Tải bản đầy đủ (.docx) (217 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ quá trình di dân và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế xã hội ở thị xã tân uyên (2010 2018)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.98 MB, 217 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với sự thay đổi về cơ cấu kinh tế - xã hội hiện nay, việc người dân đi từ
nông thôn ra thành thị là một hiện tượng mang tính quy luật khách quan, gắn liền
với lịch sử phát triển của xã hội loài người. Đó là do những thay đổi vừa mang
tính chất tự nhiên, vừa mang tính chất xã hội. Đồng thời, nó cũng biểu hiện cho
sự phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội giữa các vùng trong một địa
phương, hoặc rộng hơn là giữa các nước trên thế giới. Đô thị thường là nơi cung
cấp nhiều môi trường làm việc nên thu hút các luồng di dân từ nơng thơn.
Ở Việt Nam, q trình phát triển kinh tế xã hội từ thời kỳ “Đổi Mới” vào
năm 1986 chính là chất xúc tác cho dòng di cư giữa những địa phương trong
nước gia tăng. Người dân được tự do di chuyển khỏi nơi ở của mình để tìm mơi
trường sinh sống thích hợp hơn, tốt hơn. Ngồi ra, sự khác biệt về điều kiện sống
giữa các vùng ngày càng gia tăng cũng là động lực khiến người dân di cư. Kết
quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy trong giai đoạn 2004 2009 có 6,6 triệu người di cư giữa trong và ngoài tỉnh của Việt Nam (Marx
Kathe, Katherine Fleischer (2000), Di dân trong nước: cơ hội và thách thức. Báo
cáo kết quả nghiên cứu).
Bình Dương từ sau tái lập tỉnh (01/1/1997), bằng việc cải tiến thủ tục hành
chính (tiếp nhận, thẩm định, cấp giấy phép đầu tư), xây dựng cơ sở hạ tầng, đã
thu hút nhiều dự án đầu tư sản xuất, thị trường lao động rộng mở nên trở thành
một trong những đơ thị có lực hút dân di cư mạnh nhất. Theo chỉ đạo chung của
tỉnh, thị xã Tân Uyên là thị xã mới có tốc độ đơ thị hóa nhanh, công nghiệp phát
triển mạnh, hạ tầng giao thông đồng bộ. Chính quyền thị xã chỉ đạo đẩy nhanh
tốc độ gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp, từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế
của địa phương theo hướng công nghiệp hóa.
Năm 2018 thị xã Tân Uyên đã có 3 khu cơng nghiệp và các cụm cơng
nghiệp với diện tích quy hoạch lên đến hơn 5.000 ha (chưa tính đến diện tích quy
hoạch của khu liên hợp Cơng nghiệp - Dịch vụ - Đơ thị Bình Dương) (trích

1



nguồn khu công nghiệp và các cụm công nghiệp). Công nghiệp tăng nhanh cả tốc
độ tăng trưởng và giá trị sản xuất. Để đạt được thành tựu đó khơng thể khơng nói
đến vai trị của lực lượng lao động nhập cư ở Tân Uyên.
Tân Uyên là một trong những thị xã có sức thu hút rất nhiều dân nhập cư từ
các tỉnh, thành phố trong cả nước. Quá trình di dân này có tác động cho các khu
cơng nghiệp, tác động các cụm cơng nghiệp với diện tích quy hoạch hơn 5.000ha,
dân số tăng dẫn đến các dịch vụ tại nơi này tăng lên. Do nhiều khu công nghiệp ra
đời nên cần một lượng rất lớn công nhân từ các tỉnh khác đến làm việc. Khi đi họ
lại mang theo gia đình con cái để đến Tân Uyên làm việc và sinh sống, học tập.
Việc học tập của các con em công nhân lại được Đảng và nhà nước quan tâm tạo
mọi điều kiện cho các em đều được đến trường học. Lao động nhập cư đến làm
việc tại đây họ cũng đã góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Nhiều khu công nghiệp mọc lên nên thu hút nhiều công nhân đến sinh
sống và làm việc. Họ dẫn theo gia đình và con cái nên dân số tăng làm cho các
dịch vụ tại nơi này tăng tác động đến GDP của tỉnh, dân số tăng nên các việc
nghiên cứu một cách hệ thống và chun sâu để giúp chính quyền địa phương có
quyết sách phù hợp với tình hình thực tiễn. Đó là lý do tơi chọn nghiên cứu đề tài
“Q trình di dân và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở thị xã
Tân Uyên (2010 - 2018)”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nhận diện và phân tích quá trình di dân ở thị xã Tân Uyên từ năm 2010 - 2018.
- Phân tích và đánh giá tác động của di dân đối với kinh tế - xã hội thị xã
Tân Uyên.
- Đề xuất những giải pháp để hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình
di dân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Lịch sử di dân ở thị xã Tân Uyên và ảnh hưởng của di dân đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở Tân Uyên.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

2


- Về không gian: Khảo sát địa bàn thị xã Tân Uyên.
- Về thời gian: Từ 2010 đến 2018, đây là khoảng thời gian biến động nhiều
nhất và gần nhất.
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu
4.1. Các cơng trình nghiên cứu nước ngoài
Di dân và tác động của di dân luôn là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu từ đầu thế kỷ XIX trên cơ sở hợp tác của
nhiều ngành khoa học. Các cơng trình nghiên cứu tập trung vào các nội dung chủ
yếu sau: khái niệm di dân, khái niệm nhập cư, nguyên nhân nhập cư, những tác
động của người nhập cư đối với phát triển kinh tế - xã hội ở nơi đến, chính sách,
biện pháp đối với hiện tượng nhập cư…. Có thể liệt kê một số cơng trình sau:
Bài báo A Theory of Migration (Lý thuyết di dân) của Everett S.Lee. Trong
bài báo này, di cư được định nghĩa một cách rộng rãi như là một sự thay đổi tạm
thời hoặc vĩnh viễn nơi cư trú. Khơng có giới hạn nào về khoảng cách của sự di
chuyển hoặc theo tính chất tự nguyện hoặc khơng tự nguyện của hành động và
khơng có sự khác biệt nào giữa di cư bên ngoài và nội bộ. Everett S.Lee cho rằng
nguyên nhân và hậu quả của sự di cư là có khác nhau. Đồng thời tác giả cũng
khẳng định không phải tất cả các loại di chuyển trong không gian đều được bao
gồm trong định nghĩa này.
Trong bài báo, tác giả đã tổng kết một số các yếu tố quyết định đến việc
nhập cư của người dân từ nông thôn ra thành thị. Everett S.Lee thừa nhận, di dân
nông thôn - đô thị chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội nhưng
ở cấp độ khác nhau. Everett S.Lee lập luận rằng quyết định nhập cư được dựa
trên 4 nhóm yếu tố: (1) các yếu tố gắn bó với nơi ở gốc; (2) Các yếu tố gắn với
nơi sẽ đến; (3) Các trở ngại nhập cư và (4) các yếu tố thuộc về nhập cư. Trong

đó, quan trọng hơn cả là những yếu tố cơ bản liên quan đến nơi đi, gọi là “lực
đẩy” và nơi đến gọi là “lực hút”.
Lực đẩy: Là những yếu tố, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, chính trị, văn
hóa…Ở vùng xuất phát khơng đáp ứng các nhu cầu sống (nhu cầu vật chất, nhu
cầu tinh thần, nhu cầu về lao động, việc làm…) đã đẩy họ ra ngoài nơi họ đang

3


sinh sống khiến họ phải đi tìm vùng đất mới nhằm thỏa mãn các nhu cầu của họ.
Trong quá trình nhập cư từ nông thôn ra thành thị, lực đẩy được xác định chủ yếu
là do sự khan hiếm về đất canh tác, thiếu việc làm, thừa lao động, tiền cơng ít ỏi,
mong muốn tìm đến vùng đất hứa để kiếm việc làm, tăng thu nhập để đầu tư cho
con cái học hành với mong muốn cải thiện cuộc sống của thế hệ tương lai tại các
vùng nơng thơn. Ngồi ra cịn có thể tính đến những yếu tố có tính phi kinh tế có
tính đặc thù riêng của người di chuyển như các yếu tố tinh thần, tình cảm, đặc
điểm cá nhân.
Lực hút: Là những điều kiện, yếu tố thuận lợi về tự nhiên, kinh tế - xã hội,
chính trị, văn hóa ở nơi đến (vùng nhập cư) đã cuốn hút người nhập cư ở nơi
khác chuyển đến làm việc và sinh sống. Lực hút ở đô thị thường là cơ hội sống
thuận tiện, có khả năng tìm kiếm việc làm có thu nhập cao hơn, có triển vọng cải
thiện đời sống, thuận tiện trong sản xuất kinh doanh, có điều kiện tốt hơn về giáo
dục, y tế, dịch vụ xã hội so với ở nông thôn.
Tuy nhiên, lý thuyết “hút - đẩy” khơng phải là lý thuyết hồn chỉnh có thể
thuyết phục được tất cả mọi người vì nó khơng lý giải được tại sao trong cùng
một hồn cảnh có một số người nhập cư, cịn số khác thì khơng.
Bài báo The Laws of Migration (Các quy luật của di dân) của E.G
Raavenstein. Trong cơng trình này, tác giả đã đề cập đến những lý thuyết về di
dân sớm nhất trong trường phái cổ điển, vào cuối thế kỉ XIX. Ông đã đưa ra lý
thuyết di dân với nội dung cơ bản sau: hầu hết các cuộc di chuyển của dân cư

diễn ra trong khoảng cách ngắn, nữ giới tham gia di chuyển nhiều hơn nam giới
trong khoảng cách ngắn, mỗi dịng di dân đều có dịng di dân ngược, di dân từ
nông thôn ra thành phố chủ yếu diễn ra theo từng giai đoạn và động lực thúc đẩy
chủ yếu của di dân là kinh tế. Theo ông, nhập cư xảy ra sớm bởi sự khác biệt về
trình độ phát triển, bởi tiến trình cơng nghiệp hóa và phát triển thương mại giữa
các khu vực của một quốc gia. Mặt khác, sự nhập cư bị chi phối bởi khát vọng về
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những người sống ở khu vực kém phát triển hay
nghèo khổ thường có xu hướng chuyển đến những khu vực phát triển hơn. Có
nghĩa là con người nhập cư vì sự chênh lệch về kinh tế giữa nơi đi và nơi đến.

4


Bài báo Migration, unemployment and Development: A Two - Sector
Analysis (Di dân, thất nghiệp và sự phát triển: Nghiên cứu 2 khu vực) của John
H. Harris và Micheal Torado. Hai tác giả John H. Harris và Micheal Torado đã
nghiên cứu hiện tượng nhập cư vào thành thị tăng tốc trong bối cảnh thất nghiệp
ở thành thị vẫn tiếp tục gia tăng. Khác với mơ hình “Hai khu vực” (Dual sector khu vực kép) của Arthur Lewis lý giải nguồn gốc của việc nhập cư dựa vào giả
định “dư thừa lao động” trong khu vực nơng thơn, mơ hình “Thu nhập kỳ vọng”
của Harris - Todaro giải thích quyết định của người lao động nhập cư từ khu vực
nông thôn ra thành thị dựa trên sự khác biệt về mức thu nhập dự kiến có được
trong một khoảng thời gian nhất định ở thành thị với mức thu nhập trung bình
đang có ở nơng thơn. Như vậy, nghiên cứu của hai ông đã bổ sung thêm nguyên
nhân nhập cư vào thành thị ở các nước phát triển bao gồm cả sự kỳ vọng của
người nhập cư về khả năng thu nhập ở thành thị cao hơn và cuộc sống tốt hơn.
Đặc biệt, mơ hình Harris - Todaro thừa nhận sự tồn tại của khu vực kinh tế
phi chính thức (Informal Sector). Đó là khu vực kinh tế bao gồm các hoạt động,
khơng hồn tồn là bất hợp pháp, nhưng thường cũng khơng được sự thừa nhận
chính thức của xã hội và hầu hết các hoạt động này đều không đăng ký với nhà
nước. Chẳng hạn như lao động phục vụ gia đình, hành nghề tự do, xe ơm, bán

hàng rong, mài dao kéo, dịch vụ ăn uống vỉa hè, thu lượm ve chai, đánh giày,
mại dâm…Sự hiện diện của khu vực kinh tế phi chính thức đã giúp giải thích
cho việc tại sao tỷ lệ thất nghiệp tại các đô thị cao nhưng vẫn có hàng nghìn
dịng người từ nơng thơn đổ vào thành thị tìm việc làm. Bởi vì họ sẵn sàng bổ
sung vào khu vực kinh tế phi chính thức, nơi đồng tiền kiếm được vẫn cao hơn ở
lại nông thôn.
Bài báo The Impact of Immigrants on Host Country Wages, Employment and
Growwth (Tác động của người nhập cư đến tiền lương, việc làm và tăng trưởng
của nước bản địa) của Rachel M. Friedberg and Jennifer Hunt. Tác giả đã đánh
giá khái quát tình hình nhập cư vào các nước Hoa Kỳ, Canada, Úc. Về nguồn
gốc xuất cư, nghiên cứu này cho rằng 50% số người nhập cư đến từ châu Âu,
gần 40% những người nhập cư là người đến từ châu Á (đặc biệt là Đông Nam

5


Á). Nghiên cứu nhận định rằng hầu hết những người nhập cư đến từ các nước
nghèo và trình độ học vấn kém.
Về tác động của người nhập cư, nghiên cứu cho rằng có sự khác nhau giữa
nhập cư bất hợp pháp và nhập cư hợp pháp vì những người nhập cư bất hợp pháp
họ bị hạn chế trong các công việc mà họ làm. Nghiên cứu về tác động của người
nhập cư bất hợp pháp trên thị trường lao động, tác giả nhận định rằng họ sẽ ít tác
động bởi họ bị cản trở bởi những khó khăn nhất định. Nghiên cứu nhận định
rằng, nếu lao động nhập cư là lao động thay thế và có kỹ năng thì sẽ làm cho
mức tiền lương tăng lên, tình trạng thất nghiệp của nước bản xứ tăng lên và
ngược lại.
4.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
Trong xu thế hội nhập tồn cầu hóa, hiện đại hóa, cũng như nhiều quốc gia
đang phát triển khác, việc nhập cư vào các thành phố là một hiện tượng kinh tế
xã hội mang tính quy luật, gắn liền với quá trình phát triển này. Đây là một đòi

hỏi tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường, là biểu hiện rõ nhất của sự
phát triển không đồng đều giữa các vùng miền lãnh thổ, giữa các quốc gia. Dưới
tác động của toàn cầu hóa những khác biệt về mức sống, chênh lệch thu nhập, cơ
hội việc làm, tiếp cận dịch vụ xã hội là các nguyên nhân cơ bản tạo nên các dòng
nhập cư như hiện nay. Hiện nay, ở Việt Nam có rất nhiều cơng trình nghiên cứu
đề cập đến tình hình nhập cư vào đô thị và sự ảnh hưởng của nó đến sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Bài báo Hiện tượng di dân đến thành phố: nhận định và đề xuất chính sách
của tác giả Lê Xuân Bá. Tác giả đề cập đến thực trạng nhập cư vào các thành
phố trong những năm gần đây ở nước ta trong q trình cơng nghiệp hóa, đơ thị
hóa do sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền. Bài báo cũng đã chỉ ra
3 yếu tố của nhập cư, gồm:
Thứ nhất, do lực hút ở nơi đến và lực đẩy ở nơi đi.
Thứ hai, sự điều tiết của thị trường lao động.
Thứ ba, sự điều tiết của Nhà nước vào quá trình chuyển dịch lao động.

6


Bài báo Lao động nông thôn nhập cư ra thành thị - Thực trạng và khuyến
nghị của tác giả Nguyễn Đình Long và Nguyễn Thị Minh Phượng. Ở bài viết này,
bên cạnh thể hiện một cách khái quát tình hình lao động nông thôn nhập cư vào
thành thị và vào các khu cơng nghiệp, những tác động tích cực và tiêu cực của
q trình nhập cư, tác giả cịn chỉ ra nguyên nhân thúc đẩy sự gia tăng nhập cư
tự do của lao động nông thôn vào thành thị và các khu cơng nghiệp. Q trình
lao động nơng thơn nhập cư ra thành thị bao gồm: sự gia tăng dân số và sức ép
về lao động việc làm ở khu vực nông thôn ngày càng tăng, đất đai sản xuất nông
nghiệp bị thu hẹp trở nên ngày càng khan hiếm, thiếu tư liệu sản xuất và thừa lao
động; tình trạng phát triển không đồng đều, sự chênh lệch về thu nhập, mức sống
giữa nơng thơn và thành thị có xu hướng dãn ra; bên cạnh đó là những nguyên

nhân khác như việc học hành và nâng cao trình độ nghề nghiệp; tiếp cận với văn
minh và môi trường sống ở đô thị về y tế, cơ sở hạ tầng, vui chơi giải trí… Theo
kết quả điều tra một số tỉnh trong bài báo, các tác giả khẳng định 85% dân số
quyết định nhập cư vì lí do kinh tế.
Sách Từ nông thôn ra thành phố: Tác động kinh tế - xã hội của nhập cư ở
Việt Nam của Lê Bạch Dương và Nguyễn Thanh Liêm. Qua cơng trình này, các
tác giả đã khẳng định đối với cộng đồng nơi đi, người nhập cư có tác động tích
cực nhiều so với tiêu cực thơng qua tìm hiểu những tác động của đồng tiền mà
người động nhập cư gửi về quê nhà. Ở chương 4, các tác giả đề cập tác động của
người nhập cư đến cộng đồng ở khu vực thành phố. Và từ kết quả khảo sát, các
tác giả cho rằng người nhập cư có tác động tích cực về mặt kinh tế nhiều hơn so
với tiêu cực đến thành phố, nhưng về mặt xã hội thì người nhập cư lại tác động
tiêu cực nhiều hơn với tích cực.
Luận án tiến sĩ Di dân ở Thành phố Hồ Chí Minh và tác động của nó đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của tác giả Phạm Thị Xuân. Trong luận án, tác
giả đã đánh giá ảnh hưởng của di dân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trên 2
phương diện tích cực và tiêu cực.
Tác động tích cực:

7


Cung cấp lao động cho nhu cầu phát triển kinh tế của thành phố Hồ Chí
Minh. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu sản phẩm. Người nhập cư làm
thay đổi qui mô và kết cấu dân số ở thành phố Hồ Chí Minh. Người nhập cư
ngày càng đơng và quá trình di dân nội bộ thành phố Hồ Chí Minh đã góp phần
tăng tỷ lệ thị dân, đẩy nhanh q trình đơ thị hóa. Thay đổi cơ cấu lao động. Góp
phần phân bố lại dân cư. Góp phần thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế khơng
chính thức. Đưa thêm ngành nghề mới vào nơi nhập cư, góp phần hình thành và
phát triển các làng nghề truyền thống ở thành phố Hồ Chí Minh. Làm phong phú

đa dạng nền văn hóa thành phố Hồ Chí Minh.
Tác động tiêu cực:
Sức ép đối với cơ sở hạ tầng. Lao động nhập cư chưa qua đào tạo nghề có
việc làm kém ổn định. Dân nhập cư quá đông, tăng nhanh gây khó khăn đối với
việc tổ chức đời sống xã hội. Số dân nhập cư đông, di dân tự phát giữa các quận,
huyện nhiều, mua bán sang nhượng đất đai, xây dựng khơng theo qui hoạch, gây
khó khăn trong việc tổ chức quản lý sử dụng đất ở thành phố Hồ Chí Minh. Khó
đáp ứng nhu cầu việc làm. Gây khó khăn đối với việc quản lý nhân khẩu, quản lý
an ninh trật tự xã hội và quy hoạch đô thị.
Luận án tiến sĩ Tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội
ở thành phố Đà Nẵng của tác giả Nguyễn Nữ Đoàn Vy [50, tr.94 - 117]. Đánh giá
thực trạng của người nhập cư đến sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà
Nẵng trên các mặt tích cực và tiêu cực:
Tích cực: Bổ sung lực lượng lao động cho thành phố; Góp phần tăng
trưởng cho kinh tế thành phố; Góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động; Góp phần
đa dạng hóa các hoạt động kinh tế; Làm phong phú thêm đời sống văn hóa của
đơ thị; Góp phần mở rộng và phát triển không gian đô thị.
Tiêu cực: Tạo sức ép về dân số, lao động, việc làm; Giá cả lao động có xu
hướng giảm so với giá trị của nó; Ảnh hưởng trong việc xây dựng nếp sống văn
hóa, văn minh đô thị tạo sức ép trong cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản.

8


Trong luận án, tác giả còn đề xuất các giải pháp cụ thể để phát huy các
mặt tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực. Tuy nhiên đây chỉ là kết quả ban đầu, cần
được nghiên cứu sâu hơn, rộng hơn.
4.3. Cơng trình nghiên cứu ở Bình Dương
Đề tài Di dân ở tỉnh Bình Dương và những ảnh hưởng của nó đến sự phát
triển kinh tế - xã hội của Lê Thị Thanh Thảo (2013).

Tác giả cơng trình đã đánh giá thực trạng di dân ở tỉnh Bình Dương, ảnh
hưởng của di dân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương. Đề tài
đánh giá được ảnh hưởng của nhập cư cũng như ảnh hưởng của xuất cư đối với
nền kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương. Đề tài cũng đưa ra những định hướng
di dân và phát triển kinh tế - xã hội từng giai đoạn trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Đồng thời, tác giả cũng đưa ra những kiến nghị đề xuất nhằm giảm bớt gánh
nặng di dân cho các vùng xuất, nhập cư, góp phần thực hiện tốt cơng tác quản lý
dân số trong tỉnh. Tuy nhiên, đề tài vẫn còn hạn chế vì việc định hướng chỉ là
bước đầu, do di dân là hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, phụ thuộc vào phần
lớn các yếu tố kinh tế - xã hội thường xuyên biến động. Vấn đề di dân cịn chịu
ảnh hưởng từ các chích sách đền bù, giải tỏa đất đai, quản lý đất đai, quy hoạch
phát triển đơ thị Bình Dương.
Đề tài Hiện trạng và định hướng sử dụng lao động ở tỉnh Bình Dương của
Lê Thị Hồng (2012).
Tác giả đã tổng quan có chọn lọc các vấn đề lý luận cơ bản về nguồn lao
động. Luận văn đã phân tích được những nhân tố ảnh hưởng tới nguồn lao động
và sử dụng lao động ở Bình Dương, đặc biệt chú ý tới các nhân tố kinh tế - xã
hội. Tỉnh Bình Dương có nguồn lao động dồi dào là một thuận lợi lớn cho sự
phát triển kinh tế của tỉnh, đặc biệt là cung cấp lao động cho các ngành công
nghiệp của tỉnh hiện nay. Tuy nhiên, đây cũng là áp lực lớn cho việc giải quyết
việc làm nhằm tạo thu nhập ổn định cho người lao động. Chất lượng nguồn lao
động của tỉnh đã được cải thiện nhưng nhìn chung cịn thấp, chưa đáp ứng được
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cơ cấu lao động theo trình độ chun mơn kĩ

9


thuật, cơ cấu lao động đang làm việc còn mất cân đối, nhất là giữa thành thị và
nông thôn.
Trên cơ sở đó luận văn đã đưa ra dự báo nguồn lao động và nhu cầu sử

dụng lao động trong những năm tới để có giải pháp phù hợp cho sự phát triển
nguồn lao động và sử dụng lao động trong tương lai. Luận văn đã đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động và sử dụng hợp lí lao động
tỉnh Bình Dương.
Đề tài Dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương của Nguyễn
Thị Hiển (2017).
Qua nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về dân số và phát triển kinh tế
xã hội, tác giả nhận thấy: Dân số vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Các đặc điểm chính về dân số là qui mô, gia tăng dân số; cơ
cấu dân số; phân bố dân cư và đơ thị hóa. Về phát triển kinh tế - xã hội, các đặc
trưng cơ bản về phát triển kinh tế là qui mô và tốc độ tăng GRDP, cơ cấu kinh tế.
Về xã hội, các vấn đề quan tâm là: lao động việc làm, nghèo và giảm nghèo, y tế,
giáo dục. Tất cả các đặc điểm về dân số và kinh tế - xã hội này có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Trên thế giới đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề dân
số và mối quan hệ giữa dân số với phát triển kinh tế - xã hội với những cách lí
giải rất khác nhau. Đó là các học thuyết của Malthus về dân số, của Marx và
Engles, học thuyết quá độ dân số… Qua nghiên cứu nội dung chính của các học
thuyết sẽ giúp tác giả có cái nhìn tổng quan hơn về vấn đề dân số và phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn nghiên cứu là tỉnh Bình Dương. Mối quan hệ giữa
dân số và kinh tế - xã hội chịu tác động của nhiều nhân tố. Các nhân tố quan
trọng phải kể đến là vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ, điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội. Trong khi các nhân tố tự nhiên là
tiền đề cho việc phát triển kinh tế - xã hội và phân bố dân cư thì các nhân tố kinh
tế - xã hội như đường lối phát triển kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng - cơ sở vật chất
kĩ thuật… là các nhân tố cốt lõi làm thay đổi các đặc điểm về dân số và phát triển
kinh tế - xã hội.

10



Trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế xã hội, có thể nhận thấy rằng qui mô và gia tăng dân số là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế nhưng cũng chính qui mơ và tăng trưởng kinh tế
cũng như phân bố sản xuất sẽ làm thay đổi các đặc điểm về cơ cấu dân số, phân
bố dân cư và đơ thị hóa đồng thời làm thay đổi các đặc điểm xã hội của dân số
như trình độ văn hóa, cơ cấu nghề nghiệp của người lao động. Qui mô và gia
tăng dân số tác động lớn đến thu nhập bình quân đầu người, đến nghèo và giảm
nghèo đồng thời ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành y tế, giáo dục. Ngược lại,
các thành tựu về y tế, giáo dục là nhân tố quan trọng tác động đến mức sinh, mức
tử và góp phần nâng cao chất lượng dân số. Để phân tích, đánh giá được mối
quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội vận dụng cho cấp tỉnh cần dựa
vào một số tiêu chí nhất định, gồm 2 nhóm là: tiêu chí đánh giá về dân số và tiêu
chí đánh giá về phát triển kinh tế - xã hội. Về dân số, đó là: qui mơ, gia tăng dân
số; cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính; về kinh tế là qui mô, tốc độ tăng trưởng
GDP và cơ cấu GDP; về xã hội là các tiêu chí đánh giá về lao động - việc làm;
nghèo và giảm nghèo, y tế, giáo dục….
Nhìn chung, các nghiên cứu tiếp cận nhiều góc độ khác nhau cả về lý luận
lẫn thực tiễn về sự tác động của người nhập cư đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội ở các đô thị, tuy nhiên vẫn còn một vài khoảng trống:
Về lý luận: đến nay, các cơng trình nghiên cứu về tác động của người nhập
cư về phát triển kinh tế - xã hội ở hai mặt tích cực và tiêu cực về các góc độ khác
nhau như: xã hội, kinh tế, địa lí.... nhưng vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu
vần đề này về góc độ chính trị. Đặc biệt, vẫn chưa có nghiên cứu nào xây dựng
một cách hệ thống các nhân tố ảnh hưởng đến tác động của người nhập cư đến
phát triển kinh tế - xã hội.
Về mặt thực tiễn: chưa có cơng trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực
trạng tác động của di dân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thị xã
Tân Uyên.
5. Nguồn dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Tư liệu sơ cấp


11


Được thu thập từ các cuộc khảo sát tại địa bàn bao gồm quan sát tham dự
cuộc sống thường nhật của người di cư; trị chuyện phi chính thức, phỏng vấn
chính thức với người di cư và lãnh đạo địa phương.
5.2. Tư liệu thứ cấp
Các báo cáo, kế hoạch của phòng, ban của các cuộc tổng điều tra dân số,
thống kê kinh tế - xã hội của Chi cục Thống kê Tân Uyên, Chi cục dân số, Công
an thị xã Tân Uyên, phòng Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan
tổ chức, ban ngành có liên quan. Từ những nguồn tài liệu trên, tác giả đã có cơ sở
để đánh giá thực trạng di dân và những ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh
tế - xã hội ở Tân Uyên.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử:
Để phục dựng lại quá trình di dân ở thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương một
cách cụ thể và chính xác.
- Phương pháp logic:
Nhằm hệ thống khái quát, tìm ra những đặc điểm, sự phát triển của quá
trình di dân qua các giai đoạn lịch sử, rút ra những bài học lịch sử làm cơ sở khoa
học cho việc hoạch định những chủ trương, chính sách của tỉnh Bình Dương nói
riêng và thị xã Tân Un nói chung.
- Phương pháp thống kê:
Phương pháp thống kê nhằm để xử lí và phân tích các số liệu từ cơ sở dữ
liệu và kết quả của các cuộc tổng điều tra dân số, thống kê kinh tế - xã hội.
6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Tái hiện quá trình người dân từ các nơi nhập cư vào thị xã Tân Uyên giai
đoạn 2010 - 2018, ảnh hưởng của quá trình này đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Dự báo di dân trong tương lai, đưa ra một số giải pháp điều chỉnh di dân
tự do và sử dụng nguồn lao động nhập cư có hiệu quả nhất.

- Là nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo.
7. Bố cục của luận văn

12


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo luận văn
chia thành 3 chương, bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về bối cảnh kinh tế - xã hội thị xã
Tân Uyên.
Chương 2: Quá trình di dân đến thị xã Tân Uyên.
Chương 3: Tác động của quá trình di dân đối với kinh tế, văn hóa, xã hội
của thị xã Tân Uyên.

13


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI
THỊ XÃ TÂN UYÊN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm “di dân”
Do q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, làn sóng di dân được tăng
lên nhanh chóng. Đây là một hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính quy luật, xuất
hiện tồn tại song song với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Có rất nhiều khái
niệm nói về vấn đề di dân. Di dân là khái niệm được các nhà nghiên cứu định
nghĩa khơng thống nhất. Có nhà nghiên cứu coi đó là sự “thay đổi nơi cư trú cố
định”; có nhà nghiên cứu lại coi “sự thốt ly/rời tách khỏi cộng đồng sống” là
nội dung chính trong nội hàm khái niệm di cư. Có nhà nghiên cứu cho rằng “giá
trị hệ thống dựa trên đó con người/cộng đồng người lựa chọn nơi cư trú” là tiêu

chí chủ yếu nhận dạng quá trình di dân. Tổng hợp lại, di cư có thể hiểu là sự
chuyển dịch của con người từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ
khác trong thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh
viễn. Nói cách khác, di dân là một thuật ngữ mơ tả quá trình di chuyển dân số
hoặc quá trình con người rời bỏ hoặc hội nhập, hoặc thiết lập nơi cư trú mới vào
một đơn vị hành chính - địa lý trong một thời gian nhất định.
Di dân có thể liên quan đến sự di chuyển của một hay cá nhân, một gia
đình, thậm chí cả một cộng đồng. Cùng với khái niệm “di dân” có một số khái
niệm liên quan như “người di dân”, “di dân gộp”, “di dân ròng”, “nơi nhập cư”,
“nơi xuất cư”, “di cư chênh lệch”... “Người di dân” là người trong một thời gian
nhất định, ít nhất là một lần thay đổi nơi cư trú của mình từ địa bàn này sang địa
bàn khác, từ khu vực lãnh thổ này sang khu vực lãnh thổ khác. “Di dân gộp” là
tổng cộng số người cùng đến và đi trên cùng một vùng, là chỉ số đo lường toàn
bộ dân số đến và đi trong một cộng đồng dân cư trên cùng một địa bàn sống. “Di
dân rịng” là sự chênh lệch giữa quy mơ dân cư di chuyển đến và quy mô dân cư
di chuyển đi; đó là kết quả trực tiếp của sự đồng thời tiếp nhận hoặc đánh mất đi

14


một số lượng dân cư nhất định trên một địa bàn cụ thể do sự chuyển dịch nơi cư
trú của người dân.
Theo V.I.Xtaroverov (1975): “Di dân là sự thay đổi vị trí của con người
về mặt địa lí, do có sự di chuyển thường xuyên hoặc tạm thời của họ từ một cộng
đồng kinh tế này sang một cộng đồng kinh tế khác, trở về hoặc có sự thay đổi vị
trí khơng gian của tồn bộ cộng đồng nói chung”.
Theo khái niệm của Liên Hiệp Quốc (1958): “Di dân là một sự di chuyển
từ một đơn vị lãnh thổ này tới một đơn vị lãnh thổ khác, hoặc là một sự di
chuyển với khoảng cách tối thiểu quy định. Sự di chuyển này diễn ra trong một
khoảng thời gian di dân xác định và được đặc trưng bởi sự thay đổi nơi cư trú

thường xuyên”.
Trong cuộc sống, con người di cư bởi nhiều nguyên nhân với nhiều mục
đích khác nhau, với các khoảng cách xa gần khác nhau và vào các thời điểm khác
nhau. Quá trình này chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố kinh tế và xã hội, bởi vậy
nó chứa đựng bản chất kinh tế - xã hội sâu sắc.
Di dân là gì? Có nhiều định nghĩa về di dân được đưa ra, mỗi định nghĩa
xuất phát từ những phương diện khác nhau, do đó khó có thể lựa chọn được định
nghĩa thống nhất, bao quát cho mọi tình huống, bởi tính đa dạng, phức tạp của
hiện tượng di dân. Không phải mọi sự di chuyển của con người đều được coi là
di dân. Trước hết, người ta phân biệt di dân với các hình thức di chuyển thông
thường hàng ngày: rời khỏi nhà để đi học, đi làm, đi chơi, tham quan du lịch...
Nhưng trong thực tế có nhiều hình thức di chuyển như đi làm việc có thời hạn ở
nước ngồi, cơng tác biệt phái xa nhà, di chuyển làm việc theo thời vụ, chuyển
cư do hôn nhân của phụ nữ theo các khoảng cách đủ xa nhất định, với những
mục tiêu nghiên cứu đặc biệt, lại được coi là di dân. Vì vậy, việc đưa ra một định
nghĩa di dân có ý nghĩa làm sáng tỏ thêm nội dung và các hình thức di dân.
Di dân là sự di chuyển của người dân theo lãnh thổ với những giới hạn về
thời gian và không gian nhất định, kèm theo sự thay đổi nơi cư trú. Hiểu về di
dân theo cách tiếp cận trên đây dựa vào các đặc điểm chủ yếu sau:

15


Một là, con người di chuyển khỏi địa bàn nào đó đến một nơi nào đó, với
một khoảng cách nhất định. Nơi đi (nơi xuất cư) và nơi đến (nơi nhập cư) phải
được xác định, có thể là vùng lãnh thổ hoặc một đơn vị hành chính. Khoảng cách
giữa hai điểm là độ dài di cư.
Hai là, con người khi di cư bao giờ cũng với những mục đích nhất định,
họ đến một nơi nào đó và "ở lại" đó trong một thời gian nhất định.
Ba là, nơi đi (xuất phát) là nơi ở thường xuyên, được quy định theo hình

thức đăng ký hộ khẩu hoặc đăng ký dân sự xác định của cấp quản lý hành chính
có thẩm quyền và nơi đến là nơi ở mới. Tính chất cư trú là điều kiện cần để xác
định di dân.
Bốn là, khoảng thời gian ở lại nơi mới trong bao lâu là đặc điểm quan
trọng xác định sự di chuyển đó có phải là di dân hay khơng. Tùy mục đích, thời
gian "ở lại" có thể là một số năm, một số tháng.
Một số đặc điểm khác nữa có thể được đưa vào trong nghiên cứu cụ thể,
chẳng hạn sự thay đổi các hoạt động lao động. Thông thường di dân được hiểu
khi thay đổi nơi cư trú cũng thường kèm theo sự thay đổi công việc, nơi làm
việc, nghề nghiệp... Song không nhất thiết bao giờ cũng vậy. Trong không ít
trường hợp hai sự thay đổi nêu trên không đi đôi với nhau.
Trong nghiên cứu di dân một số khái niệm cần quan tâm là:
- Nơi đi: Còn gọi là nơi xuất cư, là địa điểm cư trú trước khi một người
rời đi nơi khác sinh sống.
- Nơi đến: là điểm kết thúc quá trình di chuyển, là địa điểm mà một người
dừng lại để sinh sống. Nơi và địa điểm ở đây là ám chỉ một lãnh thổ, một đơn vị
hành chính nhất định.
- Người xuất cư hay cịn gọi là người di cư đi là người rời nơi đang sinh
sống để đi nơi khác.
- Người nhập cư hay còn gọi là người di cư là người đến nơi mới để sinh sống.
- Luồng (dòng) di dân là tập hợp người đi ra khỏi vùng đang sinh sống và
đến cùng một vùng mới để cư trú theo những hướng nhất định vào những khoảng
thời gian xác định.

16


- Chênh lệch giữa số người đến và số người đi trong cùng một lãnh thổ,
đơn vị hành chính trong cùng một khoảng thời gian nhất định được gọi là di dân
thuần túy.

1.1.2. Các lý thuyết giải thích về di dân
Trong các nghiên cứu về di dân nói chung và di cư tự do nói riêng, mặc dù
dưới nhiều góc độ lý giải khác nhau của hiện tượng xã hội này, song dường như
các nghiên cứu mới chỉ tiếp cận mơ hình lý thuyết “lực hút - đẩy” ở khía cạnh chỉ
ra nguyên nhân di dân ở góc độ kinh tế, xã hội và luật pháp mà ít thấy tiếp cận ở
các chiều cạnh khác. Mơ hình lý thuyết “lực hút - đẩy” chưa được vận dụng đầy
đủ đa dạng, nhiều chiều của lý thuyết. Bởi vì trên thực tế di cư nói chung và di cư
tự do nói riêng không chỉ do lực hút - đẩy được cho là xuất phát từ yếu tố kinh tế,
hay thể chế chính trị làm cho người ta di cư, mà cịn có yếu tố khác như yếu tố tập
quán di cư (phong tục, tập qn di cư).
Có thể thấy, mơ hình lý thuyết “lực hút - đẩy” của Everett S. Lee rất có ý
nghĩa và giá trị trong việc nghiên cứu về vấn đề dân số và di dân và hoạch định
chính sách di dân ở Việt Nam.
Nhằm giải thích đầy đủ hơn bản chất của di dân trong các điều kiện kinh tế
- xã hội cụ thể, các nhà nghiên cứu thường tập trung phân tích vì sao một số
người di dân và một số khác lại không, một số người di dân theo hướng này một
số khác lại lựa chọn các hình thức và hướng di dân khác.
Lí thuyết lực hút - lực đẩy
Trên cơ sở quan sát các hiện tượng di dân, nhiều lí thuyết di dân đã được
khái qt, trong đó phải kể đến lí thuyết "lực đẩy - lực hút" do Ravenstein (1889)
là người đầu tiên sử dụng. Khi phân tích các dịng di dân ở nước Anh, ông cho
rằng các yếu tố "lực hút" quan trọng hơn các yếu tố "lực đẩy". Theo ông: " Các
luật lệ tồi hoặc ngột ngạt, thuế khóa nặng nề, khí hậu khơng thuận hịa, mơi
trường xã hội xung quanh khơng cởi mở, thậm chí có sự cưỡng bức (trong bn
bán, vận chuyển nơ lệ),…tất cả những điều đó đã và đang tạo ra các hình thức di
dân, tuy nhiên khơng có loại hình di dân nào có thể so sánh với khát vọng tiềm ẩn
trong mỗi người đàn ông vươn lên làm tốt hơn cho cuộc sống của chính họ về

17



phương diện vật chất". Rõ ràng Ravenstein cho rằng khát vọng vươn lên phía
trước, tới điều kiện sống tốt hơn, mạnh mẽ hơn, mong muốn trốn tránh hồn cảnh
khơng thuận lợi. Và đó cũng chính là thực chất động cơ di dân của phần lớn dân cư.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, thường thì người di dân, đặc biệt là người nghèo khổ
tham gia di dân đều chịu tác động đồng thời của cả “lực đẩy” và “lực hút”.
Ngoài ra, quá trình di dân cịn được thúc đẩy bởi sự tiến bộ của công nghệ, sự
phát triển kinh tế và giao thông vận tải. Các yếu tố thuộc về sức đẩy là: Thiếu đất đai
canh tác, thiếu việc làm có thu nhập cao, khơng có cơ hội phát triển kinh tế, cuộc
sống buồn tẻ, thiếu cơ hội giao lưu xã hội, chiến tranh và thiên tai, bệnh dịch.
Các yếu tố thuộc về sức hút: Kinh tế phát triển, giao thông thuận tiện, cơ
hội việc làm có thu nhập cao, cơ hội học tập đào tạo nâng cao trình độ học vấn,
cơ hội giao lưu…
Theo phân tích của Todaro về vai trị của các nhân tố kinh tế trong di dân
nông thôn - thành thị, tác giả chỉ ra rằng giữa nông thơn và thành thị ln có
những chênh lệch về tiền lương. Chính sự khác biệt này đóng vai trị thúc đẩy sự
di dân. Để có thể tham gia vào thị trường lao động ở thành thị, người lao động
chấp nhận tất cả các cơng việc có thể làm được dù là nặng nhọc, ngắn hạn, không
ổn định. Những người di dân tiềm năng sẽ tính tốn và tiếp tục di dân khi mà tiền
lương của họ mong đợi ở thành thị vượt quá thu nhập cơ bản của nông nghiệp.
Một số tác giả khác như Asfaha và Jooste (2006) và Nanavati (2004) cũng
đồng tình với quan điểm của Todaro, đồng thời nhấn mạnh rằng hiện tượng dư
thừa lao động hoặc thất nghiệp tạm thời ở khu vực nông thôn trong giai đoạn
chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp hóa là phổ biến. Các tác giả
này chứng minh rằng q trình chuyển đổi này có liên hệ chặt chẽ với sự chuyển
dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang cơng nghiệp, nơi có năng suất trên
mỗi đơn vị lao động cao hơn, có nghĩa là tiền lương nhận được cũng cao hơn. Xu
hướng di dân từ nông thơn ra thành thị được xem là một q trình tự nhiên, trong
đó lực lượng lao động dơi dư ở nông thôn được dùng để bù vào sự thiếu hụt lao
động trong khu vực công nghiệp, đô thị trong quá trình phát triển cơng nghiệp.


18


Lí thuyết cấu trúc của Lee
Lee (1966) tổng kết hai nhóm yếu tố quyết định việc di dân của người dân
từ nơng thơn ra thành thị: Nhóm yếu tố tiêu cực - nghèo đói, sự thiếu thốn các cơ
hội kinh tế, thiếu đất, mức sống thấp ở quê nhà; Nhóm yếu tố tích cực - sự thịnh
vượng, cơ hội, cơng việc làm ăn, mức sống cao ở nơi đến… Trong hai nhóm yếu
tố này, những yếu tố tiêu cực tác động mạnh hơn buộc người ta phải rời nơi sinh
sống của mình cịn các yếu tố tích cực phản ánh sự hấp dẫn của nơi đến. Tác giả
cũng đã khái quát hai tính chất cơ bản của di dân như sau:
Một là, di dân mang tính chất chọn lọc (khơng phải mọi người đều di dân,
mà chỉ một bộ phận "chọn lọc" trong dân số di dân mà thôi).
Hai là, mỗi thời kì của chu kì cuộc sống con người có các thiên hướng di
dân khác nhau, chẳng hạn thanh niên khi trưởng thành có nhu cầu, mong muốn
cơ hội học tập cao hơn, có việc làm tốt hơn, thăng tiến trong sự nghiệp và xây
dựng gia đình.
Mitchell (1985) nhấn mạnh nhận thức tầm quan trọng của cơ chế di dân.
Điều này rất hữu ích trong việc lí giải nguyên nhân vì sao một số người ra đi và
những người khác vẫn ở lại, dù đó là mỗi cá nhân hay cộng đồng. Các yếu tố
quyết định đến quyết định di chuyển bao gồm:
Các yếu tố mang tính cơ học như: khí hậu hay năng suất của đất đai.
Các yếu tố kinh tế như sự giàu có (hay nghèo khó) tương đối hay cơ hội
về việc làm.
Các yếu tố xã hội cản trở họ ra đi hay thúc đẩy họ ra đi.
Các yếu tố chính trị như vấn đề luật pháp khuyến khích hoặc bắt buộc họ
phải di chuyển đến một vùng nhất định hay bất cứ đâu.
Mitchell cũng khẳng định sự quyết định ra đi còn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác, như các đặc trưng về dân số (tuổi, giới tính, vai trị của cá nhân trong gia

đình và xã hội); trình độ học vấn và tay nghề giúp họ có thể tham gia vào cộng

19


đồng, người thân bạn bè nơi đến cũng ảnh hưởng đến khả năng di dân. Cuối cùng
sự quyết định ra đi phụ thuộc tổng hợp vào những yếu tố trên.
Lý thuyết của Lee về các nhân tố quyết định của di cư
Lee (1966) lập luận rằng quyết định di dân được dựa trên 4 nhóm nhân tố:
(1) Các nhân tố gắn với nơi ở gốc.
(2) Các nhân tố gắn với nơi sẽ đến.
(3) Các trở ngại khi di cư.
(4) Các nhân tố thuộc về người di cư.
Mỗi một địa điểm, nơi gốc và nơi đến, đều có những ưu điểm và hạn chế
riêng trên nhiều lĩnh vực như thu nhập, việc làm, nhà ở, phúc lợi xã hội, giáo dục,
chăm sóc sức khỏe, thậm chí là khí hậu v,v… sẽ được người dự định di cư cân
nhắc. Thông thường, các điều kiện kinh tế khó khăn ở nơi gốc là các nhân tố
“đẩy” chủ yếu của việc xuất cư, trong khi khả năng cải thiện điều kiện kinh tế ở
nơi đến là nhân tố “hút” quan trọng nhất của việc nhập cư. Nhìn chung, các vùng
chưa được cơng nghiệp hóa có rất ít cơ hội kinh tế đã khuyến khích xuất cư,
trong khi các trung tâm công nghiệp và thương mại lớn cung cấp rất nhiều cơ hội
kinh tế cho mọi người và do vậy đã thu hút số lượng lớn dân nhập cư từ nhiều
vùng khác nhau. Việc đưa ra quyết định di cư cịn được tính tốn dựa trên các chi
phí, bao gồm cả chi phí vật chất và tinh thần, mà khoảng cách địa lý là một vấn
đề quan trọng nhất vì điều này khơng chỉ tăng chi phí vận chuyển mà cịn tăng
các chi phí vơ hình do phải đối mặt với mơi trường xa lạ, khó hội nhập. Cuối
cùng, việc di cư cịn phụ thuộc vào những phẩm chất cá nhân của từng người,
điều mà các nhà nghiên cứu thường gọi là tính chọn lọc của di cư. Lý thuyết của
Lee là rất có ích cho việc nghiên cứu các nhân tố vĩ mô và cả vi mô của di cư.
1.2. Bối cảnh kinh tế - xã hội của thị xã Tân Uyên

1.2.1. Định hướng phát triển đô thị Tân Uyên
Quyết định 1886/QĐ - UBND năm 2012 phê duyệt đồ án quy hoạch
chung xây dựng đơ thị Nam Tân Un đến 2030, tầm nhìn 2050.

20


Với diện tích 19.175.72 ha, nằm ở phía Đơng Nam của tỉnh Bình Dương,
Tân Uyên gồm 12 xã - phường, trong đó có 6 phường là: Uyên Hưng, Tân Phước
Khánh, Thái Hịa, Thạnh Phước, Tân Hiệp, Khánh Bình và 06 xã: Hội Nghĩa,
Vĩnh Tân, Phú Chánh, Tân Vĩnh Hiệp Thạnh Hội, Bạch Đằng. Thị xã Tân Uyên
nối liền với các thành phố đang phát triển của tỉnh Bình Dương như Thuận An,
Dĩ An, Thủ Dầu Một, các huyện Bắc Tân Uyên, Phú Giáo; tiếp giáp với huyện
Vĩnh Cữu, tỉnh Đồng Nai. Dù tài nguyên thiên nhiên không phong phú, đa dạng,
nhưng với vị trí địa lý đặc biệt, thị xã Tân Uyên trở thành địa bàn quan trọng của
Tỉnh cả về chính trị, qn sự, kinh tế và văn hóa, xã hội.
Thị xã Tân Uyên phát triển nền kinh tế mở, vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; chủ động hội nhập quốc tế, thu hút vốn,
công nghệ của các nước phát triển trên cơ sở tập trung đầu tư phát triển hệ thống
cơ sở hạ tầng đạt tiêu chuẩn quốc tế; đồng thời thực hiện cơ chế kinh tế, tiếp tục
tạo dựng một môi trường hỗ trợ sản xuất kinh doanh, tăng cường sức hấp dẫn của
các nhà đầu tư vào địa bàn, đặc biệt ưu tiên phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và
dịch vụ cao trong các khu công nghiệp, các khu đô thị. Tân Uyên theo hướng
phát triển chọn lọc một số ngành công nghiệp mũi nhọn, các ngành dịch vụ có
hiệu quả cao. Đồng thời đầu tư có trọng điểm, ưu tiên đầu tư những ngành, lĩnh
vực có giá trị tăng cao, có khả năng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, tăng
việc làm và thu nhập cho nhân dân. Mặt khác, việc phát triển công nghiệp gắn
với phát triển dịch vụ, nông nghiệp và phát triển nơng thơn đã góp phần đưa Tân
Un cơ bản trở thành đô thị văn minh, hiện đại. Địa phương cũng chú trọng xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực ngày càng có chất lượng cao và coi đây là

điều kiện quyết định để có thể phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững,
nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của người lao động. Phát triển kinh tế - xã
hội phải kết hợp chặt chẽ với bảo vệ mơi trường, thực hiện tốt cải cách hành
chính, tạo mơi trường thơng thống để thu hút đầu tư.
Ngồi ra, Tân Uyên phát triển các khu công nghiệp theo hướng nhanh và
bền vững; chú trọng thu hút các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng và hàm
lượng cơng nghệ cao để phục vụ một phần cho nhu cầu trong nước và đẩy mạnh

21


xuất khẩu. Bên cạnh đó, địa phương cũng phát triển công nghệ sạch để tăng giá
trị sản phẩm và bảo vệ môi trường; đổi mới công nghệ hiện đại, tiên tiến, nâng
cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh trong hội nhập
kinh tế quốc tế. Trong mục tiêu phát triển kinh tế, Tân Uyên cũng xác định phải
đồng bộ với phát triển xã hội và gắn với quốc phòng - an ninh để đảm bảo quá
trình phát triển được ổn định và bền vững.
1.2.2. Cơ cấu kinh tế của thị xã Tân Uyên
Thị xã Tân Uyên ngày càng khẳng định là vùng đất lý tưởng cho các nhà
đầu tư sản xuất, kinh doanh. Công nghiệp tiếp tục phát triển sôi động và chiếm
tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế. Tân Uyên đã nở hoa trên bước đường
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, chào đón những làn sóng đầu tư với 3 khu cơng
nghiệp, 3 cụm công nghiệp dần được lấp đầy, 988 doanh nghiệp đầu tư trong
nước, tổng vốn đăng ký là 9.986 tỷ đồng, 579 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi được cấp giấy chứng nhận đầu tư, tổng số vốn đăng ký là 3.801 triệu USD.
Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng năm 2018 ước đạt 21.800 tỷ đồng.
Công nghiệp tăng trưởng cao, đúng định hướng. Giá trị sản xuất công
nghiệp đến năm 2015 đạt 9.328,5 tỷ đồng tăng 44,85%; trong đó khu vực kinh tế
trong nước chiếm 30,83%, khu vực có vốn đầu tư nước ngồi chiếm 69,17%. Sản
phẩm khá đa dạng, chủ yếu là công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Công nghệ,

năng lực sản xuất công nghiệp được nâng lên, tạo được nhiều sản phẩm có khả
năng cạnh tranh và giá trị tăng cao.
Dịch vụ phát triển khá nhanh, tăng bình quân là 18,61%. Dịch vụ tài chính
phát triển nhanh, đáp ứng cơ bản nhu cầu vốn và giao dịch trên địa bàn. Dịch vụ
bảo hiểm, bưu chính, viễn thơng phát triển đa dạng đáp ứng nhu cầu của người
dân và doanh nghiệp. Hệ thống cảng sông được mở rộng. Vận tải phát triển
tương đối đồng bộ, góp phần phục vụ cho việc đi lại của người dân. Du lịch thương mại có bước phát triển mới.
Nơng nghiệp tiếp tục phát triển ổn định, tăng bình qn 1,03%. Thực hiện
chương trình phát triển nơng nghiệp đơ thị, nông nghiệp kỷ thuật cao gắn với
công nghiệp chế biến được triển khai, bước đầu góp phần chuyển dịch cơ cấu

22


ngành nông nghiệp. Kinh tế khu vực nông thôn phát triển nhanh, đời sống của
người dân được cải thiện đáng kể. Đến nay đã có 6/6 xã được cơng nhận xã Nơng
thơn mới. Cơng tác phịng chống cháy rừng, lụt bão, phịng chống dịch bệnh trên
cây trồng, vật ni thực hiện thường xuyên, kịp thời và có hiệu quả.
Thương mại - dịch vụ phát triển sôi động, thị trường hàng hoá ổn định,
đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Ủy ban nhân dân thị xã đã tổ chức bình
chọn sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu lần II - năm 2018 và công nhận
10 sản phẩm, bộ sản phẩm đạt chứng nhận sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu
biểu cấp Thị. Giá trị thương mại - dịch vụ ước đạt 8.780 tỷ đồng. Nông nghiệp
dù không chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế nhưng vẫn ghi dấu ấn với
những sản phẩm chất lượng mang thương hiệu đặc trưng của thị xã Tân Uyên,
đặc biệt là Bưởi Bạch Đằng đang tiếp tục khẳng định chỗ đứng vững chắc trên
thị trường và ngày càng vươn xa. Các dự án khoa học công nghệ, nông nghiệp
kỹ thuật cao như: Xây dựng mơ hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật sản xuất cây bạc
hà và bí đỏ hạt đậu đạt tiêu chuẩn VietGAP tại xã Thạnh Hội; Bình tuyển, cơng
nhận và xây dựng vườn cây đầu dòng bưởi đường da láng và bưởi ổi ở xã Bạch

Đằng; Nghiên cứu, tuyển chọn cây đầu dòng bưởi đường lá cam tại xã Bạch
Đằng… mở ra những triển vọng mới cho nông nghiệp tại địa phương. Sự phát
triển về kinh tế đã mang đến cho người dân một cuộc sống chất lượng, thu nhập
bình quần đầu người theo GRDP đạt 120 triệu đồng/người/tháng. Hàng loạt cơng
trình mới dần được thi cơng hồn thành và đưa vào sử dụng, tiêu biểu như: nâng
cấp, mở rộng đường ĐT 746, ĐT 747B, các cơng trình cơng viên, hoa viên tại
các xã, phường, tuyến phố đi bộ phường Uyên Hưng… là thành tựu của quá
trình đổi mới, tô thắm sắc xuân cho đô thị trẻ Tân Uyên.
Công tác quy hoạch phát triển và quy hoạch đô thị được thị xã quan tâm
chỉ đạo, rà soát, điều chỉnh phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của thị
xã. Hạ tầng đô thị được chú trọng đầu tư, huy động hiệu quả nguồn vốn của
nhiều thành phần kinh tế. Chỉnh trang đô thị được chú trọng, tập trung cho việc
hồn chỉnh các tiêu chí đơ thị để đủ điều kiện nâng cấp đơ thị. Diện tích nhà ở
bình qn đạt 12,45m2/người; tỷ lệ đơ thị hóa đạt 50%.

23


Đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ, đặc biệt các cơng
trình trọng điểm. Nhiều cơng trình hạ tầng quan trọng được hình thành và đưa
vào sử dụng, đảm bảo kết nối hệ thống kết cấu hạ tầng trong vùng. Hệ thống
đường dây tải điện, trạm biến áp được cải tạo, xây dựng mới, chất lượng điện
phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng ngày một nâng cao, tỷ lệ hộ sử dụng điện đạt
100%. Hệ thống chiếu sáng được dầu tư trang bị tương đối phủ kín trên các trục
đường chính. Hạ tầng cấp nước được đầu tư tương đối đồng bộ, đáp ứng nhu cầu
nước sinh hoạt và nước cho công nghiệp tại các khu, cụm công nghiệp, khu đô
thị. Công tác quản lý đất đai có nhiều chuyển biến tích cực, minh bạch và hiệu
quả. Tỷ lệ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất đạt 99,23%. Công tác quản lý nhà nước về tài ngun nước,
khống sản và ứng phó với biến đổi khí hậu ngày càng đi vào nề nếp. Công tác

bảo vệ môi trường được chú trọng, chủ động phịng ngừa và kiểm sốt ơ nhiễm.
Đến nay, tỷ lệ thu gom rác thải đạt 86%, rác y tế đạt 100%.
Với tốc độ và quy mô phát triển của Tân Uyên, việc di dân là quy luật tất
yếu trong quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế - xã hội của địa phương. Do vậy phải
vận dụng làm sao cho quy luật này trở thành một chiến lược để phát triển kinh tế
- xã hội có hiệu quả, phát huy tối đa nội lực nguồn lao động di dân trong tồn
quốc. Dịng người nhập cư ồ ạt đến các khu công nghiệp làm ảnh hưởng đến đời
sống các vùng họ đến nhập cư là không nhỏ. Chẳng hạn như họ mang theo những
phong tục tập quán, tín ngưỡng đến nơi ở mới làm phong phú thêm nền văn hóa
tại địa phương họ cư trú, đồng thời nó cũng làm cho dân số đông hơn, cần nhiều
thiết chế về văn hóa, giáo dục… hơn.
Như vậy, với những ưu thế về điều kiện tự nhiên, tiềm năng kinh tế - xã
hội và chính sách lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Tân Uyên sẽ tiếp tục phát
triển bền vững, trở thành một trong những thành phố văn minh, hiện đại ở tỉnh
Bình Dương và khu vực Đơng Nam Bộ, điều đó tất yếu sẽ có tác động đến việc
di dân vào Tân Uyên.
1.2.3. Điều kiện xã hội

24


Đầu tư phát triển kinh tế, đô thị, song song đó, thị xã Tân Un ln coi
trọng cơng tác đảm bảo an sinh xã hội, chăm lo tốt cho người có cơng với cách
mạng, người có hồn cảnh khó khăn. Trong năm 2018, Ủy ban nhân dân thị xã
đã hoàn chỉnh hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ cho 216 đối tượng chính sách, ban
hành Quyết định trợ cấp xã hội cho 3.062 đối tượng bảo trợ xã hội. Đặc biệt, Ủy
ban nhân dân thị xã đã kêu gọi các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm trong và ngoài
thị xã chăm lo cho gần 20 trẻ em bệnh hiểm nghèo có hồn cảnh đặc biệt khó
khăn. Tồn thị xã có 350 lao động được đào tạo nghề, đạt 159% so với Nghị
quyết Hội đồng nhân dân, 16.229 lượt lao động được giới thiệu việc làm, đạt

405,7% Nghị quyết. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chiếm 74,8%. Tân Uyên làm
tốt công tác chăm lo đời sống cho người lao động có hồn cảnh đặc biệt khó
khăn khơng có điều kiện về quê ăn tết được đảm bảo; hầu hết các doanh nghiệp
trên địa bàn thị xã đều giải quyết lương, thưởng kịp thời và theo đúng quy định.
Sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp và dịch vụ ở Tân Uyên,
cùng với các chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội hợp lí và thu hút
nhân tài đã tạo ra lực hút mạnh mẽ dòng di dân tự do từ khắp các tỉnh thành đến
Tân Uyên lập nghiệp. Điều này góp phần làm tăng lực lượng lao động cho thị xã,
tăng giá trị sản xuất trong các ngành kinh tế đặc biệt là cơng nghiệp và dịch vụ,
đẩy nhanh q trình đơ thị hóa của thị xã tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới kinh tế - xã hội, sự nhạy bén với thị
trường, năng động trong công tác và sự nắm bắt cơ hội của các cấp lãnh đạo thị
xã Tân Uyên đã tạo ra những thành quả cao, quyết định đến sự phát triển kinh tế
- xã hội, làm tăng quá trình di dân, đặc biệt là thu hút nhập cư rất nhiều vào thị
xã trong những năm qua.

25


×