Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.78 KB, 5 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>SINH HOẠT NGÀY XUÂN CỦA NGƯỜI VIỆT XƯA </b>
<b>QUA MỘT SỐ TÀI LIỆU</b>
(Biện Quốc Trọng_Khoa Sư phạm_Trường ĐH Bạc Liêu, SĐT: 0916960873)
Thực tế, tài liệu nghiên cứu các lễ hội truyền thống, trong đó có Tết cổ truyền, ở
nước ta nhiều và đa dạng. Tuy nhiên, khi đặt câu hỏi về đặc điểm một cái Tết Việt
trong những thế kỉ trước và xa hơn nữa không dễ trả lời. Trong giới hạn những gì đã
tìm hiểu, người viết chỉ xin được điểm qua những gì đã ghi nhận được trong sinh hoạt
ngày xuân của người Việt theo một số tài liệu.
<b>Thời đại các vua Hùng…</b>
Sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp viết vào thời Trần (1225 – 1400),
được Vũ Quỳnh, Kiều Phú nhuận sắc năm Hồng Đức thứ 23 (1492) và 24 (1493) có
chép truyền thuyết về bánh chưng (Truyện bánh chưng). Trong truyện này, chúng ta
chú ý tình tiết: Vua Hùng phán: Ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý, cuối
<i>năm nay mang trân cam mĩ vị đến để tiến cúng vua cha cho ta được tròn đạo hiếu thì</i>
<i>ta sẽ truyền ngơi[5, 57]. Trong số lễ vật các quan lang dâng lên, vua Hùng đã chọn</i>
bánh chưng và bánh dầy của Lang Liêu: (…)Đến ngày Tết, vua lấy bánh này [bánh
chưng, bánh dầy] dâng cúng cha mẹ[5, 58]. Đối với ngài, đó là hai lễ vật cao quí nhất
trong những lễ vật. Như vậy, theo truyền thuyết, rõ ràng từ thời các vua Hùng, nhân
dân ta đã có tục ăn Tết, vào ngày Tết, con cháu dâng cúng tổ tiên những lễ vật ý nghĩa.
Tình tiết vua Hùng chọn bánh chưng, bánh dầy dâng cúng cha mẹ cho thấy Tết của
dân tộc ta từ sở nguồn đã gắn liền với chữ Hiếu và hoạt động nông nghiệp. Bánh
chưng, bánh dầy, hai phẩm vật tượng trưng cho thành quả lao động nông nghiệp, trở
thành lễ vật thiêng liêng trong mọi lễ nghi của người Việt. Dù các nhà Nho triều Lê đã
phủ lên lễ hội dân gian một lớp phấn son chính trị, chúng ta vẫn chắc chắn khái niệm
về một Tết (Tiết) Việt đã có ít nhất từ trước thế kỉ 15.
Hơn một ngàn năm Bắc thuộc, những giá trị văn hoá thời Văn Lang – Âu Lạc
đã rơi rụng đi nhiều. Nhưng khơng có nghĩa là cháu con khơng thể nhìn mặt ơng cha
Theo huyền sử, từ thời kì dựng nước dân tộc ta đã có Tết. Điều này đã khẳng
định nguồn gốc bản địa về phong tục ăn Tết của người Việt Nam. Cái Tết buổi đầu của
dân tộc đã có dáng dấp của hai yếu tố lễ và hội, đã đặt nền móng vững chắc hình thành
cốt cách con người Việt Nam: trọng nông và trọng hiếu.
<b>Thời đại Đại Việt…</b>
Các vua nhà Lý, ai cũng chuộng giáo lí nhà Phật. Vào mùa xuân, chùa tháp thường
được tổ chức dựng xây. Khơng khí sinh hoạt mùa xn, vì thế, cũng đậm tinh thần
Phật giáo. Đại Việt sử lược đã viết: [Năm Long Thuỵ Thái Bình thứ 4, 1057] mùa
<i><b>xuân, tháng ba [vua Lý Thánh Tông] xây bảo tháp Đại Thắng Tự Thiên ở chùa Sùng</b></i>
<i>Khánh Báo Thiên cao hai trượng. [Thợ] xây tháp ấy cao ba tầng[6, 144]. Một cái Tết</i>
trong niềm vui mừng chốn an lạc được tơn tạo trang nghiêm góp phần tạo một khơng
khí hồ bình trên đất nước vừa bước ra khỏi lầm than, mở đầu một năm lao động mới
hăng say có thể là một nét riêng trong sinh hoạt ngày xuân thời Lý.
Trọng nông vẫn là việc làm được ưu tiên số một mỗi khi năm mới bắt đầu của
các hoàng đế Đại Việt nhà Lý. Thời đại các vua Hùng, chúng ta chỉ mới biết tinh thần
trọng nông của tổ tiên ta qua huyền sử. Đến đây, tinh thần ấy đã được biểu hiện cụ thể
Đi cày ruộng đầu xuân đã trở thành truyền thống của các triều đại phong kiến
Việt Nam. [Năm] Quí Tị, năm Hồng Đức thứ tư [1473], mùa xuân, tháng giêng, vua
[Lê Thánh Tông] thân đi cày ruộng tịch điền và đốc suất các quan cày[4, 671]. [Năm]
<i>Quí Hợi, năm Cảnh Thống thứ sáu [1503], mùa xuân, tháng giêng, ngày mùng tám,</i>
[vua Lê Hiển Tơng] có sắc chỉ dụ cho bọn Thanh Hoa tán trị thừa tuyên xứ ti tham
<i>nghị Dương Tĩnh rằng: Ta rất lưu ý việc nhà nông, ngươi coi binh dân phải hết sức.</i>
[Việc] đi thăm nom không được lười biếng; chứa tháo nước phải theo thì[4, 755].
Dưới thời các vua Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, đất nước bắt đầu rối loạn song lệ đi cày
ruộng tịch điền vẫn được tiến hành vào mùa xuân hàng năm như một nghi lễ bắt buộc
của các đế vương Việt Nam. Theo Toàn thư, trong tháng giêng, năm 1473, ngoài thân
<i>đi cày ruộng tịch điền và đốc suất các quan cày, vua Lê Thánh Tơng cịn tiến hành lễ</i>
tế giao cầu mưa thuận gió hồ, quốc thái dân an. Lễ này, đến thời Nguyễn (1802 –
1945) đã thành quốc lễ với những nghi thức có tính qui củ.
<i>Mùa xn là Tết trồng cây /Làm cho đất nước càng ngày càng xuân. Lời dạy</i>
của Bác đã trở thành nét đẹp văn hoá mỗi độ Tết đến xuân về. Một mạch nước ngầm
đã chảy từ tư tưởng cổ nhân đến tư tưởng vị cha già dân tộc. Đại Việt sử lược ghi rõ:
[Năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ bảy, 1126] mùa xuân, tháng giêng, [vua Lý Nhân Tông]
Thánh Tông] định lệ tế tại Văn miếu ở các trấn, lộ, dùng hai ngày đinh mùa xuân,
<i>mùa thu, chỉ tế mười vị hiền triết thơi[4, 625]. [Năm] Bính Thân, năm Hồng Đức thứ</i>
<i>bảy [1476], mùa xuân, tháng hai, vua thân ngự đến nhà Thái học, sai các văn thần</i>
<i>chia nhau tế ở đông vu và tây vu[4, 676]. Đối với một vị vua anh minh như Lê Thánh</i>
Tông, mùa xuân là mùa hiền tài như hoa nở rộ, tế tự các đấng tiên hiền của đạo Nho
chính là cách để cầu mong sẽ có nhiều hiền tài ra hộ quốc an dân. Hành động này phát
triển mạnh mẽ vào triều đại tiếp theo. Từ khi Mạc Đăng Dung lên ngơi (1527) đến hết
thời trị vì của Mạc Mậu Hợp (1593), chưa đầy bảy mươi năm, dù luôn luôn bị đe doạ
bởi lực lượng Nguyễn – Trịnh nhưng nhà Mạc đã tổ chức thành thông lệ cứ ba năm
một lần thi Hội để tuyển chọn nhân tài, một điều mà ngay cả trong thời kì thái bình
nhà Lê chưa thực hiện được. Đặc biệt, hầu hết các kì thi này đều diễn ra vào mùa xuân,
như các năm 1538, 1541, 1544, 1547,… 1577, 1580, 1583 và 1586. Không phải ngẫu
nhiên mà họ Mạc chọn mùa xuân làm mùa tuyển chọn nguyên khí của quốc gia. Mùa
xuân là mùa vạn vật sinh sôi, nảy nở, là thời khắc bắt đầu của mọi sự bắt đầu. Đó là
một quan niệm đẹp bắt nguồn từ qui luật vận hành của vũ trụ, con người. Mùa xuân,
mùa thi, mùa trăm hoa khoe sắc, mùa tài năng nở rộ. Thật tinh tế biết bao trong cách
người xưa cầu hiền khuyến sĩ !
Có một chi tiết trong Đại Việt sử kí tồn thư rất đáng lưu tâm. [Năm 1473,]
<i><b>mùa xuân, tháng giêng, vua [Lê Thánh Tơng] cấm uống rượu(…)[4, 671]. Và [Năm]</b></i>
<i>Q Mão, năm Hồng Đức thứ mười bốn [1483], mùa xuân, tháng giêng, ngày mười</i>
<i>ba, cấm yến tiệc công làm cỗ bàn vượt lễ[4, 694]. Theo sử, bấy giờ chuyện tiệc tùng</i>
quá chén ở nước ta đặc biệt vào ngày Tết đã làm cho nhà vua nghĩ đến sự bất ổn có thể
gây ra cho xã hội nên ngài đã cấm uống rượu. Yến tiệc linh đình của quan lại trong
những ngày đầu xuân đã được vua Lê Thánh Tông ra lệnh cấm từ bấy. Đến thời
Nguyễn, lại có lệnh cấm trong quan lại lẫn thứ dân uống rượu quá đà. Những tệ hại do
Sử cũ của ta thường ghi chép theo dạng biên niên, có việc mới chép, chỉ chép
việc liên quan đến triều đình, nhà vua, khi loạn lạc, việc biên chép lại càng ít. Tìm câu
trả lời về sinh hoạt dân gian trong ngày xuân không dễ, song may mắn thay, các nhà
thơ thời Lê Sơ đã giúp con cháu tìm được nét đẹp hiếm hoi ấy: Bốn cột lang nha cắm
<i>để chồng /Ả thì đánh cái, ả thì ngong./ Tế hậu thổ khom khom cật ?/Vái hoàng thiên</i>
<i>ngửa ngửa lòng./ Tám bức quần hồng bay phấp phới/ Hai hàng chân ngọc đứng song</i>
<i>song./ Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy/ Nhổ cột đem về lỗ bỏ không. Họ đã vơ tình</i>
lưu lại hình ảnh những nam thanh nữ tú vui xuân, chơi đánh đu trong bài thơ Cây đánh
<i>đu này. Trò chơi dân gian đánh đu đến nay vẫn tồn tại trong nhiều lễ hội ở miền Bắc.</i>
<b>Tết ở Nam bộ xưa …</b>
thể hiện nhưng nó vẫn là những câu hát mộc mạc, vui tươi cầu cho gia đạo bình an,
làm ăn xi chèo mát mái trong năm mới.
Công việc chuẩn bị ngày tết ở Nam bộ xưa cũng nằm trong truyền thống dân
tộc. Cũng dựng niêu, mua sắm, trang trí nhà cửa, bàn thờ gia tiên, dán câu đối đỏ,…
Riêng cúng kì yên trong tiết trời ấm áp đầu xuân lại là một nét đặc sắc chỉ có ở Nam
bộ. Có nhiều nghi thức đón Tết ngày xưa bây giờ khơng cịn nữa: (…)Bắt đầu giờ
<i>Dần ngày nguyên đán phải dậy thắp hương đèn và dâng nước trà lễ bái tổ tiên, rồi lạy</i>
<i>bái người tôn trưởng, chúc tụng phúc lành tân xuân phúc thọ và đặt cỗ bàn dâng lên</i>
<i>cúng tổ tiên[3, 7-8]. Ngày nguyên đán cúng tổ tiên có người trần thiết cây mía đủ cả</i>
<i>gốc ngọn(…), tục truyền rằng cây mía là để tổ tiên dùng làm cây gậy chống đi khi già</i>
<i>yếu(…)[3, 10]. Các lễ tiết ấy bây giờ có phần đơn giản hơn. Một lần nữa truyền thống</i>
uống nước nhớ nguồn làm đầu của dân tộc ta lại được thể hiện rõ trên trang viết của họ
Trịnh. Ở Gia Định, tháng cuối năm, con cháu thường lo tỉnh tảo bồi đắp phần mộ tổ
<i>tiên, việc ấy vâng theo quốc điển, bởi vì gần Tết nguyên đán, nhà cửa mọi người cịn</i>
<i>lo chỉnh sức đàng hồng huống chi lẽ con cháu thờ người chết cũng như thờ người</i>
Tính cách hào sản của người Nam bộ xưa đã được nói nhiều trong ca dao. Lần đầu
tiên tính cách ấy được khắc hoạ một cách đậm nét trên trang viết của nhà Nho: Ở Gia
<i>Định, khách đến nhà đầu tiên gia chủ dâng trầu cau, sau dâng cơm bánh tiếp đãi</i>
<i>trọng hậu, không kể người thân sơ, quen lạ, tông tích ở đâu, ắt đều thâu nạp khoản</i>
<i>đãi [3, 12].</i>
Trong những trò chơi dân dã ngày Tết ở Nam bộ xưa, tác giả chú ý hơn cả đến trò
đánh đu và vân xa thu tiên. Tết nguyên đán có cuộc chơi đánh đu(…). Cuộc chơi ấy có
<i>người hiếu sự, treo những khăn, quạt, tiền bạc để làm giải thưởng(…), ai leo lên cao</i>
<i>đến chỗ treo giải thưởng ấy, lẹ tay lấy được, khoe tài là xuất chúng[2, 8-9]. Thật thú vị</i>
nếu đặt trị đánh đu được ghi trong Thơng chí với bài thơ Cây đánh đu bên cạnh nhau.
Đến đây, chúng ta có thể nói rằng trị chơi đánh đu ngày xn ở Nam bộ xưa đã có
trước đó ít nhất ba trăm năm. Lại nói đến trị vân xa thu tiên (đánh đu tiên). Trị này có
ba loại, tác giả nói tỉ mĩ về loại đầu tiên. Theo như ghi chép của Trịnh Hoài Đức, để
chơi đánh đu tiên, cần có tám người phụ nữ xinh đẹp ngồi lên tám vị trí trên một bánh
xe như bánh xe nước, khi bánh xe quay trông thấy y phục phi phất như bầy tiên bay
<i>múa trong mây núi rất đẹp mắt. Cuộc chơi này khởi sự từ buổi mai nguyên đán cho</i>
<i>đến đêm rằm tháng giêng mới thôi[2, 9]. Đời sống vật chất có lẽ khơng sung túc, đủ</i>
đầy theo cách nhìn của người đời nay, nhưng những thú tiêu khiển ngày xn của ơng
cha mình có lẽ con cháu phải học tập nhiều.
<b>Tết Việt đầu thế kỉ hai mươi…</b>
Tục này chúng ta theo tục của người Hoa. Tuy nhiên đối với họ, trước đây, tục này có
ý nghĩa trừ đuổi tà ma, còn đối với chúng ta, nó chẳng qua là để khơng khí ba ngày Tết
thêm rộn rã, tưng bừng. Bây giờ không đốt pháo nữa nhưng khơng vì thế mà mất đi
phong vị ngày Tết là mấy, chúng ta còn rất nhiều mĩ tục phải thực hiện trong những
Đầu thế kỉ trước, giữa lúc Tây Tàu nhố nhăng, nhiều lề thói tạp nham ùa vào
nước ta. Trong hồn cảnh đó, một lần nữa lại thấy rõ tính cách dân tộc Việt Nam:
Những gì khơng thể tiếp nhận, dung hồ, lúc đầu có thể thao túng ở đâu đó, nhưng sẽ
sớm bị đào thải. Dựng niêu ý nghĩa lắm chứ, mỗi tội hơi rườm rà mà phải hưu trí dần,
thờ một vị thần nhân xa lạ, chẳng có cơng trạng gì với đất nước đã là quá lắm huống
hồ phải treo bức hoạ của ông ta trong cả ba ngày Tết, rất may, việc đó đã rũ xương,
khơng cịn ám mắt con cháu hôm nay. Nhiều tục lệ phiền phức, vô vị thậm chí mê tín
mà cụ Phan đã phê phán hồi đầu thế kỉ trước, ngày nay khơng cịn nữa. Những trị tiêu
khiển ngoại lai không phù hợp thuần phong mĩ tục của dân tộc cũng đã tự tiêu biến.
Những gì đã trình bày trên đây chỉ là những phác thảo đầu tiên để những ai
quan tâm nghiên cứu kĩ lưỡng hơn. Nghiên cứu để giúp thế hệ hơm nay có cái nhìn rõ
ràng về diện mạo một cái Tết xưa của ông cha, để học tập ông cha thiết nghĩ cũng là
một việc làm ý nghĩa.
<b>Tài liệu tham khảo:</b>
1. <b>Phan Kế Bính (1999). Việt Nam phong tục, Nxb Hà Nội, Hà Nội;</b>
2. <b>Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên (phiên âm, chú giải, giới thiệu, 1982).</b>
<i>Hồng Đức quốc âm thi tập, Nxb Văn học, Hà Nội;</i>
3. <b>Trịnh Hoài Đức (1972). Gia Định thành thơng chí, Nha Văn hố_Phủ quốc vụ</b>
khanh đặc trách văn hố, Sài Gịn;
4. <b>Ngơ Sĩ Liên (2009). Đại Việt sử kí tồn thư, Nxb Văn hố – Thơng tin, Hà Nội;</b>
5. <b>Vũ Quỳnh, Kiều Phú (1990). Lĩnh Nam trích quái, Nxb Văn học, Hà Nội;</b>
6. <b>Nguyễn Gia Tường (dịch, 1993). Đại Việt sử lược, Nxb Thành phố Hồ Chí</b>