Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

TIỂU LUẬN vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở việt nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù riêng và cái chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.72 KB, 29 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN
KHOA CƠ BẢN
BỘ MƠN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI
VAI TRỊ CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG TRONG THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH XĨA ĐĨI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ GÓC ĐỘ
CỦA CẶP PHẠM TRÙ RIÊNG VÀ CÁI CHUNG

GVHD:…………………………………………..
HVTH:…………………………………………..
Lớp:……………………………………………..

- 2021


PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ TIỂU LUẬN
STT

1
2

3

4
5

Nội


dung Giảng

nhận xét

nhận xét

viên

Điểm
Điểm

giảng viên

Thể thức văn
bản
Bố cục, kết cấu
đề tài
Nội
(Lý

dung
luận

+

Thực tiễn)
Phương pháp
trình bày
Tài liệu tham
khảo

10

Họ và tên giảng viên:

Chữ ký giảng viên:

kết

luận


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA
NGÀNH NGÂN HÀNG TRONG THỰC HIỆN
Chương 1. CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY TỪ GÓC ĐỘ CỦA CẶP PHẠM
TRÙ RIÊNG VÀ CÁI CHUNG
Cặp phạm trù riêng và cái chung
1.1.
Vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện chính sách xóa
1.2.
đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp
phạm trù riêng và cái chung
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI
TRÒ CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG TRONG THỰC

Chương 2. HIỆN CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI GIẢM NGHÈO Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ GÓC ĐỘ CỦA CẶP
PHẠM TRÙ RIÊNG VÀ CÁI CHUNG
Thực trạng vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện
2.1.
chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ
góc độ của cặp phạm trù riêng và cái chung
Giải pháp phát huy vai trò của ngành ngân hàng trong
2.2.
thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù riêng và cái chung
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
4

4
4
12

15
15
17
25
26


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Đói nghèo là vấn đề xã hội mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đều có thể
gặp phải. Thực hiện xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội là chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho
người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và
giữa các nhóm dân cư. Trong Báo cáo “Khởi đầu tốt nhưng chưa phải đã hoàn
thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam về giảm nghèo và những thách thức mới”
của Ngân hàng thế giới ngày 24/1/2013, cũng ghi nhận: Trong vòng 20 năm (1990
- 2010), tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm từ gần 60% xuống cịn 20,7% với khoảng
hơn 30 triệu người thốt nghèo.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn tồn tại một bộ phận khơng nhỏ người dân vẫn ở
trong tình trạng đói nghèo và các đối tượng chính sách cần được quan tâm giúp đỡ.
Một trong những nguyên nhân của những hộ nghèo là thiếu vốn để sản xuất kinh
doanh, thiếu điều kiện để học nghề... Để giải quyết vấn đề đó, ngành ngân hàng
được thành lập nhằm mục đích cấp tín dụng ưu đãi đối với các hộ nghèo và đối
tượng chính sách khác để giải quyết nhu cầu về vốn cho họ. Do đó, nghiên cứu vấn
đề “Vai trị của ngành ngân hàng trong thực hiện chính sách xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù riêng và cái chung” làm
đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích của đề tài
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn vai trị của ngành ngân hàng trong thực
hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm
trù riêng và cái chung.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện chính sách xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù riêng và cái chung.

1



- Phân tích, đánh giá thực trạng vai trị của ngành ngân hàng trong thực hiện
chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù
riêng và cái chung.
- Đề xuất những giải pháp nâng cáo vai trò của ngành ngân hàng trong thực
hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm
trù riêng và cái chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo
ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù riêng và cái chung.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Ở Việt nam.
- Về thời gian: Từ năm 2015 - 2020.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh mà trực tiếp là kinh tế chính trị Mác - Lênnin, các quan điểm đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách pháp luật của Nhà nước về đói nghèo,
cơng cuộc xóa đói giảm nghèo thời gian qua, và các cơ chế hoạt động của ngân
hàng, chức năng, nhiệm vụ của ngành ngân hàng trong giảm nghèo và cấp tín dụng
cho hộ nghèo cùng các đối tượng chính sách.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày tiểu luận, tác giả sử dụng phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời vận dụng quan điểm
khách quan, quan điểm toàn diện,quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử cụ thể,
quan điểm thực tiễn.
5. Những đóng góp mới của đề tài
5.1. Về lý luận

2



Luận giải, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận vai trị của ngành ngân hàng
trong thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của
cặp phạm trù riêng và cái chung.
5.2. Về thực tiễn
Tiểu luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu giảng dạy tại các
trường cao đẳng, đại học; tham khảo cho lãnh đạo các cấp, lãnh đạo các ngân hàng
tham khảo nhằm đề ra các biện pháp nâng cao vai trị xóa đói giảm nghèo thời gian tới.
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài ghiên cứu gồm: 2 chương, 4 tiết.

3


NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRỊ CỦA NGÀNH
NGÂN HÀNG TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ GÓC ĐỘ CỦA CẶP PHẠM TRÙ
RIÊNG VÀ CÁI CHUNG
1.1. Cặp phạm trù riêng và cái chung
* Phạm trù
Cùng với các quy luật cơ bản, các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng
duy vật giúp chúng ta hiểu sâu sắc và toàn diện hơn sự vận động, phát triển của thế
giới thơng qua sự đấu tranh, chuyển hố giữa các mặt đối lập bên trong các sự vật,
hiện tượng.
Để suy nghĩ và trao đổi tư tưởng cho nhau con người phải sử dụng những khái
niệm nhất định. Đó là những hình thức cơ bản của tư duy phản ánh những mặt, những
thuộc tính cơ bản của một lớp sự vật, hiện tượng nào đó.
Tuỳ theo mức độ bao quát các sự vật, hiện tượng mà có khái niệm rộng, hẹp

khác nhau. Những khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng thuộc một lĩnh
vực nhất định được gọi là phạm trù.
Mỗi môn khoa học cụ thể đều có một hệ thống các phạm trù riêng của mình
phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến
thuộc phạm vi khoa học đó nghiên cứu.
Khác với các phạm trù của khoa học cụ thể, phạm trù của phép biện chứng
duy vật là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ cơ bản và phổ biến của toàn bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả
tự nhiên, xã hội và tư duy.
Giữa phạm trù của triết học và phạm trù của các khoa học cụ thể có mối quan
hệ biện chứng với nhau. Đó là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Phạm trù triết học trang bị tri thức khoa học chung nhất có ý nghĩa phương
pháp luận, dùng để nghiên cứu và giải quyết những vấn đề cụ thể của các khoa học
4


chuyên ngành. Do đó, thực chất phạm trù triết học là phạm trù của phương pháp
nghiên cứu, phương pháp nhận thức thế giới khách quan.
Các phạm trù của phép biện chứng duy vật có sự liên hệ và quan hệ với nhau
tạo thành tính chất cặp đơi. Tính cặp đơi là một trong những phương thức phản ánh
phép biện chứng khách quan của thế giới bằng phép phép biện chứng của khái
niệm. Tính cặp đơi của các phạm trù chính là sự phản ánh biện chứng tính thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập của thế giới hiện thực khách quan. Sự thống
nhất và đối lập của các phạm trù, tính cặp đơi của chúng chính là nguồn gốc bên
trong sự chuyển hoá giữa các phạm trù. Nhờ đó khi xem xét các khái niệm, phạm
trù, ta sẽ tránh được quan niệm coi chúng như là những tổng số của các hình thức
phản ánh, như là những quan hệ nối tiếp máy móc, mà là những quan hệ phụ thuộc,
rút từ cái này ra cái kia. V. I. Lênin viết: “Những khái niệm của con người không
đứng im, mà ln vận động, chuyển hố từ cái nọ sang cái kia. Không như vậy,

chúng không phải là phản ánh của đời sống sinh động” [5, tr.190].
Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các phạm trù trong từng cặp của phép biện
chứng duy vật là sự tác động biện chứng, có tính quy luật. Vì thế các cặp phạm trù cịn được gọi là các quy luật khơng cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Trong lịch sử triết học, các trường phái triết học đã đưa ra những cách giải
quyết khác nhau về vấn đề bản chất của phạm trù. Những người thuộc phái duy
thực cho phạm trù là những thực thể ý niệm, tồn tại ở ngoài và độc lập với ý thức
của con người. Trái lại, những người theo phái duy danh lại cho rằng, phạm trù chỉ
là những từ trống rỗng, do con người tưởng tượng ra, khơng biểu hiện một cái gì
trong hiện thực. E. Cantơ và những người thuộc phái của ông lại coi phạm trù chỉ
là những hình thức tư duy có sẵn của con người một cách bẩm sinh, có trước kinh
nghiệm, khơng phụ thuộc vào kinh nghiệm, được lý trí của con người đưa vào giới
tự nhiên.
Khác với các quan điểm trên đây, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng,
các phạm trù được hình thành trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn của
con người. Mỗi phạm trù xuất hiện là kết quả của quá trình nhận thức trước đó,
5


đồng thời lại là bậc thang của quá trình nhận thức tiếp theo của con người để tiến
gần đến nhận thức đầy đủ hơn bản chất của sự vật. V. I. Lênin viết: “Trước con
người có màng lưới những hiện tượng tự nhiên. Con ngươì bản năng, người man
rợ, khơng tự tách khỏi giới tự nhiên. Người có ý thức tự tách khỏi giới tự nhiên,
những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó, tức là của sự nhận thức thế
giới, chúng là những điểm nút của màng lưới, giúp ta nhận thức và nắm vững được
màng lưới” [6, tr.278].
Các phạm trù được hình thành bằng con đường khái qt hố, trừu tượng
hố những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có bên trong của bản thân sự vật. Vì
vậy nội dung của nó mang tính khách quan, do thế giới khách quan quy định, mặc
dù hình thức thể hiện của nó là chủ quan. V. I. Lênin viết: “Những khái niệm của
con người là chủ quan trong tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của

chúng, nhưng là khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong
khuynh hướng, trong nguồn gốc” [7, tr.287].
Các phạm trù là kết quả của quá trình nhận thức của con người, là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan. Thế giới khách quan không chỉ tồn tại độc lập
với ý thức của con người, mà còn ln vận động, phát triển và chuyển hố lẫn
nhau. Mặt khác, khả năng nhận thức của con người về thế giới cũng phát triển,
ngày càng trở nên sâu sắc và toàn diện hơn, do vậy các phạm trù cũng phải vận
động và phát triển theo. Không như vậy, các phạm trù không thể phản ánh đúng
đắn hiện thực khách quan được. Vì vậy, hệ thống phạm trù của phép biện chứng
duy vật khơng phải là một hệ thống đóng kín, bất biến, mà có thể và cần phải được
bổ sung bằng những phạm trù mới cùng với sự phát triển của thực tiễn và nhận
thức khoa học.
* Khái niệm cái riêng và cái chung
Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
cụ thể, hay một hệ thống các sự vật mang tính độc lập tương đối so với các hệ
thống khác.

6


Cái riêng được xem như một chỉnh thể mang tính độc lập tương đối với một
chỉnh thể khác, có những đặc điểm không lặp lại ở các chỉnh thể (sự vật, hiện
tượng, quá trình) khác. Song chỉnh thể (cái riêng) ấy ln được xác định bởi tổng
hồ các mặt, các thuộc tính hợp thành những tính quy định riêng về chất lượng và
số lượng của mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình.
Cái chung là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính giống nhau
được lặp lại trong nhiều (nhóm, loại) sự vật, hiện tượng, hay nhiều q trình riêng.
Như vậy, cái chung chỉ là cái bộ phận, được tách ra một cách trừu tượng khỏi tất cả
các cái riêng (sự vật, hiện tượng, q trình) khác. Nó là cái đồng nhất trừu tượng
của tất cả hay rất nhiều sự vật, hiện tượng trong một quan hệ xác định, khơng phải

cái tồn bộ trong chỉnh thể cái riêng. Song cái bộ phận (cái chung) ấy được lặp lại
trong nhiều cái riêng khác (nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình khác).
“Cái riêng” khác với “cái đơn nhất”. Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ
những nét, những mặt, những thuộc tính,… chỉ có ở một sự vật, một hiện tượng,
một kết cấu vật chất mà không lặp lại ở bất cứ sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất
khác. Chẳng hạn, “ý thức”, “lao động”, “ngôn ngữ” là những cái đơn nhất (những
thuộc tính đơn nhất) chỉ có ở loài người. “Cái chung” khác “cái đặc thù” và “cái
phổ biến”. “Cái đặc thù” là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính…
có ở một số sự vật, hiện tượng, quá trình hay một số kết cấu vật chất nhất định. Ví dụ:
“dẫn nhiệt”, “dẫn điện” là cácá thuộc tính đặc thù của kim loại. “Cái phổ biến” là
phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ
giống nhau của nhiều nhóm, loại sự vật, hiện tượng, q trình hay nhiều kết cấu vật
chất khác nhau. Sự phân biệt giữa cái đặc thù và cái phổ biến chỉ có ý nghĩa tương
đối, tuỳ thuộc vào quan hệ khi xem xét. Chẳng hạn, “đấu tranh giai cấp” là quy luật
phổ biến của mọi xã hội có giai cấp, song cũng có thể coi đây là quy luật đặc thù
của những xã hội có sự phân chia thành giai cấp [1, tr.80].
* Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
Trong lịch sử triết học, mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung được quan niệm
khác nhau. Phái duy thực đồng nhất thượng đế với cái chung và cho rằng chỉ có cái
7


chung mới tồn tại độc lập khách quan và là nguônhiều sản sinh ra cái riêng. Đối lập
lại chủ nghĩa duy thực, các nhà triết học duy danh như P. Abơla (1079- 1142),
Đumxcot (1265- 1308) cho rằng chỉ những sự vật, hiện tượng tồn tại riêng biệt với
những chất lượng riêng của chúng mới là có thực cịn khái niệm cái chung chỉ là
sản phẩm của tư duy của con người. Thấy được và khắc phục hạn chế của hai quan
niệm trên, triết học duy vật biện chứng cho rằng cái chung và cái riêng có mối liên
hệ biện chứng mật thiết với nhau, và cả hai đều tồn tại một cách khách quan.
Quan niệm của phái “duy danh” cho rằng, chỉ cái riêng là tồn tại thực sự, có

trước cái chung, còn cái chung (khái niệm chung) là những tên gọi trống rỗng do
con người nghĩ ra, không liên quan với sự vật riêng (cái riêng). Mặt tích cực của
quan niệm này ở chỗ, nó có khuynh hướng duy vật, chống chủ nghĩa duy tâm, tôn
giáo khi thừa nhận sự vật có trước, khái niệm có sau. Mặt hạn chế của nó là phủ
nhận nội dung khách quan của các khái niệm; không thấy mối liên hệ giữa cái
riêng (sự vật) với cái chung (khái niệm).
Trái với quan niệm của phái “duy danh”, phái “duy thực” cho rằng, chỉ cái
chung (khái niệm chung) là tồn tại thực sự, vĩnh viễn, độc lập với ý thức của con
người và sinh ra cái riêng; còn cái riêng (sự vật) chỉ tồn tại trong một thời gian rồi
biến đi (Platôn). Hạn chế của quan niệm này là có khuynh hướng duy tâm khi cho
rằng khái niệm có trước sự vật; tách rời cái riêng và cái chung [2, tr.102].
Tóm lại, quan niệm của cả hai phái trên đều sai lầm ở chỗ họ đã tách cái
riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hoá cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại.
Họ không thấy sự tồn tại khách quan và mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
Trái với cách giải quyết của cả hai phái trên, triết học Mác - Lênin cho rằng,
cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau.
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Nghĩa là,
khơng có cái chung thuần t, trừu tượng tồn tại tách rời cái riêng. Chẳng hạn, các
thuộc tính: “tồn tại khách quan”, “phản ánh”, “vận động” là những thuộc tính
chung của thế giới vật chất, song những thuộc tính chung này khơng tồn tại trừu
8


tượng, chúng biểu hiện sự tồn tại của mình thơng qua các sự vật, hiện tượng cụ thể
của thế giới vật chất. Như vậy, những cái chung này tồn tại thực sự, nhưng chỉ tồn
tại thông qua những dạng vật chất cụ thể, chứ khơng tồn tại ngồi những dạng vật
chất cụ thể.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Nghĩa là,
khơng có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung. Bởi vì,

một mặt, bất cứ cái riêng (sự vật, hiện tượng) nào cũng tồn tại trong một mơi trường,
hồn cảnh nhất định, có liên hệ với các sự vật, hiện tượng xung quanh. Các mối liên hệ
cứ trải rộng dần và trong số chúng sẽ có những mối liên hệ đưa đến một cái cái chung
nào đấy. Mặt khác, bất cứ cái riêng nào trong q trình tồn tại và phát triển của nó cũng
chịu sự chi phối của cái chung, quy luật chung. Ví dụ: Mọi cuộc chiến tranh đều chịu sự
quy định của quy luật phổ biến của nó là “mạnh được, yếu thua” [3, tr.27].
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; cái chung là cái
bộ phận, nhưng sâu sắc hơn, bản chất hơn cái riêng. Nghĩa là, cái riêng là cái chỉnh
thể, nó khơng gia nhập hết vào cái chung; còn cái chung chỉ là một mặt, một khía
cạnh hay một bản chất của cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung: vì ngồi
những thuộc tính gia nhập cái chung, cái riêng cịn có những “cái đơn nhất”, riêng có,
khơng lặp lại ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào. Ví dụ: ngồi những cái chung của giai
cấp tư sản quốc tế, giai cấp tư sản Việt Nam trước năm 1945 cịn có đặc điểm là ra
đời sau giai cấp vô sản Việt Nam. Chính điều này đã tạo nên sự đa dạng, phong
phú của cái riêng. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng: vì nó phản ánh những thuộc tính,
những mối liên hệ ổn định, tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy, nó gắn liền
với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng. Chẳng hạn,
quy luật bóc lột giá trị thặng dư của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là cái
chung, sâu sắc vì nó vạch trần quan hệ bóc lột của tư bản với lao động, của tư sản
với vơ sản.
Thứ tư, trong q trình phát triển khách quan của sự vật (cái riêng), trong
những điều kiện nhất định, cái đơn nhất có thể biến thành cái chung, và ngược lại.
Đây là sự chuyển hoá của hai mặt đối lập: giữa cái vốn có chỉ của một cái riêng,
9


không lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Sự chuyển hoá ở đây là sự chuyển hoá
của những thuộc tính: những thuộc tính chung biến thành những thuộc tính đơn
nhất, và ngược lại. Ví dụ: năm 1981, “khốn sản phẩm tới người lao động” là cái
đơn nhất chỉ có ở ngành sản xuất nơng nghiệp của Hải Phịng. Sau khốn 10 và

khốn 100, nó được nhân rộng và trở thành cái chung của cả nước và của mọi
ngành kinh tế.
Cái chung là bộ phận,nhưng sâu sắc hơn cái riêng, cịn cái riêng là tồn bộ
nhưng phong phú hơn cái chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngồi đặc
điểm chung ,cái riêng cịn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái
riêng phản ánh những thuộc tính ,những mối liên hệ ổn định,tất nhiên, lặp lại ở
nhiều cái riêng cùng loại .Do vậy cái chung là cái gắn liền với bản chất,quy định
phương hướng tồn tại và phát triển của cái chung.
Có thể khái quát một công thức như sau:
Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất
Cơng thức trên có thể là khơng hoàn toàn đúng một cách tuyệt đối, nhưng
trong một chừng mực nào đó thì nó có thể nói được một cách chính xác quan hệ
bao trùm giữa cái chung và cái riêng. Cái chung chỉ giữ phần bản chất, hình thành
nên chiều sâu của sự vật, còn cái riêng là cái tồn bộ vì nó là một thực thể sống
động. Trong mỗi cái riêng luôn tồn tại đồng thời cả cái chung và cái đơn nhất. Nhờ
thế, giữa những cái riêng vừa có sự tách biệt, vừa có thể tác động qua lại với nhau,
chuyển hóa lẫn nhau. Sự “ va chạm” giữa những cái riêng vừa làm cho các sự vật
xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa làm cho sự vật tách xa nhau bởi cái đơn nhất.
Cũng nhờ sự tương tác này giữa những cái riêng mà cái chung có thể được phát
hiện. Về điểm này, Lênin nói: “... Cái riêng chỉ có thể tồn tại trong mối liên hệ dẫn
tới cái chung”. Ví dụ, nguyên tử của mọi nguyên tố đều khác nhau, đều là cái “
riêng”, chúng có trọng lượng ngun tử của mình, có hố trị của mình, có điện tích
hạt nhân của mình, có cấu tạo vỏ ngun tử của mình... Nhưng tất cả những
nguyên tử đều có cái chung: trong mọi nguyên tử đều có hạt nhân, vỏ điện tử, đều
có những hạt nguyên tố; hạt nhân của mọi nguyên tử đều có thể bị phá vỡ. Chính
10


nhờ có những đặc tính chung cho mọi ngun tử mà khoa học mới có khả năng
biến nguyên tử của một nguyên tố này thành nguyên tử của một nguyên tố khác.

Nguyên tử, cũng như bất cứ hiện tượng nào khác trong thế giới khách quan, là sự
thống nhất của cái khác nhau và cái giống nhau, cái đơn nhất và cái phổ biến.
Trong những hoàn cảnh khác nhau, cái chung có thể chuyển hố thành cái
đơn nhất và ngược lại. Ví dụ: trước Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường, khoán
sản phẩm chỉ là cái đơn nhất, còn cái chung là cơ chế bao cấp; nhưng từ sau Đại
hội Đảng VI thì kinh tế thị trường lại dần trở thành cái chung, còn kinh tế tập trung
bao cấp thành cái đơn nhất, chỉ còn tồn tại trong một số ngành như an ninh quốc
phòng...
Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính tương
đối. Có những đặc điểm xét ở trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất, nhưng nếu
xét ở trong nhóm sự vật khác lại là cái chung. Ví dụ như cây cối là một đặc điểm
chung khi xét tập hợp các cây như bạch đàn, phượng vĩ, bàng… nhưng nếu xét
trong phạm vi thực vật thì cây cối chỉ là một đặc điểm đơn nhất chỉ các loại cây,
mà ngồi ra thực vật cịn có cỏ, bụi rậm, nấm... Xét một ví dụ khác, qui luật cungcầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường, nhưng trong tồn bộ các hình thức
kinh tế trong lịch sử thì nó lại chỉ là cái đơn nhất, đặc trưng cho kinh tế thị trường
mà không thể là đặc điểm chung cho mọi hình thức khác như kinh tế tự cung tự
cấp chẳng hạn.
Trong một số trường hợp ta đồng nhất cái riêng với cái chung, khẳng định
cái riêng là cái chung. Ví dụ như những câu sau: “hoa hồng là hoa”, “kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN là kinh tế thị trường”... Những trường hợp đó thể
hiện mâu thuẫn giữa cái riêng và cái chung. Quan hệ bao trùm của cái riêng đối với
cái chung đã trở thành quan hệ ngang bằng. Tuy nhiên những định nghĩa như trên
chỉ nhằm mục đích tách sự vật ra khỏi những phạm vi không thuộc sự vật ấy, chứ
không dùng để chỉ tồn bộ những đặc tính của sự vật.
Trong q trình phát triển của sự vật hiện tượng,trong những điều kiện nhất
định “cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể
11


biến thành “cái đơn nhất” ,nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo

điều kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở thành”cái chung” và
“cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.
Trên cơ sở nguyên lý về mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung, ta đã đưa ra một
số giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường của Việt nam một cách thích
hợp, cố gắng theo kịp tốc độ tăng trưởng của các nước phát triển trên thế giới, tăng
cường cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.2. Vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện chính
sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của
cặp phạm trù riêng và cái chung
Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam ln quan tâm nhằm tháo gỡ khó
khăn cho hộ nghèo về vốn cho phát triển. Ngành ngân hàng đã đặt mục tiêu tập
trung tín dụng ngân hàng vào các ngành, lĩnh vực thuộc ba khâu đột phá trong
Chiến lược phát triển kinh tế và xã hội giai đoạn 2020-2030, trong đó ưu tiên vốn
tín dụng cho sản xuất, phục vụ phát triển nơng nghiệp, nơng thơn, nơng dân.
Ngồi ra, ngành ngân hàng đã tham mưu Chính phủ các cơ chế huy động cả
hệ thống chính trị từ nhân lực đến vật lực vào cơng cuộc xóa đói giảm nghèo. Cùng
với đó là việc xây dựng chuỗi các sản phẩm tín dụng để phục vụ người nghèo theo
tiến trình phát triển của họ, hỗ trợ người dân không chỉ giảm nghèo mà cịn thốt
nghèo bền vững tại các ngân hàng.
Đến thời điểm này, nguồn vốn ngành ngân hàng đã được đưa đến 100% xã,
phường, thị trấn trên cả nước; trong đó, tập trung ưu tiên cho vay các xã vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới… Chỉ
tính riêng giai đoạn 2015 – 2019, đã có hơn 31,8 triệu lượt hộ nghèo và các đối
tượng chính sách được vay vốn từ ngành ngân hàng. Nguồn vốn này đã góp phần
giúp hơn 4,5 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo, bao phủ gần 11.000 xã trên tồn quốc.
Có thể nói, hệ thống ngân hàng là một trong những kênh chủ lực phục vụ hỗ
trợ cho người nghèo vay vốn. Đây là mô hình tín dụng đặc thù của Việt Nam khác
với các nước trên thế giới. Mơ hình tín dụng đối với người nghèo này được đánh
12



giá là một thành công lớn của Việt Nam trong cơng cuộc xóa đói giảm nghèo. Mơ
hình ngân hàng này là hiệu quả, trước hết là trên cơ sở nỗ lực của ngành ngân hàng
khi tổ chức triển khai chính sách xuống tận bản làng, tận người dân. Ngoài cơ chế
chính sách ưu đãi về lãi suất, điều kiện vay vốn, có lẽ một điều đặc biệt nhất đó là
sự chăm sóc đối với người nghèo đến từng gia đình. Cán bộ tín dụng của ngân
hàng đến trực tiếp gia đình hộ nghèo để cho vay, thu nợ, giải ngân, để hướng dẫn
sử dụng vốn hiệu quả hơn.
Không chỉ hỗ trợ thông qua cho vay trực tiếp người nghèo, ngành ngân hàng
trong cả nước cũng có những hoạt động gián tiếp hỗ trợ người nghèo như cho vay
lĩnh vực nông nghiệp nơng thơn, vùng khó khăn, có nhiều dự án chương trình đầu
tư thỏa đáng cho các dự án, các cơng trình kinh tế, các doanh nghiệp… tạo điều
kiện giải quyết công ăn việc làm cho người nghèo, tạo hạ tầng cơ sở tốt hơn, thị
trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa sản xuất ra cho người nghèo thốt nghèo bền
vững. Đây là kết quả chung hoạt động tín dụng của toàn ngành thời gian vừa qua.
Ngành ngân hàng với mục tiêu “Khơng để người nghèo bị bỏ lại phía sau”.
Bên cạnh ban hành cơ chế, chính sách tín dụng hỗ trợ người nghèo như tín dụng
chính sách, tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn, ngành ngân hàng luôn chủ
động, tích cực triển khai cơng tác anh sinh xã hội, góp phần vào sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo của các địa phương theo đúng chủ trương
của Đảng, Nhà nước và Chính phủ.
Mục tiêu hướng tới của ngành ngân hàng trong công tác an sinh xã hội trước
hết là ý thức cộng động, trách nhiệm với người nghèo, đồng thời hiện thực hóa chủ
trương của Đảng, Nhà nước là “không để một ai bị bỏ lại phía sau”. Chính vì thế,
nhiều năm qua cán bộ nhân viên trong ngành, bằng trách nhiệm cộng đồng, ý thức
với người nghèo truyền thống “lá lành đùm lá rách”, hằng năm đều dành một
khoản kinh phí đóng góp cho hoạt động an sinh xã hội. Khoản kinh phí này trước
hết từ chính nguồn đóng góp của cán bộ nhân viên bằng tiền lương của mình.

13



Trong năm 2018, hưởng ứng sự vận động của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, với tấm lòng tương thân tương ái, toàn thể cán bộ ngành ngân
hàng và cán bộ viên chức của ngành ngân hàng dành hơn 1.247 tỷ đồng triển khai
các hoạt động an sinh xã hội trên tồn quốc; trong đó, đã triển khai 960 tỷ đồng tập
trung vào một số chương trình lớn như: xóa nhà tạm, nhà dột nát vùng sâu, vùng
xa, vùng dân tộc thiểu số; hỗ trợ các hộ nghèo, hộ gia đình chính sách có hồn
cảnh khó khăn xây dựng hơn 1.600 căn nhà ở; xây dựng trường học, trạm y tế,
nâng cao điều kiện học tập, khám chữa bệnh cho người dân, đặc biệt là ở vùng sâu,
vùng xa, vùng khó khăn (79 cơng trình giáo dục, 26 trạm y tế, xe cứu thương...);
xây dựng đường, cầu dân sinh cho vùng khó khăn hoặc chịu ảnh hưởng bởi thiên
tai, bão lũ; hỗ trợ nhu yếu phẩm, đồ dùng cấp thiết, giúp người dân vùng lũ sớm ổn
định cuộc sống; hỗ trợ trẻ em nghèo, khuyết tật, trẻ em vùng sâu, vùng xa thơng
qua các chương trình tặng học bổng, tặng quà Tết, chăn, quần áo ấm...; hoạt động
đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo thương bệnh
binh, gia đình chính sách...
Hưởng ứng Tháng hành động cao điểm “Vì người nghèo” và phong trào thi
đua “Cả nước chung tay vì người nghèo – khơng để ai bị bỏ lại phía sau”, tối 1710, tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội đã diễn ra Chương trình truyền hình trực
tiếp “Cả nước chung tay vì người nghèo” năm 2018. Chương trình do Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
cùng các ngân hàng thương mại đã tham gia tích cực vào chương trình này. Cơng
đồn Ngân hàng Việt Nam đã vận động toàn thể cán bộ ngành nhắn tin ủng hộ vì
người nghèo.
Riêng ngành ngân hàng đã ủng hộ 15 tỷ đồng qua Quỹ Vì người nghèo
Trung ương để xây dựng nhà cho các hộ nghèo. Đây là một số tiền lớn, thiết thực,
đóng góp to lớn vào công cuộc giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới ở
nước ta. Thời gian tới, hưởng ứng cuộc vận động của Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, ngành ngân hàng sẽ tiếp tục đẩy mạnh các chương trình hỗ trợ tín
14



dụng, hỗ trợ an sinh xã hội đối với các đối tượng yếu thế, đặc biệt là người nghèo
để giúp họ vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống.
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
NGÀNH NGÂN HÀNG TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI
GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ GÓC ĐỘ CỦA CẶP PHẠM
TRÙ RIÊNG VÀ CÁI CHUNG
2.1. Thực trạng vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện chính sách
xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù riêng và
cái chung
* Ưu điểm
Thời gian qua ngành ngân hàng đã không ngừng đảm bảo được hiệu quả
kinh tế, xã hội cao và bền vững đối với người đi vay. Trong những năm qua, đã có
1,24 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách trên địa bàn được vay vốn từ
ngân hàng này. Trong đó, có 515.000 lượt hộ nghèo, với mức dự nợ bình qn 18,5
triệu đồng/hộ, góp phần giúp cho 960.000 hộ thoát nghèo, tạo việc làm cho
930.000 lao động; 638.0000 học sinh, sinh viên có hồn cảnh khó khăn được vay
vốn học tập; hỗ trợ xây dựng trên 47.200 ngôi nhà cho hộ nghèo, cụ thể như sau:
Tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và cận nghèo đã góp phần quan trọng vào
giải quyết vấn đề giảm nghèo. Trong khoảng 5 năm, từ nguồn vốn tín dụng đã giúp
cho 11,24 triệu lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo được vay vốn để sản xuất.
Năm 2020, ngành ngân hàng đã cấp tín dụng ưu đãi cho 42.000 hộ nghèo,
dư nợ bình quân đạt 114,7 triệu/hộ; tăng thêm 11,7 triệu/hộ so với năm trước. Giải
quyết vấn đề thiếu vốn sản xuất kinh doanh, ngành ngân hàng đã góp phần quan
trọng trong giảm nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 2,66% cuối năm 2013 xuống còn
1,91 vào cuối năm 2018. Theo đánh giá của ngành ngân hàng, từ nguồn vốn chính
sách xã hội được giải ngân trong 5 năm qua đã góp phần tích cực trong việc thực
hiện mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ
6,09% năm 2015 xuống còn 1,91% năm 2019; đồng thời, đã giúp cho các đối

15


tượng chính sách có điều kiện tự lực vươn lên, tạo việc làm, nâng cao đời sống, thu
nhập, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn thành phố [4, tr.120].
Tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác đã góp
phần nâng cao trình độ dân trí và khả năng tiếp cận giáo dục của người dân thơng
qua chương trình tín dụng cho học sinh, sinh viên. Trong 5 năm qua, từ nguồn vốn
tín dụng đã hỗ trợ cho 738 nghìn sinh viên có hồn cảnh khó khăn được vay vốn học
tập. Riêng năm 2018, ngành ngân hàng đã góp phần trang trải chi phí học tập cho
31.000 lượt sinh viên. Nguồn vốn tín dụng ưu đãi của ngành ngân hàng đã góp phần
quan trọng trong hỗ trợ giải quyết việc làm cho người dân, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Trong các năm qua, số trường hợp được hỗ trợ vốn vay giải quyết việc làm
ngày càng gia tăng. Cụ thể, năm 2015, số trường hợp khách hàng được vay vốn là
92.100; ngành ngân hàng góp phần tạo thêm 66.700 việc làm cho lao động. Ngồi
ra, ngành ngân hàng cịn cấp tín dụng ưu đãi cho các đối tượng chính sách đi lao
động ở nước ngồi có thời hạn. Nguồn vốn tín dụng này đã góp phần giúp cho các
đối tượng chính sách có thể tìm kiếm cơ hội việc làm ở thị trường nước ngồi.
Ngành ngân hàng đã góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngồi
các hình thức cấp tín dụng chủ yếu cho hộ nghèo, đối tượng chính sách và học
sinh, sinh viên, ngành ngân hàng cịn cấp tín dụng cho các hình thức cho vay hộ
sản xuất kinh doanh vùng khó khăn, cho vay dự án chăn ni bò sinh sản hay cho
vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay thương nhân vùng khó khăn.
* Hạn chế
Hình thức hoạt động tín dụng chưa thực sự phong phú, đa dạng. Mặc dù
phấn đấu đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của đối tượng vay vốn nhưng chủ yếu là
cho vay một số chương trình cơ bản dành cho hộ nghèo, cận nghèo… Cơ cấu tín
dụng của ngành ngân hàng cịn chủ yếu tập trung vào một số chương trình tín dụng
ưu đãi như đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, học sinh, sinh viên… các hình thức tài
trợ tín dụng ưu đãi cịn tương đối hạn chế. Chính vì vậy, trên thực tế vốn tín dụng

ưu đãi của ngành ngân hàng chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu vay vốn đa dạng
của người dân.
16


Hình thức cấp tín dụng ưu đãi cho đối tượng chính sách đi làm việc có thời
hạn ở thị trường nước ngồi cịn hạn chế. Mặc dù đây là giải pháp vừa góp phần
giảm tỷ lệ thất nghiệp, vừa tạo điều kiện cho đối tượng chính sách có thu nhập cao
hơn và gia tăng nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia nhưng dư nợ tín dụng cịn thấp. Số
trường hợp được cấp tín dụng cịn ít, chưa đáp ứng nhu cầu của người dân.
Các hình thức cho vay ưu đãi thúc đẩy sản xuất kinh doanh khác của ngành
ngân hàng còn hạn chế như cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay thương
nhân vùng khó khăn…. Mặt khác, khi cấp tín dụng thì hiệu quả sử dụng vốn của
các đối tượng này cũng khơng cao. Việc cấp tín dụng cho vay chương trình nước
sạch và vệ sinh mơi trường, cho vay hỗ trợ về nhà ở đối với hộ nghèo còn hạn chế,
chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của người dân.
Hiệu quả xã hội trong hoạt động cho vay ưu đãi của ngành ngân hàng vẫn
còn hạn chế, chưa bền vững. Mặc dù tín dụng ưu đãi của ngành ngân hàng đã góp
phần quan trọng vào cơng tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn.
Đối tượng hộ mới thoát nghèo hiện nay rất nhiều nhưng tiếp cận nguồn vốn chính
sách cịn hạn chế dẫn đến nguy cơ tái nghèo, tái cận nghèo, công tác giảm nghèo
còn chưa đảm bảo bền vững. Mặt khác, thời gian vay vốn phát triển sản xuất kinh
doanh của hộ nghèo chưa thực sự phù hợp. Thời gian vay vốn của hộ nghèo ngắn,
nên khi thoát khỏi thực trạng hộ nghèo họ dễ dàng bị tái nghèo.
2.2. Giải pháp phát huy vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện
chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm
trù riêng và cái chung
Xóa đói giảm nghèo là trách nhiệm của chung tồn xã hội, của cả Đảng, Nhà
nước. Đó là trách nhiệm chung (cái chung). Tuy nhiên, từng ngành, từng lĩnh vực,
thực hiện vai trị xóa đói giảm nghèo là cái riêng, trong đó ngành ngân hàng ln

đóng vai trị tích cực. Vận dụng quy luật cái riêng, cái chung trong phát huy vai trị
của ngành ngân hàng trong xóa đói giảm nghèo cần thực hiện các giải pháp sau:
Một là, Có nhiều biện pháp để huy động nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu
vốn cho vay
17


Xuất phát từ thực trạng các năm qua, quy mô cấp tín dụng cho hộ nghèo cịn
thấp cả về số lượng hộ nghèo được tiếp cận vốn vay lẫn mức cho vay của từng hộ.
Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này là do nguồn vốn của ngành ngân hàng
còn hạn chế, nên chỉ cấp tín dụng trong một nguồn lực giới hạn. Để mở rộng hoạt
động cho vay hộ nghèo thì rõ ràng cần thiết phải tăng cường vốn huy động. Giải
pháp này là giải pháp quan trọng hàng đầu trong gia tăng về quy mơ tín dụng cho
hộ nghèo và đối tượng chính sách khác.
Tăng cường huy động vốn, đặc biệt là tiền gửi có lãi suất thấp hoặc tiền gửi
không lấy lãi của các tổ chức, cá nhân làm từ thiện, tiếp cận với nguồn vốn của các
tổ chức quốc tế, vốn tiền gửi ký quỹ của các nhà đầu tư để có vốn lãi suất thấp bổ
sung nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Tuy nhiên muốn
tạo lập nguồn vốn bền vững cho hệ thống ngành ngân hàng thì nguồn vốn chủ yếu
phải có nguồn gốc từ ngân sách, vốn tài trợ ODA, vốn vay nước ngồi có lãi hoặc
khơng lãi… ngành ngân hàng chỉ huy động vốn theo lãi suất thị trường sau khi đã
huy động tối đa các nguồn vốn không phải trả lãi hoặc huy động với lãi suất thấp,
vì ngành ngân hàng khơng thể thực hiện phương châm “đi vay để cho vay”.
Công cuộc giảm nghèo là sự nghiệp của tồn Đảng tồn dân, địi hỏi sự huy
động tổng hợp các nguồn lực tài chính để thực hiện nhiệm vụ đặt ra. Nguồn vốn
ngân sách vẫn được xác định là nguồn vốn đóng vai trị quan trọng tuy nhiên cũng
cần phải huy động thêm các nguồn lực tài chính khác của các thành phần kinh tế,
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để cùng thực hiện tốt nhiệm vụ này.
Để thực hiện các chính sách thì nhu cầu vay vốn trung, dài hạn sẽ ngày càng
tăng. Bởi vậy, phải coi trọng hình thức huy động vốn bằng trái phiếu trung, dài hạn

được chuyển nhượng và có sự bảo lãnh của Chính phủ hoặc của ngành ngân hàng.
Phía khác ngành ngân hàng phải quan tâm làm các dịch vụ, trong đó có dịch vụ
thanh tốn, để có được loại tiền gửi khơng kỳ hạn gần như khơng phải trả lãi suất
đầu vào và khó có một giá thành nguồn vốn thấp để cho vay ưu đãi.
Ngành ngân hàng phải mở rộng hình thức thu nhận tiền gửi của các tầng lớp
dân cư, trong cộng đồng người nghèo để tạo lập nguồn vốn của mình phục vụ nhu
18


cầu vay vốn của các đối tượng chính sách. Kinh nghiệm một số nước ngoài tiền
gửi tự nguyện của người nghèo còn quy định người nghèo vay vốn phải gửi tiết
kiệm bắt buộc hàng tháng một số tiền nhất định, hoặc theo một tỷ lệ nào đó so với
số tiền vay. Qua đó, tạo ý thức tiết kiệm cho những người nghèo xưa nay chưa có
thói quen tiết kiệm, tạo nguồn trả nợ, tạo ra sự gắn bó trách nhiệm với tổ vay vốn.
Nếu có cơ chế nghiệp vụ ràng buộc, có chính sách khuyến khích thì chắc chắn đây
cũng là một nguồn vốn hỗ trợ cho ngành ngân hàng tăng thêm khả năng hoạt động.
Một ngân hàng lớn mạnh và bền vững bao gồm nhiều yếu tố, nhưng yếu tố đầu tiên
và quyết định bao giờ cũng là sự phát triển và mở rộng nguồn vốn, vì thế tạo điều
kiện trong việc tập trung, huy động nguồn vốn cho ngân hàng này có ý nghĩa thiết
thực đến sự tồn tại và phát triển của nó.
Tập trung nguồn vốn ủy thác của Nhà nước, của các tổ chức tài chính quốc
tế vào ngành ngân hàng. Để có thể khơi tăng nguồn vốn thường có lãi suất ưu đãi
này, ngành ngân hàng cần phải:
Thực hiện tốt cho vay hộ nghèo từ các nguồn vốn tài trợ ủy thác theo các
chương trình dự án. Phối hợp với các Bộ, ngành, đoàn thể xây dựng các chương
trình dự án giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn khả thi để thu hút
nguồn vốn tài trợ trong và ngoài nước.
Cùng với các cơ quan, đoàn thể, tổ chức, hiệp hội trong nước kêu gọi và ký
kết các hiệp định vay vốn thông qua việc đầu tư vốn vào các dự án thử nghiệm, tài
trợ kỹ thuật, đào tạo nhân viên trong hệ thống ngành ngân hàng.

Hai là, Mở rộng đối tượng cho vay để góp phần xóa đói giảm nghèo
Giải pháp này đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả
xã hội của hoạt động cho vay hộ nghèo hiện nay. Giải pháp này giúp cho việc giảm
nghèo từ vốn vay của ngành ngân hàng bền vững và hiệu quả hơn.
Việc mở rộng đối tượng hộ nghèo vay vốn cần được triển khai để tất cả các
hộ nghèo cần vốn kinh doanh thoát nghèo được tiếp cận nguồn vốn vay, các hộ cận
nghèo cũng nên có chính sách ưu đãi. Tuy nhiên việc mở rộng phải đi đôi với kiểm
sốt để khơng có tình trạng người khơng diện hộ nghèo vẫn vay được vốn ưu đãi.
19


Hiện nay vẫn còn nhiều hộ cận nghèo, tuy nhiên số đối tượng này không đủ
điều kiện để được vay vốn ưu đãi từ ngành ngân hàng. Đồng thời, họ cũng không
đủ điều kiện để tiếp cận với nguồn vốn của các ngân hàng thương mại. Do vậy,
ngành ngân hàng đã đề xuất với cấp có thẩm quyền cho phép đối tượng này được
vay vốn ưu đãi để đầu tư sản xuất. Theo quy định hiện hành, hộ cận nghèo khơng
thuộc đối tượng vay vốn của ngành ngân hàng. Cịn đối với các ngân hàng thương
mại, muốn vay được vốn buộc phải có thế chấp hoặc chứng minh được năng lực tổ
chức sản xuất để đảm bảo khả năng trả nợ thì mới đủ điều kiện tiếp cận vốn.
Qua đó, giúp cho hộ cận nghèo được tiếp cận với vốn của ngân hàng để làm
ăn, phát triển cuộc sống, không rơi vào tình trạng tái nghèo. Cịn đối với ngành
ngân hàng phục vụ thêm đối tượng này cũng không ảnh hưởng đến chi phí hoạt
động của ngân hàng. Ngồi được ưu đãi về lãi suất thấp, các hộ cận nghèo nếu được
vay vốn từ ngành ngân hàng còn được hưởng những ưu đãi đặc biệt mà không ngân
hàng thương mại nào đáp ứng được. Đó là ưu đãi về cách thức cho vay.
Cụ thể, vay vốn từ ngành ngân hàng, người dân được nhận ưu đãi lớn nhất là
vay mà không phải thế chấp tài sản; đồng thời, thủ tục vay vốn người dân sẽ được
các tổ, nhóm, hội, đồn thể giúp. Một ưu đãi khác mà người dân được hưởng là
cách xử lý nợ, cũng như cách kết hợp vừa cho vay vốn, vừa hướng dẫn làm ăn.
Đặc biệt là ưu đãi bằng cách cho người dân vay vốn tại xã, do đó chi phí vay vốn

của người dân rất thấp và người dân khơng phải lo gì cả. Bởi vì, để được vay vốn
ngành ngân hàng, người dân chỉ mất công đi lại 2 lần. Lần thứ nhất đến họp tổ tại
thơn để bình xét, sau đó các tổ chức chính trị - xã hội giúp làm thủ tục. Lần thứ hai
người dân đem theo giấy hẹn để đến xã nhận tiền, hàng tháng có người đến tận nhà
thu lãi.
Tổ chức họp các đối tượng vay vốn thuộc diện thụ hưởng các chính sách tín
dụng có ưu đãi của Chính phủ. Thơng báo và phổ biến các chương trình chính sách
tín dụng có ưu đãi của Chính phủ đến hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Cần đa dạng hóa cho vay tất cả các ngành nghề, đặc biệt là ngành nghề thủ công

20


truyền thống. Quan tâm nhiều hơn đến vùng khó khăn như miền núi, hải đảo để hộ
nghèo thật sự tiếp cận được nguồn vốn vay.
Việc tạo thuận lợi trong giao dịch đối với hộ nghèo và các đối tượng chính
sách là vấn đề rất quan trọng để giúp người vay tiếp cận dễ dàng với các dịch vụ
vay vốn cũng như là hoàn trả nợ vay cho ngành ngân hàng. Vì vậy, cần tiếp tục
tổng kết kinh nghiệm mơ hình hoạt động Điểm giao dịch xã và hoàn thiện các quy
trình uỷ nhiệm thu lãi, quy trình giao dịch lưu động, đồng thời tăng cường đầu tư
phương tiện làm việc cho tổ giao dịch lưu động như ô tô, máy vi tính xách tay…
từng bước chun mơn hố để phục vụ hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác
một cách tốt hơn, chuyên nghiệp hơn. Tại các Điểm giao dịch xã phải có biển hiệu,
nội quy giao dịch, lịch giao dịch hàng tháng, hàng quý được niêm yết công khai.
Tài sản, tiền bạc trong quá trình giao dịch tại các Điểm giao dịch xã phải được bảo
vệ an toàn tuyệt đối.
Nhu cầu vốn cho vay đối với hộ nghèo rất phong phú và đa dạng tuỳ thuộc
vào điều kiện và khả năng canh tác của từng vùng và của từng địa phương. Đối với
các hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc… mà điều kiện cơ sở hạ
tầng thấp và hầu như chưa có, điều kiện sinh hoạt rất khó khăn, đất đai canh tác ít,

trình độ thâm canh thấp, chủ yếu thực hiện việc chăm bón theo thời vụ hoặc theo
từng cơng đoạn của cây trồng theo kinh nghiệm cổ truyền. Họ ít chú trọng đến việc
thâm canh, đầu tư chiều sâu. Do đó, vốn đầu tư vào sản xuất của hộ nghèo còn ở
mức thấp. Nhưng về lâu dài, khi năng lực sản xuất, kỹ thuật thâm canh của hộ
nghèo tăng lên thì ngân hàng cũng cần phải nâng mức cho vay tối đa đối với một
hộ nghèo tăng lên, khắc phục tình trạng cho vay có tính cân bằng, thời gian cho
vay không phù hợp với khả năng trả nợ của người vay. Về lâu dài đối với những
đối tượng này có thể nâng mức cho vay tối đa một hộ nhưng kèm theo đó cũng cần
có những điều kiện nhất định như phải có dự án cụ thể, phải nằm trong vùng quy
hoạch kinh tế trên địa bàn, phải có cấp có thẩm quyền phê duyệt…
Hộ nghèo và hộ chính sách phần lớn cư trú ở những vùng sâu, vùng xa do
phương tiện đi lại, thơng tin liên lạc khó khăn tốn kém, số tiền vay không lớn, chưa
21


làm quen với thủ tục giấy tờ hành chính do đó để tạo điều kiện cho hộ nghèo, hộ
chính sách dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn cho vay trước hết ngân hàng phải thực
hiện nghiêm túc việc giao dịch tại xã phường, để người dân thuận tiện đi lại.
Ngành ngân hàng cần phối hợp với chính quyền địa phương, các cơ quan
chun mơn xây dựng mơ hình dự án vùng, tiểu vùng phù hợp với chủ trương phát
triển kinh tế của địa phương gắn với khoa học, kỹ thuật, lồng ghép hoạt động tín
dụng ưu đãi của ngành ngân hàng với các chương trình khuyến nơng, khuyến ngư,
chuyển giao khoa học kỹ thuật,… cũng như các chương trình mang tính xã hội
khác như: kế hoạch hố gia đình, bình đẳng giới... để hướng dẫn hội viên sản xuất
kinh doanh theo nền kinh tế thị trường.
Ba là, Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay đối với hộ nghèo và đối tượng
chính sách khác
Giải pháp này có vai trị rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn vay đối với hộ nghèo và đối tượng chính sách khác vì vừa đảm bảo hiệu quả
kinh tế cho ngành ngân hàng, giúp ngành ngân hàng bảo toàn được vốn, vừa đảm

bảo hiệu quả đối với người sử dụng vốn vay lại vừa đảm bảo hiệu quả đối với xã
hội trong giảm nghèo bền vững.
Ngành ngân hàng cần tiếp tục thực hiện phương thức cho vay ủy thác từng
phần qua các tổ chức đồn thể chính trị xã hội. Phối hợp với chính quyền địa
phương cấp xã thực hiện tốt “biên bản thỏa thuận về việc phối hợp thực hiện các
chương trình tín dụng chính sách”. Thực hiện nghiêm túc quy trình cho vay hộ
nghèo và các đối tượng chính sách khác theo quy định của ngành ngân hàng, giải
ngân kịp thời vụ khơng để thất thốt, gây lãng phí vốn. Công tác xử lý nợ bị rủi ro
nên thực hiện kịp thời.
Đại bộ phận hộ nghèo và các đối tượng chính sách đều cư trú ở nơng thơn,
miền núi, vùng sâu vùng xa, nơi có mơi trường sản xuất kinh doanh không thuận
lợi, lại chịu sự tác động lớn của diều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Chính vì vậy, để
đồng vốn tín dụng đầu tư cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác phát huy

22


×