Khánh Hòa Qua Ca Dao Tục Ngữ
NGUYỄN XUÂN KÍNH
Khánh Hòa có nhiều cảnh đẹp. Đây là bãi biển Nha Trang:
"Bãi biển Nha Trang mịn màng, trắng trẻo
Nước trong leo lẻo, gió mát trăng thanh
Đêm đêm thơ thẩn một mình
Đố sao cho khỏi vướng tình nước mây?" (1)
Đặc biệt, ở Khánh Hòa có khu di tích Tháp Bà, thuộc phường Vĩnh Phước, TP. Nha Trang.
Đây là một trong những kiến trúc đền tháp Chăm còn lại đẹp nhất hiện nay, đã được Nhà nước
công nhận là di tích văn hóa quốc gia. Hàng năm cứ đến ngày 23 tháng ba (lịch trăng), lễ hội
Tháp Bà được tổ chức rất lớn. Trong lễ hội, ngoài lễ tắm tượng, còn có múa quạt, múa đèn,
dâng bông, hát bóng. Hiện nay dưới chân Tháp Bà còn có một làng gọi là Xóm Bóng (xóm của
những người hát bóng chuyên nghiệp
(2)
. Trước khi Nhà nước ta xếp hạng, công nhận di tích
này, ca dao địa phương đã lưu giữ nó trong tâm trí nhiều người:
"Ai về xóm Bóng quê nhà
Hỏi thăm điệu múa Dâng Bà còn không?"
Nhiều địa danh thuộc tỉnh Khánh Hòa được nhắc đến trong mảng ca dao, tục ngữ nói về thời tiết:
+ Bao giờ Hòn Đỏ mang tơi
Hòn Hèo đội mũ thì trời sắp mưa.
+ "Mưa Đồng Cọ, gió Tu Hoa, cọp Ô Gà, ma Đồng Lớn" (Đồng Cọ thuộc tỉnh Phú Yên).
Trầm hương, đặc biệt là kỳ nam ở Khánh Hòa thì không đâu sánh bằng. Dân địa phương đã
đúc kết kinh nghiệm phân biệt giá trị các loại kỳ nam: "Nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, từ hắc".
Trong số ba tỉnh có yến sào (Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa), thì sản lượng và chất lượng
của Khánh Hòa là cao nhất. Hơn một lần ca dao đã ca ngợi hai đặc sản trầm hương và yến sào
của tỉnh này:
+ "Khánh Hòa là xứ Trầm Hương
Non cao biển rộng, người thương đi về
Yến sào mang đậm tình quê
Sông sâu đá tạc lời thề nước non".
+ "Khánh Hòa biển rộng non cao
Trầm hương Vạn Giã, yến sào Nha Trang".
+ "Tỉnh Khánh Hòa đậm đà mưa nắng
Non chồng nghĩa nặng, nước chứa tình thâm
Ngọn gió bay phảng phất hơi trầm
Mây xây tháp bút, trăng dầm bến ngân".
Tỉnh Bình Định có loại nhà "mái lá", tường bằng gạch hay bằng đất sét nện rất dày, mái nhà
cũng có một lớp đất sét nện cách nhiệt, do đó mùa nắng thì mát mẻ, mùa đông lại ấm áp, còn
tránh được hỏa hoạn. Tỉnh Phú Yên có đồng ruộng màu mỡ, Khánh Hòa có trâu tốt. Chỉ với hai
dòng lục bát, ca dao Nam Trung bộ đã ghi nhận:
"Tiếng đồn Bình Định tốt nhà
Phú Yên tốt ruộng, Khánh Hòa tốt trâu".
Có khi ca dao tập trung phản ánh cảnh và vật của một địa phương. Nhưng cũng có khi một
bài ca dao đã phản ánh hiện thực của nhiều địa phương; trong trường hợp này thật khó mà tách
bạch đâu là ca dao Bình Định, đâu là ca dao Phú Yên, đâu là ca dao Khánh Hòa:
"Anh về Bình Định thăm cha
Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hòa thăm em".
Để giữ gìn non sông tươi đẹp, để bảo vệ thành quả lao động của cha ông, nhiều khi người dân
đã phải cầm vũ khí chống giặc ngoại xâm. Dưới hình thức hỏi đáp, ca dao Khánh Hòa đã tạc bia
ghi công những người con ưu tú của tỉnh nhà.
Đầu tiên cô gái hỏi:
"Tiếng đồn anh hay chữ
Lại đây em hỏi thử
Đôi câu lịch sử Khánh Hòa
Từ ngày Tây cướp nước ta
Những ông nào đã dựng cờ khởi nghĩa,
Anh hãy nói ra cho em tường?"
Chàng trai trả lời:
Nghe lời em hỏi mà thương!
Thương người nghĩa kiệt, tơ vương vấn lòng
Vì thù non sông
Thề không đội trời chung với giặc
Từ Nam chí Bắc
Thiếu chi trang dạ sắt, gan đồng
Ở Khánh Hòa thì có ba ông
Ông Trần Đường giữ đèo Dốc Thị
Ông Trịnh Phong trấn nơi biển Cù
Ông Nguyễn Khanh lo việc quân nhu
Ba ông một bụng nghìn thu danh truyền"
Cô gái đâu đã "chịu thua":
"Ba ông là bậc anh hiền
Gọi "Khánh Hòa tam kiệt"
Người người đều biết
Đều thương đều tiếc
Chưa thỏa nguyền núi sông
Tấm thân xem nhẹ như lông hồng
Hỏi anh còn nhớ "Quảng Phước tam hùng" là ai?"
Cũng may là chàng trai không phải tay vừa:
"Dám đâu quên kẻ anh tài
Rèn gan sắt đá khôn nài bể dâu
Gương phấn dũng làu làu Phạm Chánh
Cùng Phạm Long chung gánh nước non
Cha con trung nghĩa vẹn tròn
Cùng Nguyễn Sung nguyện mất còn có nhau
Bao phen cay đắng hận thù
Tam hùng, tam kiệt nghìn thu trăng rằm"
Người Khánh Hòa rất giàu tình cảm:
“Gió đâu bằng gió Tu Bông
Thương ai bằng: thương cha, thương mẹ, thương chồng, thương con?”
Ca dao thường được sáng tác theo thể lục bát. Nói đến thể thơ này, người ta thường nghĩ
đến đơn vị tế bào của nó là hai dòng: trên sáu tiếng (lục) và dưới tám tiếng (bát). Tuy nhiên, để
thể hiện nội dung tình cảm phong phú, trong lời ca dao vừa dẫn, người xưa đã sử dụng hình
thức lục bát biến thể. Ở hình thức này, số tiếng của dòng dưới đã được thay đổi (kéo dài thành
11 tiếng), chỉ có số tiếng của dòng trên và khuôn hình vần vẫn được giữ (
Bông vần với chồng).
Ca dao Khánh Hòa nói riêng, ca dao Nam Trung bộ nói chung sử dụng hình thức lục bát biến thể
và thể hỗn hợp nhiều hơn so với ca dao Bắc bộ. Bài ca dao dưới đây được sáng tác theo thể
hỗn hợp, vừa phản ánh các đặc sản ở Khánh Hòa, vừa thể hiện tình cảm lứa đôi thắm thiết:
"Yến sào Hòn Nội
Vịt lội Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Ba
Nai khô Diên Khánh
Cá tràu Võ Cạnh
Sò huyết Thủy Triều…
Đời anh cay đắng đã nhiều
Về đây sớm ngọt, ngon chiều với em"
Ở bài khác, người dân không chỉ dùng thể hỗn hợp, hình thức lục bát biến thể, mà còn sử dụng
các địa danh để thể hiện tình cảm tha thiết và quyết tâm chung thủy:
"Anh đứng ở Nha Trang
Trông sang xóm Bóng
Ánh trăng lờ mờ, lượn sóng lăn tăn
Gần nhau chưa kịp nói năng
Bây giờ sông cách, biển ngăn ngại ngùng!
Biển sâu con cá vẫy vùng
Sông sâu không dễ mượn dòng đưa thư
Anh nguyền cùng em:
Bao giờ Hòn Chữ bẻ tư
Biển Nha Trang cạn nước, anh mới từ duyên em".
Hòn Chữ là một hòn đá rất to như một ngôi nhà nằm nơi bãi sông Cù, trên có khắc chữ Chăm
cổ. Các nhà khảo cổ học ngờ rằng hòn đá xưa kia nằm trên núi Tháp Bà do đất lở, lăn xuống
dòng sông. Bài ca dao đang phân tích có ba cặp lục bát thì cặp thứ ba là lục bát biến thể (dòng
trên sáu tiếng, dòng dưới: mười).
Thể song thất lục bát cũng có mặt trong ca dao tình yêu của Khánh Hòa:
"Đứng ở Hòn Chồng, trông sang Hòn Yến
Lên Tháp Bà, về viếng Sinh Trung
Giang Sơn cẩm tú chập chùng
Đôi ta gắn bó thủy chung một lòng"
Nói đến thể song thất lục bát là nhắc đến một thể thơ mà đơn vị tế bào của nó gồm bốn dòng:
hai dòng thất (mỗi dòng bảy tiếng) và một cặp lục bát. Ở bài ca dao vừa dẫn, tác giả đã sử dụng
hình thức song thất lục bát biến thể (ở hai dòng thất là tám tiếng và bảy tiếng).
Qua một số bài ca dao đã phân tích, chúng ta hay bắt gặp hình thức biến thể. Hiện tượng này
cho thấy hai điều. Thứ nhất, sáng tác dân gian chưa được kỳ công, tinh xảo như văn chương
bác học. Văn chương bác học không có hình thức biến thể, thêm bớt số tiếng. Thứ hai, sáng tác
dân gian thể hiện sự phóng khoáng hồn nhiên, không gò bó theo hình thức của người bình dân
(2)
.
Qua ca dao, tục ngữ lưu truyền ở Khánh Hòa, chúng ta có thể cảm nhận được rằng: Nơi
đây không chỉ có cảnh đẹp, thức ăn ngon, lâm sản quý, mà còn có những con người thủy
chung, nồng hậu, biết trân trọng giữ gìn những gì tốt đẹp của truyền thuyết
NGUYỄN XUÂN KÍNH
(1) Nam Trung bộ do Thạch Phương, Ngô Quang Hiển biên soạn, NXB KHXH, Hà Nội, 1994.
(2) Xem thêm Thi pháp ca dao, Nguyễn Xuân Kính, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.