỦA NHÓM
Câu hỏi: Chính sách xã hội là gì? tác động của nó như thế nào đối với
kinh tế và chính trị (cho ví dụ)? Theo quan điểm của nhóm, thực hiê ̣n chính
sách XH ở nước ta hiê ̣n nay có thuận lợi và khó khăn gì?

Trả lời:
Theo Giáo sư G.Winkler, ngun viện trưởng Viện xã hội học và chính sách
xã hội (thuộc Cộng hồ dân chủ Đức cũ) cho rằng: “Chính sách xã hội là tổng hoà
các biện pháp và phương pháp của Đảng, của giai cấp công nhân, của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa, của các liên hợp cơng đồn, của các đảng phải và các tổ chức chính
trị khác, nhằm tiếp tục xây dựng quan hệ xã hội… phục vụ cho những yêu cầu và
lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tri thức và những người
lao động khác”.
Ở nước ta hiện nay chính sách xã hội thường được nhìn nhận ở hai cấp độ.
Thứ nhất, theo nghĩa hẹp là chính sách xã hội cho những nhóm lao động xã hội gọi
là “đối tượng chính sách” và “đối tượng xã hội”. Thứ hai, theo nghĩa rộng bao hàm
cả chính sách giai cấp, chính sách đối với các tầng lớp, những nhóm xã hội lớn như
thanh niên, trí thức, chính sách dân tộc, tơn giáo…
Trong “Lý thuyết xã hội và xã hội học hiện đại”, Nxb. KHXH, HN, 1980 vậy
khái niệm chính sách xã hội là: “Chính sách xã hội là sự tác động của nhà nước vào
việc phân phối và ổn định các hoàn cảnh sống cho con người thuộc các nhóm xã
hội khác nhau trong lĩnh vực thu nhập, việc làm, sức khoẻ, nhà ở và giáo dục trên
cơ sở mở rộng, bình đằng và cổng bằng xã hội trong một bổi cảnh lịch sử và cấu
trúc xã hội nhất định.”
16


Đại hội đại biểu lần thứ VI thể hiện bước ngoặt trong đổi mới tư duy của
Đảng về chính sách xã hội, đã đặt đúng vị trí, tầm quan trọng của chính sách xã hội
trong phát triển đất nước. Chính sách xã hội được coi là một bộ phận quan trọng
trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước, là động lực to lớn, phát huy tính
năng động, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết Đại hội khẳng định: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của
cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hố, quan hệ
gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc… thể hiện đầy đủ trong thực tế quan

điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách
xã hội”. Từ nhận thức: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực
hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt
động kinh tế”, Đại hội VI của Đảng đã nhấn mạnh: “Cần có chính sách xã hội cơ
bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng
trong chặng đường đầu tiên. Đó là một bước tiến mới trong nhận thức về chính
sách xã hội của Đảng”.
Đến Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí, vai trị của chính sách xã
hội, trong đó nổi bật quan điểm về sự thống nhất giữa mục tiêu của chính sách kinh
tế và chính sách xã hội – tất cả vì con người. Nghị quyết Đại hội cũng nêu ra những
phương hướng, nhiệm vụ cụ thể của chính sách xã hội: Đó là vấn đề do lịch sử và
do hậu quả chiến tranh để lại; đó là loại vấn đề nảy sinh từ nền kinh tế - xã hội lạc
hậu, kém phát triển; đó là vấn đề mới phát sinh về xã hội liên quan đến việc phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần…
Đến Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt q trình phát
triển” và “Các vấn đề chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh thần xã hội
hóa. Nhà nước giữ vai trị nịng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh
nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia
giải quyết những vấn đề xã hội”[6]. Sự phát triển nhận thức thể hiện ở các nhiệm
vụ trước mắt về chính sách xã hội, đó là: Tập trung sức tạo việc làm; thực hiện xóa
đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân đạo, từ
thiện; chăm sóc bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất của nhân dân; đẩy mạnh cơng
tác dân số - kế hoạch hóa gia đình; đẩy lùi tệ nạn xã hội…
Tác động về kinh tế:

17


Đối với từng giai cấp, tầng lớp và các đối tượng khác nhau trong cộng đồng

dân cư, cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành
các chính sách riêng phù hợp với từng đối tượng như sau:
Đối với giai cấp công nhân:
Sau 30 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta không ngừng lớn mạnh cả
về số lượng và chất lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình
thành ngày càng đơng đảo bộ phận cơng nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai
trò tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
Mục tiêu về chính sách xã hội cho giai cấp cơng nhân được nêu rõ trong
Nghị quyết 20-NQ/TW: “Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách
của giai cấp công nhân, tạo được chuyển biến thật sự mạnh mẽ và rõ rệt trong việc
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân (về nhà ở tại các khu công
nghiệp, tiền lương và thu nhập, bảo hiểm xã hội, nơi sinh hoạt văn hố, cơ sở ni
dạy trẻ...) tương xứng với những thành quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất
nước và những đóng góp của giai cấp cơng nhân. Xây dựng quan hệ lao động hài
hồ, ổn định, tiến bộ trong các loại hình doanh nghiệp. Có bước tiến về đào tạo,
nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng kịp thời yêu
cầu phát triển đất nước, nhất là những ngành công nghiệp mới. Tăng nhanh tỉ lệ lao
động qua đào tạo; chú trọng đào tạo nghề cho công nhân từ nông dân và nữ công
nhân”.
Theo số liệu thống kê, đến cuối năm 2013, công nhân lao động làm việc trực
tiếp trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta là 11.565.900
người (chiếm 12,8% dân số, 21,7% lực lượng lao động xã hội). Trong đó, 70,2% có
trình độ trung học phổ thơng, 26,8% có trình độ trung học cơ sở và 3,1% có trình
độ tiểu học. Cơng nhân có trình độ trung cấp chiếm 17,9%, cao đẳng 6,6%, đại học
chiếm 17,4%, được đào tạo tại doanh nghiệp chiếm 48%[12]. Đến năm 2015, lên
tới 12.856,9 nghìn người, chiếm 14,01% dân số và 23,81% lực lượng lao động xã
hội[13].
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã ban hành và triển khai nhiều
chính sách, giải pháp thiết thực:

- Trong Luật Nhà ở năm 2014, các cơ chế, chính sách phát triển nhà ở nói
chung và chính sách hỗ trợ nhà ở xã hội nói riêng đã được Luật hóa, đã đưa ra các
giải pháp toàn diện, đồng bộ, lâu dài để giải quyết một cách căn bản nhu cầu nhà ở
18


cho 8 nhóm đối tượng có khó khăn về nhà ở, trong đó có cơng nhân tại các KCN
tập trung, bảo đảm cơng khai, minh bạch, bình đẳng. Triển khai Luật Nhà ở năm
2014, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày
20/10/2015 về phát triển và quản lý nhà ở xã hội. Luật Nhà ở năm 2014 và Nghị
định 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ đã có các quy định tạo điều kiện thuận lợi,
thơng thống cho các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong nước,
nước ngồi và các hộ gia đình, cá nhân tham gia đầu tư phát triển các loại nhà ở xã
hội, trong đó có các quy định rất ưu đãi để phát triển nhà ở xã hội nói chung và nhà
ở xã hội cho cơng nhân KCN nói riêng.
- Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh các hoạt động học tập
suốt đời trong công nhân lao động tại các doanh nghiệp đến năm 2020”. Theo đó,
Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan đã chuẩn bị kinh phí, các điều kiện cần
thiết để triển khai Đề án. Mục tiêu là đến năm 2020, vận động, tạo điều kiện để
80% CN lao động tại các DN nói chung, 90% CN lao động tại các DN trong các
KCX-KCN, khu kinh tế được đào tạo nghề (đào tạo qua trường, lớp hoặc DN tự
đào tạo); 50% CN lao đô ̣ng được đào tạo lại, 40% CN lao đô ̣ng có tay nghề cao.
Vận động, tạo điều kiện để 50% CN lao động tại các DN nói chung, 60% CN lao
động tại các DN trong các KCX-KCN, khu kinh tế được học tập, bồi dưỡng về
ngoại ngữ, tin học...
- Chính sách bảo hiểm xã hội thường xuyên được sửa đổi đã tạo điều kiện
bảo đảm hơn về an sinh xã hội cho công nhân. Luật BHXH năm 2014 đã quy định
mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, theo đó, từ ngày 1/1/2018, người lao
động trong đó có cơng nhân, có hợp đồng lao động từ 1 đến dưới 3 tháng được
tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Chính phủ, khắc phục tình

trạng trốn đóng bảo hiểm của các doanh nghiệp và bảo đảm cho cơng nhân có được
nguồn quỹ an sinh.
- Ngồi ra, việc ký thoả ước lao động tập thể, các chính sách về y tế, giáo
dục, thể thao, điểm sinh hoạt văn hố ở các khu cơng nghiệp, khu chế xuất cũng đã
góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, tái sản xuất sức lao động, nâng cao
trình độ, nhận thức chính trị cho giai cấp cơng nhân - giai cấp tiên phong trong sự
nghiệp đổi mới xây dựng đất nước hiện nay.
Đối với giai cấp nông dân:
Nông thôn nước ta hiện nay có gần 70% dân số đang sinh sống, với lực
lượng lao động chiếm khoảng 50 % lực lượng lao động toàn xã hội, đến năm 2020,
19


dự kiến khoảng 65% dân cư sinh sống tại khu vực nông thôn và khoảng 40% lao
động xã hội, năm 2018 cả nước đã có 42,4% số xã đạt nơng thôn mới đây luôn là
địa bàn chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện tốt chính sách xã hội
đối với nông dân, bảo đảm tiến bộ và cơng bằng xã hội sẽ góp phần tăng trưởng và
phát triển bền vững đất nước. Cụ thể hoá các chủ trương, quan điểm của Đảng về
nông dân, Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách xã hội đối với nơng dân như:
giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm xã hội...
Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách việc làm cho người nơng dân trở
thành chủ thể trong phát triển kinh tế (kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, hợp tác
xã kiểu mới, xây dựng nông thôn mới...), và tạo cơ hội cho nông dân tiếp cận
những nguồn lực sản xuất kinh doanh (đất đai, vốn, tín dụng, khoa học - kỹ thuật...)
gắn với thị trường; khuyến khích phát triển ngành nghề phi nơng nghiệp ở nơng
thơn (chính sách thuế, đất đai, tín dụng...), hỗ trợ dạy nghề, phát triển thị trường lao
động nông thơn, thúc đẩy q trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông
thôn, di chuyển lao động, nhất là thanh niên từ nông thôn vào các khu công nghiệp,
khu chế xuất làm việc. Chính sách xóa đói, giảm nghèo đối với nông dân đã thu
hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo đối với khu vực nông thôn và nông dân.

Chính sách bảo hiểm xã hội cho nơng dân có những điều chỉnh để mở rộng
đội tượng và diện bao phủ, bảo đảm an sinh xã hội cho nông dân. Nông dân làm
việc trong nông nghiệp, nông thôn là khu vực có rất nhiều rủi ro, việc làm khơng ổn
định, năng suất và thu nhập thấp, rất dễ bị tác động bối cảnh kinh tế - xã hội, trong
khi đó, mức độ tham gia bảo hiểm xã hội lại rất thấp. Với sự ra đời của Nghị quyết
28, khóa XII, về cải cách bảo hiểm xã hội, tới đây Luật Bảo hiểm xã hội sẽ có sự
điều chỉnh theo hướng cơng bằng, mở rộng, tăng tính chia sẻ, sẽ là những chính
sách bảo đảm an sinh xã hội thiết thực cho nông dân – những người lao động ở khu
vực phi chính thức, khơng có quan hệ lao động.
Ngồi ra, nơng dân cịn được hưởng trợ giúp xã hội đột xuất, trước những rủi
ro bất thường xảy ra ngày càng nhiều và trên diện rộng với hình thức hỗ trợ phong
phú, từ cấp tiền, gạo, nhu yếu phẩm đến khám chữa bệnh miễn phí, cho vay vốn ưu
đãi. Nhiều mơ hình trợ giúp khơng chính thức, mang tính xã hội hóa đang được
triển khai rất hiệu quả như “quỹ phát triển thôn bản”, “quỹ quản lý rủi ro cộng
đồng”, “quỹ bảo hiểm vi mô”, “quỹ đền ơn đáp nghĩa”...
Với tầng lớp trí thức:

20


Năm 2018, ước tính cả nước có khoảng 6,5 triệu người có trình độ từ cao
đẳng, đại học trở lên, tăng hơn 2,8 triệu người so với 10 năm trước, trong đó phần
lớn đang hoạt động trong lĩnh vực khoa học và cơng nghệ. Cho đến nay, đã có
nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển đội ngũ trí thức đã được Đảng và Nhà
nước thực thi, đem lại hiệu quả tốt trong thời gian qua, như chính sách đào tạo và
bồi dưỡng đội ngũ trí thức; chính sách tạo mơi trường phát huy vai trị của trí thức;
chính sách sử dụng, đãi ngộ, tơn vinh trí thức và chính sách thu hút trí thức người
Việt Nam ở nước ngoài. Nhiều giải thưởng quốc gia và của các ngành, các lĩnh
vực, việc phong tặng các chức danh khoa học, các danh hiệu cao quý cho trí thức,
các nhà khoa học, văn nghệ sĩ,... đã được thực hiện cũng tạo sự khích lệ, động viên

tinh thần đối với trí thức. Gắn liền với các chủ trương, chính sách đó là sự cố gắng
trong việc đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo, khoa
học và cơng nghệ, văn hóa và văn nghệ,... đã góp phần phát huy tiềm năng và nội
lực của đội ngũ trí thức trong hoạt động thực tiễn.
Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đào tạo đội ngũ trí thức là các cán bộ khoa
học, công nghệ, lãnh đạo, quản lý. Đề án 322 của Chính phủ về “Đào tạo cán bộ
khoa học - kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước” đã tuyển và
cử được 5.833 người đi học, trong đó có 2.951 tiến sĩ, 1.603 thạc sĩ, 260 thực tập
sinh và 1.019 đại học trong giai đoạn 2000 – 2013. Trong giai đoạn 2009 – 2013,
Đề án 165 của Ban Tổ chức Trung ương về “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước” đã bồi dưỡng nâng cao trình độ
ngoại ngữ cho 11.690 lượt cán bộ, đào tạo được 158 tiến sĩ và 444 thạc sĩ ở nước
ngoài, 339 thạc sĩ đào tạo theo hình thức liên kết. Ngồi ra, số trí thức người Việt
Nam ở nước ngồi có vị trí quan trọng, trong tổng số hơn bốn triệu người Việt Nam
đang sinh sống ở hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới cịn có khoảng
hơn 10% đang hoạt động trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hóa, nghệ
thuật (trong đó có hơn 6.000 người có trình độ tiến sỹ, hàng trăm trí thức tên tuổi
được đánh giá cao).
Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm chú trọng đến việc thu hút trí thức Việt Nam ở
nước ngoài tham gia xây dựng đất nước. Sự tham gia của lực lượng trí thức ở nước
ngồi vào cơng cuộc xây dựng đất nước thể hiện sâu sắc trên các lĩnh vực, như: hợp
tác và chuyển giao công nghệ; đào tạo, bồi dưỡng; tư vấn chính sách; nghiên cứu triển khai,... đã mang lại những giá trị to lớn cho các cơ quan, tổ chức triển khai.
Bên cạnh đó, lực lượng trí thức Việt Nam ở nước ngồi đồng thời làm cầu nối hợp
tác trong nghiên cứu khoa học, giúp tiếp cận các quỹ đầu tư tài chính, tiếp cận và
21


mở rộng thị trường cho sản phẩm trong nước tới các quốc gia nơi họ đang sinh
sống,...
Với tầng lớp doanh nhân:

Cùng với sự tăng nhanh về số lượng và quy mô của các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế, đội ngũ doanh nhân nước ta đã không ngừng lớn mạnh, dự
kiến đến năm 2020 có khoảng 1 triệu doanh nghiệp, hiện nay doanh nghiệp tư nhân
chiếm gần 90% việc làm mới trong xã hội, đóng góp khoảng 50% GDP của cả
nước, có vai trị to lớn trong việc thực hiê ̣n chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
kinh tế tư nhân là động lực quan trọng trong phát triển đất nước, giải quyết việc
làm cho người lao động và các vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Trong
những năm qua, Ðảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến
khích phát triển doanh nghiệp, phát huy vai trò của doanh nhân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước.
Nhà nước đã ban hành nhiều cơ cơ chế, chính sách, hồn thiện hệ thống văn
bản pháp luật, tạo môi trường sản xuất, kinh doanh bình đẳng và thuận lợi cho
doanh nhân như: Công khai, minh bạch các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội giúp doanh nhân có định hướng đầu tư, giảm rủi ro, thuận lợi
trong kinh doanh. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận bình đẳng
các nguồn lực phát triển. Hồn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu, quyền tự do
kinh doanh, về tài chính cơng, thuế, tài ngun mơi trường, bảo vệ người tiêu dùng;
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, lành mạnh các thị trường, nhất là
thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa
học - cơng nghệ. Có chính sách hỗ trợ đội ngũ doanh nhân phát triển quy mô sản
xuất, kinh doanh; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ và khuyến khích doanh
nhân khu vực nơng thơn... từ đó tạo động lực cho doanh nhân cống hiến, phát triển
kinh tế cho bản thân, gia đình và xã hội. Ngồi ra là nhóm những người yếu thế,
người nghèo, người dễ bị tổn thương trong xã hội.
Tác động về chính trị:
Nhà nước ta đã xây dựng hành lang pháp lý, các cơ chế, pháp luật về chính
sách xã hội ngày càng được đầy đủ, hoàn thiện, từ Hiến pháp đến các luật, văn bản
luật… tạo điều kiện để thực thi ngày càng hiệu quả vai trò, chức năng của các chính
sách xã hội. Hiến pháp năm 1992 có nhiều quy định về chính sách xã hội. Điều 56
của Hiến pháp quy định: “Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ, tiền

lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước và
22


những người làm cơng ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm
xã hội khác đối với người lao động”. Điều 39 nêu những quy định về thực hiện bảo
hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe…
Các chính sách xã hội được thể hiện rõ trong các luật, bộ luật như: Bộ luật
Lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002 và
2006, 2012) có các chương quy định về bảo hiểm xã hội đối với người lao động;
Luật Việc làm năm 2013, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Luật Bảo hiểm xã
hội năm 2014, Luật An tồn, vệ sinh lao động năm 2015… Q́c hô ̣i xây dựng
Luật Quan hệ lao động và nhiều văn bản pháp luật khác về các vấn đề xã hội. Bên
cạnh đó, các văn bản dưới luật như pháp lệnh, nghị định của Chính phủ, quyết định
của Thủ tướng Chính phủ cũng được ban hành làm cho chính sách xã hội càng
hoàn thiện và đạt nhiều kết quả như: Pháp lệnh về danh hiệu vinh dự Nhà nước (Bà
mẹ Việt Nam anh hùng), Pháp lệnh ưu đãi người có công…
Trong giai đoạn 1997 – 2013, Nhà nước đã ban hành 146 văn bản chính sách
xã hội. Trong đó, có 02 văn bản chính sách về an sinh xã hội chung là Nghị quyết
số 15/NQ-TW ngày 1-6-2012 về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 20122020 và Nghị quyết 70/NQ-CP của Chính phủ ngày 1-11-2012 về chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 15/NQ/TW. Cịn lại 144 văn bản
chính sách hiện hành về an sinh xã hội, được chia thành bốn nhóm chính sách an
sinh xã hội, cụ thể: Chính sách tạo việc làm nâng cao thu nhập cho người lao động
với 33 văn bản hiện hành (2001-2013); Chính sách hỗ trợ giảm nghèo với 14 văn
bản hiện hành (2005-2013); Chính sách BHXH với 5 văn bản hiện hành (20062012); Chính sách hỗ trợ các đối tượng khó khăn với 18 văn bản hiện hành, gồm 16
văn bản chính sách trợ giúp xã hội hiện hành (2000-2013) và 2 văn bản chính sách
hỗ trợ rủi ro đột xuất do thiên tai và rủi ro thị trường hiện hành (2010-2011); Chính
sách hỗ trợ tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu với 74 văn bản hiện hành (19972013)[11]. Tiếp đó, giai đoạn 2014- 2018 cũng đã có hàng loạt các văn bản về vấn
đề này được ban hành QĐ-1490/QĐ-TTg về bổ sung dự tốn kinh phí chương trình
mục tiêu phát triển hệ thống trợ giúp xã hội năm 2017; Quyết định 1865- QĐ năm

2017 về giao kế hoạch thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 20162020.
Các luật và các văn bản luật nêu trên, đã làm cho chính sách xã hội trở thành
một hệ thống chính sách chặt chẽ, đầy đủ, được bảo đảm bằng tính pháp lý, được
thực hiện thống nhất trong cả nước, góp phần tích cực trong quản lý và hiện thực
hóa mục tiêu của chính sách xã hội.
23


Thuận lợi:
Chính sách xã hội ở nước ta trong những năm qua ngày càng được hoàn
thiện trở thành hệ thống chính sách hỗ trợ lẫn nhau trong việc bảo đảm mục tiêu
xây dựng tiến bộ, công bằng xã hội, trong đó nổi bật nhất là các chính sách: chính
sách lao động – việc làm, chính sách bảo hiểm, xóa đói giảm nghèo, trợ cấp xã hội,
chính sách người có cơng… Các chính sách xã hội đã góp phần tích cực trong việc
nâng cao đời sống nhân dân, từng bước đáp ứng nguyện vọng của các giai cấp, các
tầng lớp và cộng đồng dân cư trong xã hội bảo đảm “tăng trưởng kinh tế gắn với
tiến bộ, công bằng, xã hội”.
- Thứ nhất, chính sách lao động – việc làm đi vào cuộc sống góp phần giải
quyết việc làm, xây dựng thị trường lao động, nâng cao thu nhập và đời sống người
lao động.
- Thứ hai, chính sách xóa đói, giảm nghèo đạt những kết quả đáng ghi nhận.
Xóa đói, giảm nghèo là chủ trương lớn, quan trọng được Đảng, Nhà nước
quán triệt và kiên trì thực hiện trong suốt nhiều năm qua. Thực hiện quan điểm nhất
quán của Đảng về xóa đói, giảm nghèo, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách
quan trọng như: Chiến lược tồn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo
(2002), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện
nghèo (Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP), Quyết định số 1971/QĐ-TTg về việc cho
30 huyện khác nằm ngồi chương trình thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP,
Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền
vững đến năm 2020, Quyết định số 2324/QĐ-TTg, ngày 19-12-2014 về kế hoạch

hành động thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu
giảm nghèo bền vững đến năm 2020. Ngân sách nhà nước đã ưu tiên tập trung
nguồn lực cao nhất cho các huyện nghèo, xã nghèo và người nghèo nhằm đạt được
mục tiêu đề ra. Ngoài ra, Nhà nước tiếp tục thực hiện các chính sách đặc thù trên
địa bàn các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ, như
chính sách chăm sóc, giao khốn và bảo vệ rừng; chính sách khai hoang, phục hóa,
tạo ruộng bậc thang; chính sách tăng cường hỗ trợ cán bộ khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư; chính sách giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí; chính
sách cán bộ đối với các huyện nghèo…
Nhờ những nỗ lực đó, thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam được cộng
đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao trên tất cả các khía cạnh và tiêu chí. Nước ta
24


chính thức bước vào nhóm các quốc gia có mức thu nhập trung bình, khơng cịn
tình trạng hộ thiếu đói kinh niên, tình trạng nghèo đã chuyển từ diện rộng ở các
vùng, miền sang cục bộ ở một số vùng miền núi, vùng đặc biệt khó khăn và trong
một số nhóm dân cư. Tỉ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều năm 2018 còn 6,8%, dự
kiến tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân từ 1-1.5%/ năm đến năm 2020. Việt Nam đã
sớm hoàn thành Mục tiêu thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và
thiếu đói. Đánh giá chung, ở cấp quốc gia mức độ giảm nghèo được ghi nhận mạnh
mẽ và ấn tượng cả theo chuẩn quốc gia và chuẩn quốc tế.
- Thứ ba, hệ thống bảo hiểm xã hội ngày càng hoàn thiện, đa tầng, đa chiều,
công bằng, chia sẻ, rộng mở hơn.
Cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, hệ thống chính sách, pháp
luật của Nhà nước về BHXH ngày càng được hoàn thiện. Luật BHXH 2014 đã mở
rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc[16]; hỗ trợ tiền đóng BHXH cho người
lao động tham gia BHXH tự nguyện tùy theo khả năng ngân sách từng thời kỳ; tăng
cường các biện pháp bảo đảm bền vững tài chính để bảo đảm sự bình đẳng trong
tham gia BHXH giữa các thành phần kinh tế[17]; nâng cao các biện pháp xử lý đối

với các vi phạm về chính sách BHXH…
Đối tượng tham gia các hình thức bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng.
Số người tham gia bảo hiểm xã hội không ngừng tăng lên hàng năm.
- Thứ tư, chính sách người có cơng tiếp tục được phát huy, làm tốt cơng tác
đền ơn đáp nghĩa.
Chính sách ưu đãi người có cơng không ngừng được bổ sung, sửa đổi cho
phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cảu đất nước như: việc ban hành Pháp lệnh quy
định danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Pháp lệnh ưu đãi
người có cơng với nước, cùng với hệ thống cơ chế, chính sách ưu đãi được ban
hành có tác dụng to lớn, sâu rộng về chính trị, xã hội được toàn dân hưởng ứng.
Ưu đãi xã hội đối với người có cơng bước đầu đảm bảo ngun tắc bình
đẳng, cơng khai, cơng bằng xã hội. Người có cơng được chăm lo, đền ơn đáp nghĩa,
được ưu tiên, ưu đãi trong giáo dục, đào tạo, giải quyết việc làm. Những trường
hợp như thương binh nặng, thân nhân liệt sỹ, bà mẹ Việt Nam anh hùng được ưu
tiên về nhà ở, đất ở, được chăm lo phụng dưỡng về vật chất và tinh thần của địa
phương và các đoàn thể xã hội.

25


×