Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Vo chong A Phu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.05 KB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích tác phẩm vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi</b>


Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài
năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây Bắc" (1953) của Tơ Hồi. Trong
chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952) Tơ Hồi đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở
với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tơ Hồi tìmđược cảm hứng để viết truyện
này. Tơ Hồi thành cơng trong “Vợ chồng A Phủ” khơng chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà
cịn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa.


Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tơ Hồi đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng
chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ
thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị
trong đêm mùa đơng cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cơ gái “dù làm bất
cứ việc gì, cơ ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi”. Đó là tâm lý của một con người cam chịu, bng
xi trước số phận, hồn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống
hơn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với
một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng
tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một
người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị
đau khổ, Mị khóc rịng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình.
Thế nhưng “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chính vì thế Mị đã bng xi trước số phận
đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó. Song song với nét
tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, u cuộc sống, mong muốn thốt khỏi hồn cảnh
sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân. Trong đêm mùa xuân ấy, tâm
trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước.
Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu
và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa…


Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã
trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể “trói” được thân xác Mị chứ khơng thể “trói”


được tâm hồn của một cơ gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý
nghĩa với Mị. Đó là đêm cơ thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một
cái xác không hồn. Đó là một đêm cơ vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim
mình. Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tơ
Hồi khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm
tàng trong lịng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì
đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Đó là dịng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dịng nước mắt
lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người,
trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt
rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà
những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc
trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp
Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị
hổ ăn mất một con bị mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải
lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai
phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với
hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình
ma nhà nó rồi thì chỉ cịn biết chờ ngày rũ xương ở đây thơi”.


Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thơi là người kia chết, chết đau, chết
đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như
vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con
bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A
Phủ trên cái cột tưởng tượng đó.


Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị
từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình u thành một
con dâu gạt nợ, một kẻ nơ lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết


thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh”
của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến
chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa
trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói
đứng…


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tơ Hồi cũng đã khẳng định
được chân lí mn đời: ở đâu có áp bức bất cơng thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự
vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc
sống. Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao
Tơ Hồi lại thành cơng trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc
dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngơn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát
sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn – giải
thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn
tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của
nó.


Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tơ Hồi. Đối với riêng em, truyện
“Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn
chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong
truyện ngắn “Đời thừa”. Bài làm Tơ Hồi trước 1945 nổi tiếng với tiểu thuyết “Dế mèn phiêu lưu ký”.
Đi theo Cách mạng rồi đi kháng chiến chống Pháp, Tơ Hồi hoạt động ở vùng rừng núi Tây Bắc. Kết
quả rực rỡ của chuyến đi thực tế dài ngày đó là tập “Truyện Tây Bắc” ra đời, được giải nhất giải
thưởng Hội Văn Nghệ Việt Nam 1954-1955. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm hay nhất trong trong
truyện “Truyện Tây Bắc” của Tơ Hồi.


Truyện đã diễn tả q trình giác ngộ và vùng dậy chống phong kiến và đế quốc của các dân tộc Tây
Bắc dưới sự lãnh đạo vủa Đảng. “Vợ chồng A Phủ” cũng là kết quả của một q trình chuyển biến đến
độ chín muồi của tư tưởng và tình cảm nhà văn. Tình cảm của tác giả đã quyện lẫn với tình cảm của


dân tộc anh em một cách chan hịa tự nhiên, đó là tấm lịng biết ơn, thủy chung, tình nghĩa đối với các
vùng du kích đã tiếp tế che chở cho cán bộ, bộ đội hoạt động ở vùng địch hậu Tây Bắc”. “Vợ chồng A
Phủ” tố cáo sâu sắc tội ác của bọn phong kiến miền núi Tây Bắc đối với các dân tộc vùng cao.


Tác phẩm đã nói lên một cách đau xót nỗi thống khổ bao đời của các dân tộc anh em ở Tây Bắc dưới
ách đô hộ của thực dân Pháp và bè lũ tay sai là quan lang, quan châu, phìa (Thái), tạo (Mường), thống
lí (H’Mông). Dưới chế độ thống trị tàn bạo man rợ của bọn thống lí, quan bang, những người đi ở trừ
nợ như A Phủ, làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí như Mị là những “kiếp trâu ngựa”, khốn khổ, nhục
nhã ê chề. Thật ra những kiếp người như Mị, như A Phủ là những kẻ nô lệ ở vùng cao. Bọn thống lí là
một thứ “vua” ở vùng cao, chúng có quyền sinh quyền sát đối với người dân Tây Bắc.


<b>Phân tích bài thơ Việc Bắc</b>



Những bài thơ lớn của Tố Hữu đều sáng tác vào những điểm mốc của lịch sử cách mạng Việt Nam. Bài
thơ “Việt Bắc” – kiệt tác của Tố Hữu cũng được sáng tác trong một thời điểm trọng đại của đất nước.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hồ bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đơ Hà Nội. Trong khơng khí chia tay
đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu
đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã
phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư
tưởng trong hồ bình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân ca và hình tượng hố Việt Bắc và những
người cán bộ kháng chiến là Ta – Mình. Cuộc chia li giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ
cách mạng như là cuộc chia tay của một đơi bạn tình đầy bịn rịn, nhớ nhung, lưu luyến.


Mở đầu là lời của Việt Bắc. Để cho Việt Bắc – người ở lại – mở lời trước là rất tế nhị, vì trong chia tay
thì người ở lại thường khơng n lịng đối với người ra đi


“Mình về mình có nhớ ta



Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ khơng


Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn?”


Bài thơ “Việt Bắc” có hai giai điệu chính. Câu thơ mở đầu “Mình về mình có nhớ ta” là giai điệu chính
thứ nhất. Câu thơ mới đọc thống qua tưởng khơng có gì nhưng sâu sắc lắm. Một trăm cặp tình nhân
chia tay cũng đều nói lời này. Tố Hữu mượn màu sắc của tình u mà phơ diễn tình cảm cách


mạng. Đại từ mình và ta đứng ở hai đầu câu thơ, đã thấy xa cách. Từ “nhớ” được điệp lại ba lần đã tạo
ra âm hưởng chủ đạo của bài thơ: lưu luyến, nhớ thường, ân tình ân nghĩa.


Người về lặng đi trước những câu hỏi nặng tình nặng nghĩa của Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân li


Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay…”
Việt Bắc lại hỏi:


“Mình đi, có nhớ những ngày


Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu


Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”


Để cho Việt Bắc hỏi là một cách nhà thơ khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Chỉ vài hình
ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” là khung cảnh rừng núi hiện lên ảm đạm trong những
ngày đầu kháng chiến. Mình và Ta đã từng chịu chung gian khổ “miếng cơm chấm muối”, đã cùng
chung lưng đấu cật để chống kẻ thù chung “mối thù nặng vai”.



Vẫn còn là lời hỏi của Việt Bắc, nhưng tứ thơ chuyển:
“Mình về, rừng núi nhớ ai


Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà


Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”


Biện pháp tu từ nhân hố “rừng núi nhớ ai” nói lên tình cảm thắm thiết của Việt Bắc với những người
kháng chiến. Mình về thì núi rừng Việt Bắc trống vắng “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Quả trám
(trám xanh và trám đen) và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội và cán bộ kháng chiến.
Mượn cái thừa để nói cái thiếu, thật hay! Hình thức đối lập giữa cái bên ngoài (hắt hiu lau xám) và bên
trong (đậm đà lòng son) biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo đói của người dân Việt Bắc,
nhưng trong lịng thì thuỷ chung son sắt với cách mạng.


Cuối lời Việt Bắc hỏi người về:
“Mình đi, mình có nhớ mình


Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

chẳng những “nhớ ta” mà còn phải “nhớ mình’, nói theo ngơn từ của tình u thì chẳng những phải
“nhớ em” mà còn phải “nhớ anh” nữa. Cái “anh” mà hồi ở với em. Mình đã sống với Ta mười lăm
năm, tình nghĩa biết mấy, anh hùng biết mấy! Mình với Ta viết lên những trang sử oai hùng của dân tộc
“Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Bây giờ xa cách, Mình về thành thị, nhớ đừng thay lòng đổi
dại với Ta, mà cũng đừng thay lịng đổi dạ với chính mình:


“Mình về thành thị xa xơi


Nhà cao, cịn thấy núi đồi nữa chăng?


Phố đơng, cịn nhớ bản làng


Sáng đèn cịn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”


Để cho Việt Bắc ướm hỏi dè chừng như vậy là một cách khéo léo nhà thơ Tố Hữu dự báo những diễn
biến tư tưởng trong hồ bình.


“Mình đi, mình có nhớ mình”


Đó là câu thơ hay nhất của bài thơ “Việt Bắc” mà cũng là một sáng tạo tuyệt vời của Tố Hữu. Đón hết
những lời ân tình ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về mới mở lời. Lời người về cũng chí tình chí
nghĩa:


“Ta với mình, mình với ta


Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh,
Mình đi, mình lại nhớ mình


Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”


Hai đại từ ta – mình cứ xoắn xuýt, quấn quýt “Ta với mình, mình với ta” thật là nồng nàn. Ý nghĩa lại
khơng rạch rịi để rồi nhập lại làm một:


“Mình đi, mình lại nhớ mình”


(Trả lời cho câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ta”)


Diễn ra ngơn ngữ của tình yêu là “Anh đi anh lại nhớ em”. Nỗi nhớ của người đi thật là dào dạt, nghĩa
tình của người đi đối với Việt Bắc thật là bất tận “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Người
đi trả lời như vậy hẳn làm yên lòng người ở lại – Việt Bắc.



Như vậy là biến tấu của giai điệu một đã hình thành và mở rộng đến vơ cùng. Tất nhiên đấy chỉ là một
thủ pháp để nhà thơ miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc và cách mạng, miêu tả lại bản anh
hùng ca kháng chiến của quân dân Việt Bắc.


Để xua tan những hoài nghi của người ở lại, người về phải nói những lời thật nồng thắm, phải so sánh
với những tình cảm cao quý nhất của con người:


“Nhớ gì như nhớ người yêu


Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”


Từ “nhớ” được điệp lại trùng trùng và mỗi từ lại gợi lên không biết bao nhiêu kỉ niệm thân thương giữa
Ta với Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt đã được hồi tưởng (mà cái nhỏ trong tình u chính là cái lớn).
“Thương nhau, chia củ sắn lùi


Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”


Con người Việt Bắc trong lòng người về mới đáng yêu đáng quý làm sao:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Một tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, một tiếng chày đêm ngoài suối âm vang mãi trong lòng người ra về:
“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều


Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”


Nói gọn lại là người về nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng hữu tình(1); nhớ con người Việt
Bắc giản dị, tình nghĩa, thủy chung.


Từ giọng điệu anh hung ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của ta và mình được tái hiện trong hòai niệm


của người về:


“Nhớ khi giặc đến giặc lung
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày


Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”


Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa. Núi rừng Việt Bắc tươi
đẹp đã trở thành lũy sắt bảo vệ và che chở cho bộ đội. “vây”, “đánh” quân thù. Mỗi một tên núi, tên
sông, tên phố, tên bản là một chiến công lừng lẫy của quân dân Việt Bắc. Rồi những đêm hành quân,
những đoàn dân cơng, những địan xe vận tải tấp nập sơi động:


“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân cơng đỏ đuốc từng đồn


Bước chân nát đá, mn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”


Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với
Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương
cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, lừ niềm tin là hi vọng của cả dân tộc.


Người về cũng không quên trả lời câu hỏi gay cấn của Việt Bắc:
“Mình về mình lại nhớ ta



Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” (2)


(Trả lời cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình”)


Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xơi thì người các bộ
kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng.


Như vậy là với biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã khép lại phần một của bài thơ”Việt Bắc”. Và chủ
đề chung thủy – chung thủy với cách mạng của bài thơ “Việt Bắc” đã đạt đến độ sâu sắc ngay trong
phần một này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>TÍNH NGHỆ THUẬT TRONG THƠ HCM</b>


Kể từ khi tập thơ Nh<i>ật kí trong tù của Hồ Chí Minh được phát hiện và được dịch ra </i>
tiếng Việt để phổ biến rộng rãi, cho đến nay đã 50 năm. Trong 50 năm ấy, đã có biết
bao cơng trình nghiên cứu, bình luận, phân tích (trong đó có cả những chuyên
luận) về tập thơ này, tưởng như khó có khía cạnh nào mới để tìm hiểu nữa. Thơ Nh<i>ật </i>
<i>kí trong tù lại được đưa vào SGK các cấp, cho nên việc học tập thơ của Hồ Chí Minh</i>
đã thành phong trào quần chúng chứ khơng cịn là việc riêng của nhà nghiên cứu.
Khát vọng tự do, ý chí cách mạng kiên cường, lòng yêu nước thiết tha, ý thức tự tu
dưỡng bản thân trong nghịch cảnh, tinh thần nhân đạo bao la, lịng u thiên
nhiên, tính chất umua, hài hước thâm thúy, hóm hỉnh là những phẩm chất cao đẹp
khiến tập thơ nhận được sự mến mộ, yêu chuộng phổ biến cả trong và ngoài nước.
Ngày nay đọc lại bản in đầy đủ Nh<i>ật kí trong tù, điều khiến tơi thú vị là tính chất</i>
nơm na trong thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh, biểu hiện một con người gần gũi, đời
thường, thân thương, cho dù làm thơ bằng chữ Hán.


Trước đây, khi người ta đưa bản dịch Nh<i>ật kí trong tù vừa thực hiện xong cho Bác</i>
xem, Người đã nhận xét các chú dịch thơ Bác hay quá, có ý nói các dịch giả đã
phần nào “văn chương hóa”, “thi vị hóa”, làm đẹp thơ của Người, làm cho nó bớt


nơm na đi, cứ nghĩ như thế mới xứng với thơ của Bác. Lại có người như nhà thơ
Trung Quốc Quách Mạt Nhược đã khen thơ Hồ Chí Minh theo lối so sánh với các
mẫu mực Đường Tống, cho rằng nhiều bài thơ trong tập, đặt chung với thơ Đường
thơ Tống cũng không phân biệt được. Khơng ít giáo sư Việt Nam cũng khen thơ Hồ
Chí Minh trong tập này theo lối đó. Kể ra cũng có phần đúng ở bề ngồi, bởi một số
bài thơ được Bác làm theo lối phỏng cổ, đọc lên vẫn thấy dư vang âm điệu cổ điển.
Thực ra đó là kiểu làm thơ chơi, khơng nhằm tạo ra sáng tác mới. Cách đánh giá
<i>Nhật kí trong tù bằng cách so với các mẫu mực cổ điển của thơ Trung Hoa theo tôi </i>
là không thỏa đáng. Ơng Qch Mạt Nhược khơng nhìn thấy cái mới trong lối thơ
mang tính chất văn xi, bạch thoại của tập Nh<i>ật kí trong tù. Điểm thứ nhất, trong </i>
bài Khán Thiên gia thi h<i>ữu cảm (Cảm tưởng đọc Thiên gia thi) Hồ Chí Minh đã đối </i>
lập thơ xưa và thơ hiện đại, sao lại còn đánh giá thơ ơng theo mẫu mực cũ? Trong
bài có câu: “Hiện đại thi trung ưng hữu thiết, Thi gia dã yếu hội xung phong”


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>kí trong tù giống thơ Đường, thơ Tống, thế là đánh giá nó theo tiêu chí Đường </i>
Tống, chỉ đề cao mấy bài thơ phỏng cổ, nhại cổ, mà bỏ qua hoặc không đánh giá
đúng hầu hết các bài thơ hiện đại của ông. Điểm thứ hai là cách làm thơ của Hồ Chí
Minh trong tù chỉ là để giải khuây, không giống với các thi sĩ làm thơ. Trong bài
<i>Khai quyển có chữ “liêu tá” nghĩa là “tạm mượn” đã xác định rõ rằng ngâm thơ ở </i>
đây là để giết thời gian, vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do. Bác làm thơ không như
một số nhà thơ khác, có khi ba năm mới được một chữ, mà phải làm nhanh để ghi
kịp sự kiện. Tuy vậy, ta đều biết, “phong cách ấy là con người”, cho nên thơ Người,
dù không cố ý làm mà vẫn hay, vẫn mang cái thần của người, vừa thành thật, vừa
nơm na như có lần ơng tự thổ lộ: M<i>ấy lời thành thật nôm na, Vừa là kêu gọi, vừa là </i>
<i>mừng xuân.</i>


Đặc điểm nổi bật thứ nhất của thơ Nh<i>ật kí trong tù là thơ luật, thơ tứ tuyệt, thơ </i>
ngũ ngơn, một ít bài thơ thất ngơn bát cú, giống như thể loại trong tập Thiên gia
<i>thi mà Người có nhắc đến trong bài Khán Thiên gia thi hữu cảm. Đó là điều khơng </i>
phải chứng minh nữa, nhiều học giả đã nghiên cứu, phân tích rồi. Điều cần nói thêm


là thơ luật ở đây chủ yếu chỉ tuân thủ quy định về số câu, số chữ, bằng trắc, còn các
yêu cầu khác như niêm, điển cố… đều khơng địi hỏi chặt chẽ. Điểm thứ hai là tuy
thơ làm theo khuôn khổ thơ luật, song ngôn ngữ phần nhiều lại là bạch thoại. Đây
cũng là điểm khác với thơ bạch thoại của người Trung Quốc hiện đại, bởi thơ bạch
thoại của họ chủ yếu là thơ tự do, không hạn chữ, hạn vần, không làm theo luật,
hoặc nếu có thì theo “luật mới”, ví như thơ của Hồ Thích, Chu Tác Nhân, Lưu Bán
Nông, Lưu Bán Khê, Băng Tâm, Văn Nhất Đa, Quách Mạt Nhược, Từ Chí Ma, Đới
Vọng Thư… Người Trung Quốc hiện đại vẫn làm thơ từ theo luật cổ, ví như thơ Mao
Trạch Đơng, trong đó dùng nhiều từ cổ, điển cố xưa rất kì khu. Chỉ cần lướt qua các
chú thích dày đặc của tập thơ từ Mao Trạch Đơng, thiếu nó, người đọc hiện đại rất
khó hiểu, thì biết. Làm thơ cổ khơng chỉ một mình Mao Trạch Đơng mà cịn có rất
nhiều người, giống hệt ở bên ta, nhiều cụ già khi về hưu, thường lấy việc sáng tác
thơ đường luật làm một thú vui tao nhã. Họ có tạp chí riêng để cơng bố loại thơ đó.
So sánh với loại thơ đó, ta thấy thơ Nh<i>ật kí trong tù của Bác Hồ tỏ ra “nơm na” hẳn.</i>
Điều này góp phần bác bỏ lập luận cho rằng tập thơ Nh<i>ất kí trong tù khơng phải do </i>
Hồ Chí Minh làm, mà do một người Trung Quốc nào đó viết. Một là người Trung
Quốc nói chung, khơng thể làm kiểu thơ luật cổ bạch thoại như thế, và thứ hai, nội
dung tập thơ lại gắn chặt với quá trình tư tưởng, tình cảm của Hồ Chí Minh, một con
người cụ thể, từ khi bị bắt, bị tù cho đến khi được ra tù trong suốt hành trình sang
Trung Quốc làm nhiệm vụ. Khơng ai có thể làm “hộ” được kiểu thơ đó, và Bác là tác
giả duy nhất của tập thơ là điều khơng cịn gì phải bàn cãi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

ngữ, một điều rất hiếm gặp trong thơ cổ. Câu thơ cổ điển thường được danh ngữ hóa
và tỉnh lược các hư từ. Câu thơ bạch thoại thường được động ngữ hóa, điều đó kéo
theo việc sử dụng phổ biến các giới từ, hư từ. Tính chất nơm na thể hiện ở ba phương
diện sau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

phanh trà vật tẩy diện” (Ai muốn rửa mặt chớ pha trà, Ai muốn pha trà chớ rửa
mặt). Chữ “yếu” chữ “tẩy” đều là từ hiện đại. Hán ngữ hiện đại dùng rất nhiều từ
“đích” chỉ quan hệ sở hữu, phụ thuộc. Tại bài D<i>ạ bán (Nửa đêm) có câu: “Thiện ác </i>


ngun lai vơ định tính, Đa do giáo cục đích nguyên nhân” (Hiền dữ phải đâu là
tính sẵn, Phần nhiều do nguyên nhân của giáo dục). Chữ “đích” làm cho câu thơ
thành văn xuôi. Trong bài Đ<i>ộc Tưởng công huấn từ</i>” (Đọc lời huấn thị của ơng
Tưởng Giới Thạch), có câu “Quyết tâm khổ cán dữ ngạnh cán, Tự hữu thành cơng
đích nhất thiên” (Quyết tâm gian khổ cũng làm, và làm cứng rắn, Tự nhiên sẽ có
một ngày thành cơng). Mấy chữ “thành cơng đích nhất thiên” là bạch thoại, rất văn
xuôi. Trong bài C<i>ấm yên (Cấm thuộc lá) có chua thêm mấy chữ “Chỉ n đích” </i>
nghĩa là “thuốc lá cuốn thành điếu”, một cấu trúc bạch thoại. Tập thơ cịn nhiều từ
“đích” nữa, chúng tơi tạm lược qua. Đặc biệt trong câu ở bài Đ<i>ộc Tưởng cơng có hai</i>
từ khẩu ngữ: “khổ cán” và “ngạnh cán”. “Khổ cán” là chấp nhận gian khổ mà làm.
“Ngạnh cán” nghĩa là làm mạnh, làm rắn, làm tới, khơng dao động. Trong tập thơ
cịn có mấy trường hợp chữ “ngạnh” nữa mà nghĩa khác nhau. Trong bài Tù đánh
<i>bạc (Đổ phạm) có câu “Ngạnh phạm hào soạn thiên thiên hữu, Cùng phạm cơ diên </i>
cộng lệ thùy” (Tù cứng ngày ngày no rượu thịt, Tù nghèo dãi với lệ cùng tuôn). Chữ
“ngạnh” đây chỉ tù giàu có. Chữ ngạnh có khi chỉ “chết cứng”, ví như trong bài
<i>Nhất cá đổ phạm ngạnh liễu (Một người tù cờ bạc chết cứng rồi). Các từ này vừa có </i>
tính khẩu ngữ vừa có tính chất tiếng lóng. Ví như trong bài Lai Tân có câu thơ câu
“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”, thường dịch là “Chong đèn, huyện trưởng
làm công việc”, song “thiêu đăng” theo người bạn Trung Quốc nói với Đặng Thai
Mai, là tiếng lóng chỉ việc hút thuốc phiện. Trong bài N<i>ạn hữu Mạc mỗ</i> (Nạn hữu họ
Mạc) có câu “Xa đại pháo tài chân vĩ đại”, trong đó “xa đại pháo tài” có nghĩa là
tài nói phét, khốc lác, chém gió. Từ khẩu ngữ rất nhiều. Ví dụ như bài Bu<i>ổi sớm </i>
thứ 2, có câu “Khuyến quân thả ngật nhất cá bão, Bĩ cực chi thì tất thái lai”


(Khuyên anh hãy gắng ăn no bụng, Bĩ cực rồi ra ắt thái lai). Câu này theo tôi phải
dịch là “Khuyên anh cứ chén no cái đã” mới đúng ý vị khẩu ngữ của nó, cịn dịch
“hãy gắng ăn no bụng” thì trung tính q, khơng cịn sắc thái gì.


Ba là dùng các cách viết phiên âm bằng chữ la tinh. Như chữ “Oa…! Oa…! Oaa…”
trong bài Tân D<i>ương ngục trung hài (Đứa bé trong nhà lao Tân Dương), tiếng </i>


phiên âm như chữ “sĩ đích” từ là cái gậy. Có nhan đề chỉ là dấu hỏi (?) hoặc dấu
than (!).


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

nơm na, bình dị rất đặc trưng cho văn phong của Hồ Chí Minh. Điều này chứng tỏ
Người rất thành thạo bạch thoại, hiểu các sắc thái từ ngữ khẩu ngữ, tiếng lóng, đưa
được hết vào thơ, tạo thành một phong cách mới chưa từng có. Nêu đặc điểm “nơm
na” trong thơ Nh<i>ật kí trong tù khơng có nghĩa là hạ thấp giá trị nghệ thuật của thơ </i>
trong tập thơ. Giá trị nghệ thuật của tập thơ là do chỗ nó thể hiện sinh động cuộc
sống thực tế và tình cảm của con người một cách chân thật, đặc sắc tạo nên, chứ
không phải là do nó “giống” với các mẫu mực cổ xưa của Đường thi mà có. Chính
phong cách “nơm na” ở đây mới là Việt Nam, là sáng tạo, độc nhất vơ nhị, cịn xem
nó hao hao với Đường thi lại là hạ thấp giá trị của tập thơ, coi đó là chỉ thứ thơ bắt
chước khéo léo, hồn tồn khơng đúng với cách đánh giá đối với một tập thơ có
tính sáng tạo. Cách đánh giá đó cũng đi ngược lại tư tưởng của Hồ Chí Minh, vì
chính ơng cũng coi thơ của Thiên gia thi đã cũ rồi, không phải là mẫu mực của ông
nữa. Việc Hồ Chí Minh làm thơ bạch thoại, khẩu ngữ cũng khơng phải vì ơng khơng
sành văn ngơn. Chúng tơi ddaxc có dịp đọc thấy nhiều bài lưu bút của ông trong
một số bảo tàng Trung Quốc, cungxnhuw một số bức thư khác viết bằng văn ngôn,
lời lẽ uyên súc, tao nhã không khác người Trung Quốc. Rõ ràng Người muốn làm
một loại thơ mới hiện đại.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×