Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

BDTX Nam 20142015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.86 KB, 50 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHÒNG GD&ĐT THẠCH THÀNH. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ GHĨA VIỆT NAM. TRƯỜNG THCS THÀNH TRỰC. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. KẾ HOẠCH CÁ NHÂN BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN NĂM HỌC 2014 – 2015 Họ và tên: Mai Ngọc Hùng Trình độ chuyên môn: Cao Đẳng Sư Phạm Nhac Chức vụ: Giáo viên - Tổ khoa học xã hội Công việc chuyên môn và kiêm nhiệm được giao: - Giảng dạy môn : Âm nhac K6,7,8,9 I. Mục tiêu của việc bồi dưỡng thường xuyên: 1.Giáo viên học tập BDTX để cập nhật kiến thức về chính trị, kinh tế, xã hội, bồi dưỡng phẩmchất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, phát triển năng lực dạy học, năng lực giáo dục và những năng lực khác theo yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp giáo viên, yêu cầu của nhiệm vụ năm học, cấp học, yêu cầu phát triển giáo dục của địa phương, yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục. 2. Phát triển năng lực tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên, năng lực tự đánh giá hiệu quả BDTX, năng lực tổ chức, quản lý hoạt động tự học, tự bồi dưỡng giáo viên của nhà trường, của phòng GD&ĐT và của Sở GD&ĐT. II. Nội dung BDTX: 1.Khối kiến thức bắt buộc: a. Nội dung bồi dưỡng 1: (30 tiết) - Nắm vững những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của các cơ quan quản lý giáo dục về cấp, bậc, ngành học mà mình đang đảm nhiệm: - Nắm vững và thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI về giáo dục và đào tạo (15 tiết); - Nắm vững và thực hiện Chỉ thị của Bộ GD&ĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục phổ thông năm học 2014-2015, hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2014-2015 theo cấp, bậc, ngành học và các văn bản khác liên quan đến cấp, bậc, ngành học trong năm học (15 tiết). b. Nội dung bồi dưỡng 2: (30 tiết) - Căn cứ vào chuyên môn nghiệp vụ của bản thân và nhiệm vụ giảng dạy được phân công, tôi đăng ký tự bồi dưỡng chuyên đề: “ Lịch sử địa phương Thanh hoá” 2. Khối kiến thức tự chọn: - Nội dung bồi dưỡng 3: Thời lượng bồi dưỡng 60 tiết/ giáo viên - Thực hiện Công văn số 713/SGD&ĐT-GDCN, ngày 25 tháng 4 năm 2014 của Sở Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn công tác BDTX giáo viên năm học 2014-2015..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Kế học BDTX năm học 2014 – 2015 của trường THCS Thành Trực và căn cứ vào nhu cầu bồi dưỡng của cá nhân, chương trình BDTX do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và nguồn tài liệu hiện đăng tải trên website đối với từng cấp, bậc, ngành học tôi lựa chọn 4 mô đun bồi dưỡng trong năm học: - Mô đun 13; 14; 15; 16 III. Hình thức BDTX: 1. BDTX bằng tự học của giáo viên kết hợp với các sinh hoạt tập thể về chuyên môn, nghiệp vụ tại tổ bộ môn của nhà trường. 2. Tham gia BDTX tập trung do phòng GD&ĐT hoặc cụm tổ chức nhằm hướng dẫn tự học, thực hành, hệ thống hóa kiến thức, giải đáp thắc mắc, hướng dẫn những nội dung BDTX khó đối với GV, đáp ứng nhu cầu của GV trong học tập BDTX, tạo ĐK cho GV có cơ hội được trao đổi về chuyên môn nghiệp vụ và luyện tập kỹ năng. IV. Đề nghị tổ chức bồi dưỡng tập trung các nội dung bồi dưỡng sau: “ Lịch sử địa phương Thanh hoá” V. Kế hoạch BDTX cụ thể hàng tháng: Thời Nội dung BDTX Số Hình thức Kết quả cần đạt gian tiết BDTX được BDTX bằng - Nắm vững những - Những chủ trương, chính tự học của sách của Đảng, Nhà nước và chủ trương, chính sách Tháng của các cơ quan quản lý giáo GV kết hợp của Đảng, Nhà nước 7;8 / dục về cấp, bậc, ngành học mà với các sinh và của các cơ quan 2014 15 hoạt tập thể quản lý giáo dục về mình đang đảm nhiệm: về CM cấp, bậc, ngành học - Học tập và làm theo tấm nghiệp vụ mà mình đang đảm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tại tổ CM nhiệm và Chỉ thị số Nghị quyết Đại hội Đảng lần của nhà 03-CT/TW thứ XI về giáo dục và đào trường - Biết vận dụng linh tạo. hoạt có hiệu quả vào thực tế giảng dạy. BDTX bằng -Nắm vững Chỉ thị - Chỉ thị của Bộ GD&ĐT về Tháng nhiệm vụ trọng tâm của giáo tự học của của Bộ GD&ĐT về 9;10/2 dục phổ thông năm học GV kết hợp nhiệm vụ trọng tâm 014 với các sinh của giáo dục phổ 2014-2015. hoạt tập thể thông năm học 2014- Hướng dẫn thực hiện nhiệm 15 về CM 2015 và các văn bản vụ năm học 2014-2015 theo nghiệp vụ khác. cấp, bậc, ngành học và các tại tổ CM - Biết vận dụng có văn bản khác liên quan đến của nhà hiệu quả vào việc cấp, bậc, ngành học trong trường xây dựng kế hoạch năm học. hoạt động trong năm học..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Tháng Lịch sử địa phương Thanh 11,12 / Hoá 2014. 30. Tháng - Tự bồi dưỡng chuyên đề 15 1/2015 theo mã mô đun THCS 13. Nhu cầu và động lực học tập của học sinh THCS trong xây dựng kế hoạch dạy học. 1. Nhu cầu và động lực học tập của học sinh THCS. 2. Phương pháp và kĩ thuật xác định nhu cầu học tập của học sinh THCS. Tự bồi dưỡng chuyên đề 15 theo mã mô đun THCS 14. Xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp. 1. Các yêu cầu của một kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp. 2. Mục tiêu, nội dung, phương pháp của kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp. Tháng + Tự BD chuyên đề theo mã 15 2/2015 mô đun THCS 15: Các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện kế hoạch dạy học 1. Các yếu tố liên quan đến đối tượng và môi trường dạy học 2. Các yếu tố liên quan đến chương trình, tài liệu, phương tiện dạy học. BDTX bằng tự học của GV kết hợp với các SH tập thể về CM nghiệp vụ tại tổ CM của nhà trường - BDTX bằng tự học của GV kết hợp với các sinh hoạt tập thể về chuyên môn nghiệp vụ tại tổ chuyên môn của nhà trường. - BDTX bằng tự học của GV kết hợp với các sinh hoạt tập thể về chuyên môn nghiệp vụ tại tổ chuyên môn của nhà trường.. -Nắm vững nội dung về lịch sử địa phương Thanh Hoá. - Biết vận dụng linh hoạt có hiệu quả vào tổ chức các hoạt động ngoại khoá.. - Nắm được Nhu cầu và động lực học tập của học sinh. - Vận dụng để đưa ra phương pháp và xây dựng kế hoạch dạy học.. - Nắm được các mục tiêu phương pháp để xây dựng một kế hoạch theo hướng tích hợp. - Vận dụng để xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp.. BDTX bằng - Nắm vững các yếu tự học của tố ảnh hưởng tới GV kết hợp thực hiện kế hoạch với các SH dạy học. tập thể về - Biết vận dụng linh CM hoạt có hiệu quả vào việc thực hiện kế hoạch dạy học..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Tháng 3/2015. Tháng 4/2015. Tổng. 3. Tình huống sư phạm trong thực hiện kế hoạch dạy học Tự bồi dưỡng chuyên đề 15 theo mã mô đun THCS 16. Hồ sơ dạy học. 1. Xây dựng hồ sơ dạy học ở cấp THCS. 2. Sử dụng, bảo quản và bổ sung hồ sơ dạy học. 3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng, bổ sung thông tin và lưu giữ hồ sơ dạy học. - Báo cáo kết quả BDTX của cá nhân cho nhóm, tổ bộ môn và lãnh đạo nhà trường, phòng GD&ĐT - Dự giờ tổng kết do nhà trường tổ chức 120. XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN. - BDTX - Nắm được cách bằng tự học ứng dụng công nghệ của GV kết thông tin để xây hợp với các dựng, bảo quản, lưu sinh hoạt giữ hồ sơ dạy học. tập thể về - Vận dụng dụng chuyên môn công nghệ thông tin nghiệp vụ để xây dựng, lưu giữ tại tổ hồ sơ dạy học. chuyên môn của nhà trường. Tự đánh giá kết quả BDTX của cá nhân. - Biết tự đánh giá kết quả BDTX của bản thân, rút ra những kinh nghiệm, bài học.. Giáo viên thực hiện. Mai Ngọc Hùng. XÁC NHẬN CỦA BAN GIÁM HIỆU.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> PHẦN II TIẾN TRÌNH VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH BDTX NĂM HỌC 2014-2015 1. Nội dung bồi dưỡng 1: - Chỉ thị số 03-CT/TW của bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. - Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI về giáo dục và đào tạo. - Chỉ thị của Bộ GD& ĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp năm học 2014-2015. - Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2014- 2015 theo cấp bậc nghành học và các văn bản khác liên quan đến cấp bậc nghành học trong năm học. 2. Thời gian bồi dưỡng: Từ ngày 02 tháng 07 năm 2014 đến 28 tháng 10 năm 2014 3. Hình thức bồi dưỡng: Bồi dưỡng bằng hình thức tự học 4. Kết quả đạt được: * Tháng 7-8: I. Chỉ thị số 03-CT/TW của bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về nêu cao tinh thần trach nhiệm , chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm. I- TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ NÊU CAO TINH THẦN TRÁCH NHIỆM, CHỐNG CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN, NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nêu cao tinh thần trách nhiệm - Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức tựu trung lại là “hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. - Theo Hồ Chí Minh, nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức là: Thứ nhất, tích cực, tự giác thực hiện nhiệm vụ được giao. Khi được Đảng, Chính phủ hoặc cấp trên giao cho việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, cũng phải đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ làm cho thành công. Trong thực hiện nhiệm vụ được giao phải "có gan phụ trách", dám nghĩ dám làm, chủ động sáng tạo để có kết quả cao nhất. Thứ hai, ý thức đúng đắn về trách nhiệm của mình trên mọi cương vị, vị trí công tác. Ở mọi địa vị, vị trí công tác, trong mọi hoàn cảnh đều phải nêu cao tinh thần trách nhiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nghề nào cũng vinh quang và việc gì cũng phải cố gắng, chuyên tâm, không chủ quan, đại khái..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Bác Hồ: “Khi bộ đội đang mải đánh giặc, thì tìm cách đưa cơm đến nơi cho anh em ăn. Khi tiếp tế khó khăn thì tìm mọi cách vượt qua, không đểanh em thiếu thốn. Như thế là có tinh thần trách nhiệm hoàn thành nhiệm vụ được phân công”. Thứ ba, nắm vững chính sách và thực hiện đường lối quần chúng. Theo Hồ Chí Minh, để làm trọn nhiệm vụ, cán bộ chẳng những phải chịu khó giải thích, tuyên truyền, cổ động, mà còn phải bàn bạc với quần chúng, hỏi han ý kiến, gom gộp sáng kiến của quần chúng. Lãnh đạo quần chúng và hoan nghênh quần chúng phê bình. Tóm lại, “phải đi đúngđường lối quần chúng. Tách rời chính sách ra một đường, nhiệm vụ ra một đường là sai lầm. Tách rời chính sách và nhiệm vụ ra một đường và đường lối quần chúng ra một đường cũng là sai lầm. Thứ tư, trái ngược với tinh thần trách nhiệm là bệnh quan liêu, mệnh lệnh, chủ quan, hấp tấp, tự tư tự lợi. Quan liêu, theo Hồ Chí Minh, là xa rời thực tế, xa rời quần chúng nhân dân, xa rời mục tiêu lý tưởng của Đảng. Bệnh quan liêu là nguy cơ phá hoại Đảng, là nguyên nhân của nhiều căn bệnh khác. Quan liêu dẫn tới chủ quan, mệnh lệnh hấp tấp, khi gặp khó khăn thì dễ dao động, ngả nghiêng… Đối với cán bộ, đảng viên, công chức, bệnh quan liêu dẫn tới chỉ biết dùng mệnh lệnh, không biết giải thích, tuyên truyền, “không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng”. Trong công việc thì “Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn”; chậm chạp, làm cho qua chuyện. Chỉ biết lo cho mình, không quan tâm đến nhân dân, đến đồng chí. Trước mặt dân chúng thì lên mặt “quan cách mạng”. Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, còn thực tế thì “chỉ biết ăn sang, diện cho kẻng; chẳng những không lo phụng sự nhân dân, mà còn muốn nhân dân phụng sự mình”. Theo Hồ Chí Minh, bệnh quan liêu mệnh lệnh chỉ đưa đến một kết quả là hỏng việc; “thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí”. Quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ, là “kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta”; nó là bạn đồng minhcủa thực dân và phong kiến… Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta”. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân a) Về chủ nghĩa cá nhân và sự cần thiết phải chống chủ nghĩa cá nhân - Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể. Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu như: lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô, v.v”. Theo Hồ Chí Minh, “Chủ nghĩa cá nhân, đặt lợi ích riêng của mình, của gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích chung của dân tộc”; chủ nghĩa cá nhân là kẻ.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> thù của cách mạng, nó là nguồn gốc của những “căn bệnh” làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm tha hoá Đảng. Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa cá nhân là “địch nội xâm”, một trong những nguy cơ de dọa sự tồn vong của Đảng. “Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”. Do vậy, điều quan trọng là đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, khéo dỗ dành ta đi xuống dốc, vì thế càng nguy hiểm. Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng, nó chờ dịp để phát triển, che lấp đạo đức cách mạng. Vì vậy, vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Người kết luận: “Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”. Theo Hồ Chí Minh, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, lâu dài và gian khổ. Cuộc đấu tranh đó quyết liệt không kém cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù ngoại xâm bởi lẽ chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù không lộ nguyên hình, nó ẩn nấp trong tư tưởng, suy nghĩ của mỗi cá nhân và hành vi của mỗi cá nhân đó. Bác ví: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mói có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”. Trong đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh lưu ý: “đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân””. Người phân tích: “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu. b) Những biểu hiện và tác hại của chủ nghĩa cá nhân * Biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân - Bệnh nể nang: Đồng chí mình mắc khuyết điểm, lẽ ra phải kỷ luật với một hình thức tương xứng, nhưng vì cảm tình nên chỉ phê bình qua loa cho xong chuyện. Thậm chí có nơi còn che đậy cho nhau, lừa dối cấp trên, giấu giếm đoàn thể. - Bệnh kéo bè, kéo cánh, cục bộ, bản vị: Hồ Chí Minh dùng từ “cánh hẩu” trong một bộ phận cán bộ có chức, có quyền. Bè cánh được lôi kéo từ những người có họ hàng, là bà con, cháu, chắt, thân tín, thậm chí mở rộng ra là người cùng xóm, cùng quê; rồi “chén chú chén anh”, tung hô nhau, ủng hộ nhau, dùng số đông, lợi dụng và bóp méo nguyên tắc tập trung dân chủ, dồn những người dù có tốt, có tài nhưng không “hẩu” xuống để “tiêu diệt”, để cát cứ, thao túng; “Ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách gièm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống”. - Bệnh cá nhân: Đây là loại bệnh mà người mắc bệnh có khi được đánh giá là có “đức”, “hiền lành”, luôn luôn biết “đoàn kết”… Những người này thông thường trong cuộc họp, hội nghị, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> tranh, được lòng hết cả mọi người. Nếu có nói thì “khiêm tốn” nói bên ngoài, nói ở quán nước hoặc nơi nhậu nhẹt, chơi bời, thậm chí chờ bên nào có xu hướng “thắng” thì giơ tay ủng hộ. Rồi luồn cúi, đi “cửa sau”, thưa bẩm, vâng dạ, xun xoe, nịnh bợ. Những người này khi đã đạt mục đích “leo lên” rồi bắt đầu nịnh trên, nạt dưới, kéo bè kéo cánh… - Bệnh hữu danh vô thực: Làm việc không thiết thực, không tự chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch”. - Bệnh tham lam: Những người mắc phải bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. - Bệnh lười biếng: Lười biếng biểu hiện ở sự thỏa mãn với sự học, kiến thức vốn có của mình, Việc dễ thì tranh lấy cho mình. Việc khó thì đùn cho người khác. Gặp việc nguy hiểm thì tìm cánh để trốn tránh. - Bệnh tham ô: “Đứng về phía cán bộ mà nói tham Ô là: ăn cắp của công làm của tư. Đục khoét của nhân dân. ăn bớt của bộ đội. Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế. Nó có hại cho sự nghiệp cách mạng.. * Tác hại của chủ nghĩa cá nhân - “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không phịu học tập để tiến bộ”; vì thiếu đạo đức cách mạng, vì cá nhân chủ nghĩa mà sinh tham ô, “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... Nó trói buộc nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”. Do chủ nghĩa cá nhân mà phạm phải nhiều sai lầm, làm mất nhân cách con người, uy tín của cán bộ, đảng viên; chủ nghĩa cá nhân là một trong ba nguy cơ đối với Đảng cầm quyền. 3. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về nói đi đôi với làm 3.1 Khái niệm và sự cần thiết phải nói di đôi với làm - “Nói thì phải làm” là thể hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư tưởng và hành động, nhận thức và việc làm. Đối với mỗi người để thực hiện được việc thống nhất giữa lời nói với việc làm phải có nhận thức đúng và quyết tâm vượt qua thính mình. - Với các cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo thì lời nói đi đôi với việc làm lại càng quan trọng và cần thiết, vì cán bộ là gốc của mọi công việc là những tấm gương để quần chúng noi theo. - Nói đi đôi với làm còn là biểu hiện của sự gương mẫu, trung thực, trong sáng của cán bộ, đảng viên công chức, nêu gương trước nhân dân. Trong thực.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> hành đạo đức, “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. 3.2. Nội dung “nói đi đôi với làm"theo tư tưởng Hồ Chí Minh a) Nói phải đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, không được xuyên tạc, nói sai b) Nói đi đôi với làm, không được “nói một đàng làm một nẻo” c) Không được hứa mà không làm “Làm” ở đây chính là hành động, là hoạt động thực tiễn, là tổ chức thực hiện đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, từ việc nhỏ đến việc lớn mang ý nghĩa thiết thực. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên đã nói thì phải làm, nói ít, bắt đầu bằng hành động”. “Tốt nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước”. II. TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH NÊU CAO TINH THẦN TRÁCH NHIỆM, CHỐNG CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN, NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM 1. Tấm gương của Bác về nêu cao tinh thần trách nhiệm Những hoạt động của Người trong thời gian tìm đường cứu nước (191l-1920) là công việc tự giác, là trách nhiệm của một người dân đối với Tổ quốc, đối với nhân dân. Suốt gần mười năm trải qua bao nhiêu sự tìm tòi, chiêm nghiệm, khám phá, cuối cùng Người đã tìm được con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, hoàn thành trách nhiệm đầu tiên do chính mình đặt ra. Khi còn ở trong nhà tù của thực dân Anh ở Hồng Kông, Hồ Chí Minh không nề gian khổ, đau đớn, không tiếc cả tính mạng của mình, mà nỗi lo lớn nhất của Người là những công việc mình làm chưa xong, ai sẽ tiếp tục làm thay. Người tâm sự: Đối với người cách mạng, không gì khổ tâm bằng đã không hoạt động được, lại mất liên lạc với đoàn thể lâu ngày. Điều đó làm cho người cách mạng đêm ngày cô độc. Lời tâm sự của Người đã nói lên ý thức với tinh thần trách nhiệm cao cả: “Cả đời tôn chỉ theo một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”. 2. Tấm gương của Bác về chống chủ nghĩa cá nhân - Trước hết, Người là tấm gương chống sùng bái cá nhân. Trong giao tiếp với mọi người, dù là Chủ tịch nước, nhưng không bao giờ Hồ Chí Minh đặt mình cao hơn người khác. Khi được mọi người tung hô: “Hồ Chủ tịch muôn năm”, Người đề nghị mọi người ngồi xuống và nói “... trăm năm đã là quá. Bây giờ Bác chỉ muốn nằm một chút thôi...”. Hồ Chí Minh không bao giờ nghĩ mình là bậc vĩ nhân, không bao giờ đặt cái tôi cao hơn tập thể và sự nghiệp cách mạng của dân tộc. - Hồ Chí Minh nêu tấm gương sáng về phong cách sống chân thành, khiêm tốn, phấn đấu suốt đời vì nước, vì dân. Người viết: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đôi với việc”, “làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước”, “Không ham người tâng bốc mình”... Vào dịp kỷ niệm ngày sinh của.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> mình, Người thường tìm cách đi công tác vắng để tránh việc mọi người đến chúc thọ, tặng quà. Người đề nghị các cơ quan, các địa phương đến Ngày sinh của Người không tổ chức kỷ niệm, chúc thọ để tránh lãng phí thời giờ, tiền bạc. Khi đi vào cõi trường sinh, Người dặn không tổ chức điếu phúng linh đình để tiết kiệm thời giờ và tiền bạc của nhân dân. - Hồ Chí Minh khuyên mọi người sống trong sạch, không tham lam, không ham tiền tài, danh vọng, không lợi dụng chức quyền để mưu lợi cá nhân. Chuyện kể rằng, đồng bào Thái Bình gửi biếu Bác 2 chai nước mắm, Bác tặng người khác 1 chai và nói: Hôm chủ nhật đồng bào Thái Bình có cho tôi 2 chai nước mắm làm bằng tôm. “Vật khinh tình trọng”, từ chối không được, tôi phải nhận lấy cho bằng lòng anh em. Nay tôi xin gửi biếu Cụ 1 chai, và xin chúc Cụ mạnh khoẻ. Trong dịp Bác sang thăm Liên Xô, Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô gửi cho Bác 4.000 rúp, đồng chí thư ký của Bác 1.000 rúp để “tiêu vặt”. Trước khi rời Mátxcơva, Bác đã gửi lại Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô 5.000 rúp và nói đã được Nhà nước Liên Xô lo chu đáo rồi, không tiêu gì đến số tiền đó… 3. Tấm gương của Bác về “nói di đôi với làm” - Nói đi đôi với làm là một trong những phẩm chất sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho mọi thế hệ người Việt Nam học tập và làm theo. Theo các nhà nghiên cứu, toàn bộ cuộc đời Hồ Chí Minh thực hành năm nội dung căn cốt nhất: Thực hành lý luận; thực hành dân chủ; thực hành dân vận; thực hành đại đoàn kết; thực hành đạo đức cách mạng và đạo đức làm người. Thực hành nghĩa là nói thống nhất với làm, chú trọng làm, nói ít làm nhiều. - Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: Nói cái gì phải cho dân tin - nói và làm cho nhất quán. Với quan niệm đó, trong suốt cuộc đời mình, Người đã thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ nói đi đôi với làm. Ở Hồ Chí Minh, lời nói đi đôi với hành động, lý luận đi đôi với thực tiễn, nói là để mà làm, làm phải đúng như điều đã nghĩ, đã nói. Hơn nữa, Người nói ít nhưng làm nhiều, có những vấn đề đạo đức Người không nói mà chỉ làm. Thống nhất giữa lời nói và việc làm là nguyên tắc đạo đức của Hồ Chí Minh, là sự thể hiện tấm gương thực hành đạo đức của bản thân Người. Người quan niệm: muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước..."; tự mình phải chính trước mới giúp người khác chính, mình không chính mà muốn người khác chính là vô lý. “Nếu chính mình tham ô bảo người ta liêm khiết có được không? Không được. Mình trước hết phải siêng năng, trong sạch thì mới bảo người tatrong sạch, siêng năng được...”. Tấm gương nói đi đôi với làm của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ quan niệm của Người, từ lòng dạ trong sáng, chính tâm, thật sự nêu gương của Người. - Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bao nhiêu câu chuyện cảm động về việc nêu gương, nói đi đôi vời làm, tự mình làm trước. Năm 1945, trước nạn đói trên miền Bắc, Người đề xuất toàn dân tiết kiệm gạo để giúp đồng bào bị đói và Người kêu gọi: “tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Những năm Hồ Chí Minh sống và làm việc tại Phủ Chủ tịch, khi kinh tế khó khăn, đời sống của nhân dân còn nghèo khó, mọi người ăn cơm độn ngô, khoai, sắn Người đề nghị nhà bếp là: cán bộ, nhân dân ăn độn bao nhiêu phần trăm, nấu cơm độn cho Người từng ấy, giống như cán bộ nhân dân. Phẩm chất nói đi đôi với làm của Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta về lẽ sống “thật”, đối lập với giả, với dối như Người đã cảnh báo: “Có những người miệng thì nói: phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, nhưng bị vật chất dỗ dành mà phạm vào tham ô, lãng phí, hại đến Tổ quốc, nhân dân”. II. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI về giáo dục và đào tạo. 1- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. 2- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới. 3- Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. 4- Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. 5- Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học,trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. 6- Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. 7- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. A- Mục tiêu. 1- Mục tiêu tổng quát. Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. 2- Mục tiêu cụ thể. - Đối với giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước năm 2020. - Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương. - Đối với giáo dục nghề nghiệp, tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> và trách nhiệm nghề nghiệp. - Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. - Đối với giáo dục thường xuyên, bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất là ở vùng nông thôn, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống. - Đối với việc dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài, có chương trình hỗ trợ tích cực việc giảng dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần phát huy sức mạnh của văn hóa Việt Nam, gắn bó với quê hương, đồng thời xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị với nhân dân các nước. B- Nhiệm vụ, giải pháp. 1- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới giáo dục và đào tạo. 2- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. 3- Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan. Đổi mới phương thức đánh giá và công nhận tốt nghiệp giáo dục nghề nghiệp trên cơ sở kiến thức, năng lực thực hành, ý thức kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp. Có cơ chế để tổ chức và cá nhân sử dụng lao động tham gia vào việc đánh giá chất lượng của cơ sở đào tạo. 4- Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. 5- Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng. 6- Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. 7- Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. 8- Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý. 9- Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo. C- Tổ chức thực hiện. 1- Các cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tổ chức việc học tập, quán triệt tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động thực hiện Nghị quyết này. 2- Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, ban hành mới hệ thống pháp luật về giáo dục và đào tạo, các luật, nghị quyết của Quốc hội, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện Nghị quyết và giám sát việc thực hiện. 3- Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản dưới luật; xây dựng kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> 4- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết. * Tháng 9-10. III. Chỉ thị của Bộ GD& ĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp năm học 2014-2015. 1. Về công tác quản lý giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh việc rà soát, bổ sung, ban hành đồng bộ hệ thống văn bản về quản lý giáo dục từ Trung ương đến địa phương; triển khai công tác dự báo, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực của xã hội. Tiếp tục thực hiện phân cấp quản lý Nhà nước về giáo dục theo quy định của Chính phủ. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra giáo dục các cấp; nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra nội bộ của cơ sở giáo dục. Xây dựng và phát triển hệ thống dữ liệu quản lý thống nhất trong toàn ngành. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý và tổ chức các hoạt động giáo dục. Chủ động báo cáo, đề xuất, tham mưu với các cấp ủy đảng, chính quyền, phối hợp với các tổ chức chính trị, xã hội để xây dựng môi trường sư phạm xanh, sạch, đẹp trong và ngoài nhà trường. 2. Về tổ chức hoạt động giáo dục. 2.1. Nhiệm vụ chung của các cấp học. Tiếp tục triển khai học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở, thực hiện xoá mù chữ, nâng cao chất lượng giáo dục phổ cập; tăng cường công tác phân luồng, tư vấn hướng nghiệp và định hướng nghề nghiệp trong các trường phổ thông. Triển khai đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học, đặc biệt là đối với giáo dục dân tộc, giáo dục vùng khó khăn. Thực hiện đầy đủ và kịp thời các chế độ, chính sách ưu đãi đối với học sinh diện chính sách xã hội, học sinh ở miền núi, vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Thông tin, truyền thông kịp thời các chủ trương, giải pháp trong quản lý và đổi mới giáo dục. 2.3. Giáo dục phổ thông Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp đổi mới giáo dục phổ thông theo mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất học sinh. Chỉ đạo và hướng dẫn các trường phổ thông căn cứ chương trình giáo dục của cấp học chủ động xây dựng và triển khai kế hoạch hoạt động giáo dục trong năm học đáp ứng yêu cầu và phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Tổ chức đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông trên phạm vi cả nước và ở những địa phương có điều kiện để đề xuất các chính sách, giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Đổi mới đồng bộ phương pháp dạy, học và kiểm tra đánh giá học sinh. 3. Về phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Tổ chức quán triệt trong đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các chủ trương của Đảng, Chính phủ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo để mỗi nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có nhận thức đúng và hành động thiết thực triển khai các hoạt động đổi mới của ngành. Tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục trong việc thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá. Tiếp tục thực hiện quy hoạch phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Thực hiện đầy đủ và kịp thời các chế độ, chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, đặc biệt là đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo, vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. 4. Về tăng nguồn lực đầu tư và đổi mới cơ chế tài chính giáo dục Tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế tài chính giáo dục; sử dụng và quản lý có hiệu quả các nguồn đầu tư cho giáo dục. Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị dạy học, học liệu và hạ tầng công nghệ thông tin cho các cơ sở giáo dục để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Thực hiện lồng ghép các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất gắn với việc xây dựng trường chuẩn quốc gia, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nông thôn mới. IV. Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2014- 2015 theo cấp bậc nghành học và các văn bản khác liên quan đến cấp bậc nghành học trong năm học. A. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM.. 1. Tích cực triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. 2. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý đối với các cơ sở giáo dục trung học theo hướng tăng cường phân cấp quản lý, tăng quyền chủ động của nhà trường trong việc thực hiện kế hoạch giáo dục đi đôi với việc nâng cao năng lực quản trị nhà trường của đội ngũ cán bộ quản lý. Tạo điều kiện để các trường chủ động, linh hoạt trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục theo định hướng phát triển năng lực học sinh thông qua việc điều chỉnh nội dung dạy học theo hướng tinh giản. 3. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. 4. Tiếp tục đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh, bảo đảm trung thực, khách quan; phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học tập với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của giáo viên với tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau của học sinh; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> 5. Tập trung phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục về năng lực chuyên môn, kỹ năng xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục theo định hướng phát triển năng lực học sinh. B. CÁC NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CỤ THỂ. I. THỰC HIỆN KẾ HOẠCH GIÁO DỤC. 1. Tăng cường chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, linh hoạt, sáng tạo chương trình, kế hoạch giáo dục, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giáo dục. 2. Các trường chỉ đạo, hướng dẫn và tạo điều kiện cho các tổ/nhóm chuyên môn, giáo viên được chủ động lựa chọn nội dung, xây dựng các chủ đề tích hợp, liên môn, đồng thời xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp với các chủ đề và theo hình thức, phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực; chú trọng giáo dục đạo đức và giá trị sống, rèn luyện kỹ năng sống, hiểu biết xã hội, thực hành pháp luật; tăng cường các hoạt động nhằm giúp học sinh vận dụng kiến thức liên môn vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. vụ học tập ở trên lớp, cần chú trọng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở ngoài lớp học và ở nhà. 3. Các trường có đủ điều kiện về giáo viên, cơ sở vật chất, nhất là các trường có học sinh nội trú, bán trú, bố trí và huy động được các điều kiện tổ chức dạy học 2 buổi/ngày. 4. Tổ chức dạy học ngoại ngữ - Năm học 2014-2015, phòng chỉ đạo các trường THCS Phạm Văn Hinh, Dân tộc Nội trú, Vân Du, Thành Vân, Thạch Bình tham gia dạy học theo chương trình thí điểm của Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”; Trường THCS Phạm Văn Hinh cần xây dựng kế hoạch và triển khai tốt chương trình thí điểm tiếng Anh lớp 6,7. Các trường còn lại xây dựng kế hoạch và triển khai chương trình thí điểm Tiếng anh đối với lớp 6 trong năm học này, rút kinh nghiệm cho việc triển khai tiếp tục với các năm học tiếp theo đối với lớp 7, 8, 9. - Những trường chưa tham gia dạy thí điểm, tiếp tục triển khai dạy học Tiếng anh theo chương trình 7 năm như hướng dẫn năm học 2010-2011, về dạy học ngoại ngữ trong trường THCS; tích cực chuẩn bị điều kiện để chuyển sang dạy theo chương trình mới liên thông 10 năm từ cấp tiểu học. 5. Nâng cao chất lượng giáo dục nghề phổ thông tại các trường. Tiếp tục đa dạng các phương thức tư vấn, hướng nghiệp cho học sinh trung học. 6. Tiếp tục thực hiện tích hợp giáo dục đạo đức, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. 7. Tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật. 8. Phòng tổ chức khảo sát chất lượng lớp 6 theo đề của Sở để giao chỉ tiêu đầu vào và đánh giá sự tiến bộ về chất lượng đối với các nhà trường. Đối với lớp 7, 8, 9, các trường tự ra đề, tổ chức khảo sát, giao chỉ tiêu chất lượng cho giáo viên. 9. Tổ chức hoạt động đầu năm học và giáo dục ngoài giờ lên lớp. - Tổ chức tốt “Tuần sinh hoạt tập thể” đầu năm học mới. - Đối với các hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa, giáo dục kỹ năng sống, thực hiện theo tinh thần của Thông tư số 04/2014/TT-BGDĐT ngày 28/02/2014 ban hành quy định về Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống và hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> 10. Nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn: - Duy trì và phát triển trường trung học chất lượng cao giai đoạn 2015- 2020 tại THCS Phạm Văn Hinh, THCS Vân Du. - Tiếp tục đổi mới công tác tuyển sinh, tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi. II. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ. Tiếp tục đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục theo hướng khoa học, hiện đại, tăng cường mối quan hệ thúc đẩy lẫn nhau giữa các hình thức và phương pháp tổ chức hoạt động dạy học - giáo dục, đánh giá trong quá trình dạy học - giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục. 1. Đổi mới phương pháp dạy học - Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo. - Đẩy mạnh việc vận dụng dạy học giải quyết vấn đề, các phương pháp thực hành, dạy học theo dự án trong các môn học; tích cực ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với nội dung bài học. 2. Đổi mới hình thức tổ chức dạy học - Đa dạng hóa các hình thức học tập, chú ý các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, nghiên cứu khoa học của học sinh. - Tổ chức tốt và động viên học sinh tích cực tham gia Cuộc thi nghiên cứu khoa học kỹ thuật, Cuộc thi giải toán trên máy tính cầm tay và Cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn dành cho học sinh trung học. - Tiếp tục thực hiện tốt việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học theo Hướng dẫn số 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL ngày 16/01/2013 của liên Bộ GDĐT, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. - Khuyến khích tổ chức, thu hút học sinh tham gia các hoạt động góp phần phát triển năng lực học sinh như: Văn hóa - văn nghệ, thể dục – thể thao; các hội thi năng khiếu. - Tham gia sân chơi truyền hình của học sinh trung học, thi “Tìm hiểu lịch sử, văn hóa địa phương”; do Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Viễn thông Thanh Hóa, Đài phát thanh Truyền hình Thanh Hóa tổ chức . 3. Đổi mới kiểm tra và đánh giá - Chỉ đạo và tổ chức chặt chẽ, nghiêm túc, đúng quy chế ở tất cả các khâu ra đề, coi, chấm và nhận xét, đánh giá học sinh trong việc thi và kiểm tra. - Đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng chú trọng đánh giá phẩm chất và năng lực của học sinh. - Trong quá trình thực hiện các hoạt động dạy học, giáo dục, giáo viên cần coi trọng việc quan sát và hướng dẫn học sinh tự quan sát các hoạt động và kết quả hoạt động học tập, rèn luyện của các em. - Chủ động kết hợp một cách hợp lý, phù hợp giữa hình thức trắc nghiệm tự luận với trắc nghiệm khách quan, giữa kiểm tra lý thuyết và kiểm tra thực hành trong các bài kiểm tra. - Thực hiện nghiêm túc việc xây dựng đề thi, kiểm tra theo ma trận; triển khai phần kiểm tra tự luận trong các bài kiểm tra viết môn ngoại ngữ. Tiếp tục nâng.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> cao chất lượng việc thi cả bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết đối với môn ngoại ngữ. - Tăng cường ra câu hỏi, bài tập kiểm tra theo định hướng phát triển năng lực để bổ sung cho thư viện câu hỏi của trường. - Cuối năm học, Phòng tổ chức khảo sát chất lượng đại trà, chấm bài tập trung tại huyện các môn Toán, Ngữ văn, Tiếng Anh. III. PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN, CÁN BỘ QUẢN LÝ 1. Tăng cường xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý - Phòng GDĐT đã tổ chức việc tập huấn tại huyện về nội dung Dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh. - Chỉ đạo đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên về chuyên môn, nghiệp vụ theo chuẩn hiệu trưởng, chuẩn nghề nghiệp giáo viên theo các hướng dẫn của Bộ GDĐT. Tăng cường các hình thức bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý và hỗ trợ hoạt động dạy học và quản lý qua mạng internet. - Tiếp tục rà soát đánh giá năng lực giáo viên môn tiếng Anh, tổ chức bồi dưỡng theo chuẩn quy định của Bộ GDĐT đáp ứng việc triển khai Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”. Những giáo viên chưa đạt chuẩn năng lực Tiếng Anh hoặc chưa được bồi dưỡng về phương pháp dạy tiếng Anh theo chương trình thí điểm phải thực hiện tốt công tác tự bồi dưỡng và tham gia đầy đủ các lớp tập huấn. Đối với những giáo viên Tiếng Anh tham gia khảo sát năng lực chuyên môn năm học 2013-2014 chưa đạt yêu cầu và những giáo viên chưa tham gia Phòng sẽ tổ chức trong năm học 2014-2015. 2. Nâng cao chất lượng hoạt động chuyên môn của cán bộ quản lý, giáo viên - Triển khai diễn đàn trên mạng theo địa chỉ () để chỉ đạo và hỗ trợ hoạt động đổi mới sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn, mỗi tổ/nhóm chuyên môn xây dựng và triển khai ít nhất được một chủ đề trong thời gian 2 tháng. - Nâng cao chất lượng, phát huy hiệu quả hội thi giáo viên dạy giỏi, hội thi giáo viên tổng phụ trách Đội giỏi năm học 2013-2014. Chuẩn bị các điều kiện thi giáo viên giỏi và Khảo sát năng lực giáo viên các môn khoa học tự nhiên. Tham gia Cuộc thi dạy học theo chủ đề tích hợp dành cho giáo viên trung học. - Tiếp tục bồi dưỡng giáo viên về năng lực nghiên cứu khoa học và viết sáng kiến kinh nghiệm, làm đồ dùng dạy học. 3. Tăng cường quản lý đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục - Chủ động rà soát đội ngũ, bố trí sắp xếp để đảm bảo về số lượng, chất lượng, cân đối về cơ cấu giáo viên, nhân viên cho các môn học, nhất là các môn Tin học, Ngoại ngữ, Giáo dục công dân, Mỹ thuật, Âm nhạc, Công nghệ, Thể dục, Giáo dục quốc phòng - an ninh, cán bộ tư vấn trường học, nhân viên phụ trách thư viện, thiết bị dạy học; khắc phục tình trạng giáo viên không đúng chuyên môn dạy kiêm nhiệm. - Phòng GD&ĐT tăng cường kiểm tra đôn đốc, chấn chỉnh các hạn chế, yếu kém, Kịp thời điều động giáo viên dạy liên trường đối với các môn đặc thù, các môn ít tiết, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> IV. PHÁT TRIỂN MẠNG LƯỚI TRƯỜNG, LỚP; SỬ DỤNG HIỆU QUẢ CƠ SỞ VẬT CHẤT, THIẾT BỊ DẠY HỌC; ĐẦU TƯ XÂY DỰNG TRƯỜNG CHUẨN QUỐC GIA; PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG TRƯỜNG CHẤT LƯỢNG CAO 1. Phát triển mạng lưới trường, lớp Phòng Giáo dục và Đào tạo, Hiệu trưởng các nhà trường tiếp tục tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương quy hoạch mạng lưới trường lớp, chú trọng phát triển các trường sáp nhập theo mô hình THCS liên cấp THCS – Tiểu học, trường THCS Dân tộc nội trú, các trường bán trú tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh học tập; giải quyết đủ quỹ đất cho các trường học đủ theo quy định đối với trường chuẩn quốc gia. 2. Sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, thiết bị dạy học. 2.1. Sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí ngân sách Nhà nước kết hợp với các nguồn huy động hợp pháp khác từ công tác xã hội hóa giáo dục để tăng cường cơ sở vật chất, xây dựng phòng học bộ môn, thư viện, nhà đa năng, vườn trường.... Tăng cường thực hiện xã hội hóa giáo dục, vận động, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng, cải tạo cảnh quan đạt tiêu chuẩn xanh - sạch - đẹp, an toàn theo quy định; xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh thực sự để thu hút học sinh đến trường, tổ chức các hoạt động giáo dục. 2.2. Tổ chức kiểm tra, rà soát thực trạng thiết bị dạy học để có kế hoạch sửa chữa và bổ sung kịp thời theo danh mục thiết bị dạy học tối thiểu đã ban hành theo Thông tư số 19/2009/TT-BGDĐT ngày 11/8/2009 và Thông tư số 01/2010/TT-BGDĐT ngày 18/01/2010. Thực hiện nghiêm túc Công văn số 7842/BGDĐT-CSVCTBTH ngày 28/10/2013 về việc đầu tư mua sắm thiết bị dạy học, học liệu các cơ sở giáo dục đào tạo. 2.3. Quan tâm đầu tư các điều kiện và tận dụng tối đa cơ sở vật chất nhà trường để tổ chức dạy học 2 buổi/ngày, đảm bảo chất lượng giáo dục toàn diện theo hướng kết hợp dạy học văn hóa với tổ chức các hoạt động tập thể nhằm giáo dục tình cảm, đạo đức, giáo dục thể chất, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, đặc biệt là học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh thuộc khu vực vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. 3. Căn cứ vào Thông tư 47/2012/TT-BGDĐT ngày 07/12/2012 của Bộ GDĐT ban hành Quy chế công nhận trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học đạt chuẩn quốc gia. 4. Tiếp tục phát triển trường trung học chất lượng cao giai đoạn 2015 - 2020 - Tiếp tục thực hiện các giải pháp xây dựng và phát triển 2 trung tâm chất lượng cao: THCS Phạm Văn Hinh và THCS Vân Du. - Bước đầu thực hiện đề án Xây dựng Trường THCS Thạch Bình và trường THCS Thạch Quảng thành các trường có chất lượng cao trên cơ sở mở rộng quy mô về số lớp, bổ sung yêu cầu, nhiệm vụ và các điều kiện cần thiết tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục toàn diện để từ đó cùng với trường THCS Vân Du và Phạm Văn Hinh làm tiền đề cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn huyện; phấn đấu có một nền giáo dục chất lượng đảm bảo các yêu cầu của chiến lược phát triển giáo dục quốc gia và quy hoạch phát triển giáo dục Thạch Thành sau 2015..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> V. DUY TRÌ, NÂNG CAO KẾT QUẢ PHỔ CẬP GIÁO DỤC THCS 1. Tổ chức, triển khai thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 05/12/2011 của Bộ Chính trị về phổ cập giáo dục (PCGD) mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả PCGD dục tiểu học và PCGD THCS, tăng cường phân luồng học sinh sau THCS và xóa mù chữ cho người lớn và Nghị định số 20/2014/NĐ-CP ngày 24/3/2014 về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ. 2. Quan tâm việc củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo Phổ cập giáo dục các cấp, đội ngũ cán bộ giáo viên chuyên trách PCGD. 3. Tích cực tham mưu với các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương xây dựng kế hoạch, tập trung mọi nguồn lực với các giải pháp tích cực để nâng cao chất lượng giáo dục; củng cố, duy trì và nâng cao tỉ lệ, chất lượng đạt chuẩn PCGD THCS. VI. ĐỔI MỚI CÔNG TÁC QUẢN LÝ GIÁO DỤC 1. Tăng cường đổi mới quản lý việc thực hiện chương trình và kế hoạch giáo dục; củng cố kỷ cương, nền nếp trong dạy học, kiểm tra đánh giá, thi; bảo đảm khách quan, chính xác, công bằng. 2. Chú trọng quản lý, phối hợp hoạt động của Ban đại diện cha mẹ học sinh theo Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT ngày 22/11/2011; tăng cường quản lý chặt chẽ việc dạy thêm, học thêm theo Công văn số 318/PGD&ĐT- THCS ngày 04/9/2014 hướng dẫn dạy thêm, học thêm năm học 2014 – 2015 của Phòng Giáo dục và Đào tạo. Tăng cường chỉ đạo thu đúng quy định các khoản thu ngoài ngân sách, chống lạm thu theo hướng dẫn của Phòng Giáo dục và Đào tạo. 3. Tiếp tục chấn chỉnh việc lạm dụng hồ sơ, sổ sách trong nhà trường theo yêu cầu tại Công văn số 71/PGDĐT- THCS ngày 04/3/2014 của Phòng. Tăng cường sử dụng phần mềm máy tính trong việc quản lý hoạt động giáo dục. 4. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý. 5. Các nhà trường căn cứ vào tình hình thực tế của đơn vị mình để đăng kí nội dung đổi mới phù hợp trong năm học và có hệ thống giải pháp để thực hiện hiệu quả. 5. Những nội dung bản thân sẽ vận dụng vào thực tiễn giảng dạy và giáo dục tại đơn vị: - Chỉ thị số 03-CT/TW của bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. - Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI về giáo dục và đào tạo. - Chỉ thị của Bộ GD& ĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp năm học 2014-2015. - Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2014- 2015 theo cấp bậc nghành học và các văn bản khác liên quan đến cấp bậc nghành học trong năm học. 6. Những nội dung khó và những đề xuất về cách thức tổ chức bồi dưỡng nhằm giải quyết những nội dung khó này. Đề xuất: Không 7. Tự đánh giá. Sau khi bồi dưỡng bản thân đã tiếp thu và vận dụng được vào thực tiễn công tác khoảng 70-80% so với yêu cầu và kế hoạch..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> 1. Nội dung bồi dưỡng 2: Lịch sử địa phương Thanh hoá 2. Thời gian bồi dưỡng: Từ ngày 01 tháng 11 năm 2014 đến ngày 28 tháng 12 năm 2014 3. Hình thức bồi dưỡng: Bồi dưỡng bằng hình thức tự học. 4. Kết quả đạt được: * Tháng 11-12. LỊCH SƯ ĐIA PHƯƠNG THANH HOÁ I. THANH HOÁ TỪ THỜI KỲ TIỀN SỬ ĐẾN THẾ KỶ X 1. Tình hình kinh tế - Từ Cồn Chân Tiên đến giai đoạn Đồng Khối rồi Quỳ Chữ cho đến văn hoáĐông Sơn, kinh tế của người Thanh Hoá ngày càng phát triển và đạt được nhữngthành tựu rực rỡ: + Công cụ bằng đá dần dần được thay thế bằng công cụ đồng, sắt. + Kinh tế bao gồm nhiều ngành nghề trong đó nông nghiệp trồng lúa là ngành chủ đạo. + Nông nghiệp: bên cạnh việc trồng lúa tẻ, lúa nếp, nghề trồng rau củ, cây ănquả... đã có từ trước được chú trọng. + Hái lượm, săn bắt, chăn nuôi và đánh cá là những nghề phụ vẫn tồn tại và phát triển. + Chăn nuôi đã gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp nhưng chưa tách thành nghề kinh tế độc lập. + Nghề đánh cá, nghề đan lát, dệt vải, đúc đồng được chú trọng phát triển. + Ngành thủ công, nghề làm đồ gốm có nhiều thay đổi. Gốm sứ có nhiều bước phát triển, màu sác, hoa văn phong phú 2. Đời sống vật chất và tinh thần - Đời sống vật chất có những thay đổi lớn: + Ở nhà sàn, có cả nhà đất; nguyên liệu làm nhà gồm: gỗ, tre, nứa, lá... kiến trúc tựa vào bộ khung, mái cong hình thuyền và sàn thấp. + Thức ăn chính là cơm nếp, cơm tẻ, rau củ, quả hạt, tôm tép, trai, ốc,... có cả thịt các loại thú rừng do săn bắn và thịt gia súc, gia cầm... còn có các loại hương liệu, gia vị như gừng, mắm, muối. - Đời sống tinh thần thay đổi: + Phụ nữ lao động thì mặc váy quấn, váy quây đàn ông thường đóng khố. + Ngày hội nam nữ đều mặc váy xoè, mũ có cắm đầy lông chim. + Biết đeo các đồ trang sức, nam cũng như nữ đều đeo khuyên tai, vòng tay. + Đời sống tinh thần đã đạt tới mức khá cao: Dịp lễ tết, hội hè, trai gái ăn mặc đẹp với những bộ gõ rộn ràng, âm thanh vang xa của trống đồng, chuông đồng nhảy múa ca hát. Người chết chôn cất.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> trong vò, đã có tục hoả táng, cải táng trong thạp, thố, trong tiểu gốm. Tục cà răng, nhuộm răng. II. THANH HOÁ THỜI KỲ DỰNG NƯỚC VÀ CHỐNG QUÂN ĐÔ HỘ PHƯƠNG BẮC 1. Tình hình kinh tế - xã hội - Kinh tế: + Nghề trồng lúa nước phát triển mạnh. + Nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, nghề đánh cá cũng được chú trọng. + Thủ công nghiệp: nghề đúc đồng, nghề sắt, nghề gốm đã có những bước phát triển và thay đổi. Đặc biệt có sự kết hợp chặt chẽ trong kỹ thuật đúc đồng, rèn sắt, với những kinh nghiệm chế tác hình dáng mới của người Hán. + Hệ thống giao thông đường sông, đường biển, đường bộ mở rộng để giao lưu trao đổi hàng hoá. + Đô thị ra đời, phát triển như: Tư Phố - trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế của quận Cửu Chân, bên cạnh đó còn có: Đông Sơn, Xuân Lập, Hoàng Lý... + Nghề gốm có nhiều thay đổi và có hững bước phát triển: gốm được tạo lớp men mỏng, có màu đỏ tươi, mận chín. + Nghề làm đá phát triển thịnh vượng, hình thành các công xưởng nhỏ, chuyên làm đồ mỹ nghệ. - Văn hoá xã hội: + Các triều đại phong kiến phương Bắc đô hộ, ở nước ta đã tồn tại hai lối sống, hai nền văn hoá là văn hóa Việt và văn hoá Trung Quốc. Trong đó lối sống Việt, nền văn hoá Việt là chủ thể. + Thuần phong, mỹ tục được duy trì: thờ cúng tổ tiên, những anh hùng dân tộc. + Đạo Nho, đạo Phật, đạo Lão du nhập vào nước ta ngày một phát triển. 2. Phong trào kháng chiến chống xâm lược phong kiến phương Bắc - Những nét chính về Bà Triệu và cuộc khởi nghĩa: + Tên thật Triệu Thị Trinh, sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ, tức năm 226, em gái Triệu Quốc Đạt - một hào trưởng lớn ở miền núi huyện Quan Yên, thuộc quận Cửu Chân (nay là xã Định Công, huyện Yên Định) + Bà là người có sức khoẻ, có chí lớn và giàu mưu trí. Năm 19 tuổi, bà đã cùng anh trai tập hợp trai tráng trong vùng, luyện tập võ nghệ, hợp binh với anh nổi dậy khởi nghĩa. + Năm 248, cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Phú Điền (Hậu Lộc- Thanh Hoá) giành nhiều thắng lợi. + Do sự chênh lệch về lực lượng, qua địch vừa đánh, vừa mua chuộc, chia rẽ nghĩa quân. Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp. Bà Triệu hy sinh trên núi Tùng (Phú Điền- Hậu Lộc). Nơi đây nhận dân xây đền và lăng mộ ghi nhớ công ơn Bà. III. THANH HOÁ TRONG THỜI KỲ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM (Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV) 1. Tên gọi qua các thời kỳ và địa lí tự nhiên - Biết tên gọi Thanh Hoá qua các thời kỳ từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV như: đạo Ái Châu, Phủ Thanh Hoá, Thanh Hoá phủ lộ, trấn Thanh Đô, phủ Thiên Xương, thừa tuyên Thanh Hoa..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> - Hiểu địa lý tự nhiên có ba vùng rõ rệt: vùng ven biển, vùng đồng bằng, vùng trung du. - Các trung tâm kinh tế lớn tiêu biểu như Tư Phố, giáp Bối Lý và các tụ điểm lớn tập trung cư dân được hình thành: Cẩm Thuỷ, Thạch Thành, Hà Trung, Thọ Xuân, Triệu Sơn, Tĩnh Gia, Nông Cống... 2. Con người tỉnh Thanh - Thanh Hoá là một cộng đồng gồm nhiều dân tộc sinh sống: Kinh, Mường, Thái, Mông, Dao, Khơ Mú, Thổ, Tày. - Ngay từ thời tối cổ, người Thanh Hoá đã xây dựng nên văn hoá núi Đọ, làm nên Văn hoá Đông Sơn. - Người Thanh Hoá có truyền thống yêu nước, anh dũng trong đấu tranh bảo vệ quê hương đất nước. Đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động xây dựng quê hương. - Truyền thống quý báu, nhân dân Thanh Hoá qua nhiều thời kỳ lịch sử đã góp phần tô đậm thêm truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. 3. Tình Hình Kinh Tế, Văn Hoá, Giáo Dục * Sự chuyển biến về kinh tế - Nông nghiệp: Đến thế kỷ X đồng bằng Thanh Hoá đã được khai khẩn, mở rộng... Kinh tế nông nghiệp phát triển không chỉ đủ tự cung cấp mà còn góp phần cung cấp cho cả nước khi có chiến sự. - Thời Lý ruộng đất ở Thanh Hoá tiếp tục được mở rộng, cơ bản ruộng đất là của công, làng xã. Một số ruộng đất công làm thờ phụng, tế lễ, phong cấp cho con cháu, tướng lĩnh có công, làm các đền chùa. - Thời Trần tiếp tục quan tâm đến nông nghiệp: cho nạo vét, tu bổ, đào lại các sông thời Lê, Lý. Mở mang diện tích trồng trọt, phát triển sản xuất, tiến hành đắp đê, phòng lụt, khai khẩu đất hoang, cho phép được mua bán ruộng. Chế độ thuế khoá hợp lý. Một phần ruộng đất vua Trần thưởng công cho các quý tộc tướng lĩnh có công. - Thời Hồ, Hồ Quý Ly cho phát hành tiền giấy gọi là: “Thông bảo hội sao” vào năm 1396, ban hành chiếu “Hạn chế danh điền” Thủ công nghiệp và thương nghiệp: các nghề thủ công cổ truyền như đúc đồng, sắt, làm công cụ lao động, nghề ươm tơ, dệt vải, nghề đan lát, làm muối, đi biển... đến thời kỳ này phát triển thêm một bước. Thế kỷ X nghề dệt đã có những tiến bộ mới về sợi và chất lượng dệt nhiều trung tâm dệt nổi tiếng: Kẻ Đừng, Hoằng Lộc, Hoằng Phúc (Hoằng Hoá), Liên Phố (Thọ Xuân), Hồ Nam (Vĩnh Lộc), Thiệu Yên... Nghề đục đá: Qua bàn tay điêu luyện của nghệ nhân, nhiều sản phẩm bằng đá có giá trị cao về nghệ thuật dùng xây dựng, trang trí đền, chùa, miếu mạo, lăng tẩm. Nghề đúc đồng, sắt, nghề gốm, đan lát, và nghề đi biển có những bước phát triển rõ rệt. Nhiều trung tâm thương nghiệp sầm uất hình thành như: Tư Phố, Giáp Bối Lý; xuất hiện nhiều chợ để trao đổi mua bán: Chợ Giáng (Vĩnh Lộc), Chợ Bản (Yên Định), Chợ Sơn Môi (Quảng Xương), Chợ Sen (Nông Cống), Chợ Thịnh Mỹ (Thọ Xuân), Chợ Quăng (Hoằng Hoá)... * Sự phát triển của văn hoá giáo dục.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> - Văn hoá: Lưu giữ khá đậm nét truyền thống văn hoá của người Việt Cổ. Đó là nền văn hoá của chủ nhân trống đồng Đông Sơn, các trò diễn dân gian giữ gìn và phát huy: các trò Ngô, trò Tú Huần, hát Xuân Phả, trò Chèo chải, Múa đèn... Tập quán cổ và tín ngưỡng dân gian được duy trì và phát triển. Việc thờ cúng tổ tiên, người có công luôn luôn được đặt vào vị trí hàng đầu. Thanh Hoá giai đoạn này phật giáo đã hoà đồng và tín ngưỡng dân gian để tồn tại và phát triển. Nhiều đền, chùa được xây dựng và tu bổ: Chùa Sùng Nghiêm (Hậu Lộc), Linh Xứng (Hà Trung), Báo Ân (Vĩnh Lộc), Hương Nghiêm, Trịnh Nghiêm, Minh Nghiêm (Đông Sơn) Đến thời Trần nho giáo dần dần chiếm ưu thế. Tuy nhiên Phật giáo vẫn phát triển mạnh với nhiều chùa mới xuất hiện: Chùa Đông Sơn, Chùa Du Anh dưới chân núi Xuân Đài có Động Hồ Công nổi tiếng (Vĩnh Lộc) Chùa Cam Lộ (Hậu Lộc) Chùa Vân Lỗi (Nga Sơn) Chùa Hương Phúc (Quảng Xương). Không chỉ là nơi “tụng kinh niệm phật” mà còn là chứng tích ghi nhớ chiến công nhân dân chống giặc Nguyên Mông năm 1285. Giáo dục: Từ khoa thi đầu tiên tổ chức vào năm Ất Mão (1075) chế khoa minh kinh bác học cùng với sự phát triển của giáo dục là cơ sở góp phần xuất hiện những bậc đại nho ở Thanh Hoá vào các thời kỳ sau như: Lê Văn Hưu, Đào Tiêu, Lê Thân, Lê Quát... Chế độ giáo dục khoa cử được coi trọng, ngày càng qui củ và chính qui. Thanh Hoá đã có nhiều người đỗ đạt cao. Khoa thi chọn Tam Khôi (1247) Lê Văn Hưu đậu bảng nhãn, khoa thi Tam giáo Đào Diễn và Hoàng Hoa đỗ Ất khoa. Lê Văn Hưu, Đào Tiêu, Trương Phỏng đỗ bảng nhãn. Lê Thân, Lê Quát đỗ bảng nhãn. 4. Nhân Dân Thanh Hoá Tham Gia Các Cuộc Kháng Chiến Chống Phong Kiến Phương Bắc Xâm Lược * Lê Hoàn và những đóng góp của nhân dân Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Tống. - Lê Hoàn người làng Trung Lập, huyện Thuỵ Nguyên, phủ Thiệu Thiên(nay là xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh hoá) ông sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (941). - Mùa Xuân 981, quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy tiến vào xâm lược nước ta. Lê Hoàn trực tiếp chỉ huy “Vua tự làm tướng đi đánh giặc”. Ông tổ chức cho quân đóng cọc ở sông Bạch Đằng để chặn chiến thuyền địch. Nhiều trận chiến đấu ác liệt diễn ra trên sông Bạch Đằng, cuối cùng quân thuỷ bị đánh lui. - Trên bộ quân ta chặn đánh quân Tống quyết liệt, quân thuỷ bị đánh bại không kết hợp được với quân bộ nên địch bị tổn thất nặng buộc phải rút lui về nước. Thừa thắng quân ta truy kích tiêu diệt quân Tống đại bại, Hầu Nhân Bảo bị giết, cuộc kháng chiến hoàn toàn thắng lợi. - Cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi biểu thị ý chí quyết tâm chống ngoại xâm của quân dân ta với sự đóng góp to lớn của nhân dân Thanh Hoá mà đứng đầu là Lê Hoàn. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chứng tỏ một bướic phát triển của đất nước và khả năng bảo vệ độc lập dân tộc của Đại Cồ Việt. - Trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước của Lê Hoàn có phần đóng góp không nhỏ của nhân dân Thanh Hoá. Những tướng lĩnh tài ba như Đào Lang, ba anh em họ Trần làm tướng thuỷ quân, Lê Lương, Khuông Việt đại sư Ngô Chân.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Lưu, Thái hậu họ Dương... là những gương mặt tiêu biểu của đất Thanh Hoá trên các lĩnh vực quân sự, kinh tế, văn hoá giúp Lê Hoàn làm nên sự nghiệp. * Nhân dân Thanh Hoá góp phần và cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên của dân tộc - Năm 1285, được tin quân Mông Nguyên chuẩn bị xâm lược nước ta lần thứ 2, vua Trần mở Hội nghị Diên Hồng, mời các bậc phụ lão có uy tín trong cả nước về Thăng Long để bàn cách đánh giặc. - Tham gia hội nghị Diên Hồng ở Thanh Hoá có Chu Văn Lương (người làng Nam Ngạn, Thành phố Thanh Hoá), Mai Phúc Trường, người làng Dầu (Quang Lộc, Hậu Lộc). Tinh thần quyết chiến của Hội nghị Diên Hồng đã thông qua các bậc phụ lão về với nhân dân Thanh Hoá. - Chu Văn Lương tập hợp những trai tráng khoẻ mạnh, thạo nghề sông nước, luyện tập lên đường ra bắc phối hợp với quân đội nhà Trần. - Mai Phúc Trường tổ chức dân binh luyện tập võ nghệ, tích trữ lương thảo sẵn sàng chiến đấu. - Trong các trận chiến đấu, Thanh Hoá không chỉ là chiến trường mà có lúc còn là trung tâm của bộ chỉ huy. Rất nhiều tấm gương anh dũng chiến đấu chống quân Nguyên của nhân dân Thanh Hoá còn lưu truyền đến nay như: Chu Văn Lương, Đại toái Lê Mạnh, Mai Phúc Trường, đặc biệt là Phạm Sĩ người được Phạm Ngũ Lão tiến cử với Trần Hưng Đạo và được cử làm tướng có nhiều công lao đánh giặc, sau này được nhà vua phong thái ấp ở trang Trân Xá (Hà Bắc). IV. THANH HOÁ TỪ THẾ KỶ XV ĐẾN THẾ KỶ XVI CUỘC KHỞI NGHĨA LAM SƠN (1418- 1423) 1. Lê Lợi và hoạt động của nghĩa quân trên đất Thanh Hoá - Lê Lợi sinh ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu, tức ngày 10 tháng 9 năm 1385 tại quê mẹ làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương (nay là xã Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá). - Là một hào trưởng có uy tín lớn ở vùng Lam Sơn. Quân Minh đô hộ nước ta, ông đã dốc hết tài sản để chiêu tập nghĩa sĩ, bí mật liên lạc với các hào kiệt, xây dựng lực lượng và chọn Lam Sơn làm căn cứ cho cuộc khởi nghĩa. - Đầu năm 1416, Lê Lợi cùng 18 người thân tín nhất trong bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa đã tổ chức hội thề ở Lũng Nhai (thuộc núi rừng Lam Sơn), làm lễ tế cáo trời đất, văn thề, kết nghĩa anh em quyết tâm đánh giặc cứu nước. - Ngày 7 tháng 2 năm 1418 (tức ngày 2 tháng 1 năm Mậu Tuất). Lê Lợi cùng toàn thể nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn và tự xưng là Bình Định Vương, truyền lệnh khắp nơi kêu gọi nhân dân cùng nổi dậy chống giặc cứu nước. - Cuộc khởi vừa dấy lên quân Minh lập tức tập trung lực lượng đàn áp. Tổng binh Lý Bân phái Đô đốc Chu Quang điều quân từ thành Tây Đô lên vây quét vùng Lam Sơn, buộc nghĩa quân phải rút lên xứ Mường Một (Thanh Hoá). Quân Minh ráo riết đuổi theo, Lê Lợi phải rút lên núi Chí Linh. Ở đây nghĩa quân rơi vào tình thế hiểm nghèo. Lê Lai đã cải trang làm Lê Lợi dẫn 500 quân và 2 voi chiến tự xưng là “Chúa Lam Sơn” kéo ra anh dũng tập kích địch. Lê Lai.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> cùng toán cảm tử quân đã hy sinh quân Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi nên rút quân. - Lê Lợi trở về căn cứ Lam Sơn, xây dựng lực lượng chiến đấu. Nghĩa quân đã tập kích và đánh bại nhiều cuộc truy kích của địch, tiêu diệt hàng ngàn tên. Tháng 5 năm 1418 quân Minh nổ cuộc vây quét, khủng bố lớn, nghĩa quân buộc phải rút lên núi Chí Linh lần thứ hai. - Được sự ủng hộ của nhân dân, nghĩa quân ngày một mạnh. Cuối năm 1418 và liên tiếp năm 1419 đến cuối năm 1420 nghĩa quân liên tiếp đánh thắng các cuộc vây quét của quân Minh. Đặc biệt, trong trận Sách Khôi nghĩa quân đã tiêu diệt hàng ngàn tên địch, thu hàng trăm ngựa. - Tháng 3 năm 1423, quân Minh do tổng binh Trần Trí chỉ huy từ Đông Quan đánh lên. Trước tình hình đó, Lê Lợi hạ lệnh rút lên núi Chí Linh lần thứ ba. Ở đây nghĩa quân phải sống những ngày gian khổ. Trong hơn hai tháng trời thiếu lương thực, Lê Lợi phải cho giết cả voi, ngựa (kể cả con ngựa của ông) để nuôi quân. - Trước tình thế bất lợi và khó khăn như vậy, Lê Lợi chủ trương tạm hoà và được quân Minh chấp thuận. Vì vậy, từ tháng 3 năm 1423 đến tháng 10 năm 1924 là thời kỳ tạm hoà của nghĩa quân để xây dựng lực lượng. Tháng 5 năm 1423, nghĩa quân trở về căn cứ Lam Sơn. 2. Đóng góp của nhâ dân Thanh Hoá trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn - Thanh Hoá là nơi xuất phát, căn cứ vững chắc của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đất Lam Sơn với rừng núi hiểm trở thuận lợi cho việc “công thủ” nhân dân đoàn kết một lòng đảm bảo vững chắc cho nghĩa quân tồn tại và phát triển cùng với núi rừng Lam Sơn đã đùm bọc, che chở, bảo vệ nuôi dưỡng cho nghĩa quân. - Ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa các huyện trong tỉnh đều có người về tụ nghĩa: Lê Tông Kiều quê huyện Quảng Xương, Trịnh Khả quê huyện Vĩnh Ninh (nay là huyện Vĩnh Lộc), Trịnh Đồ, Đỗ Bí, Hà Mộng, Lê Khương, Hà Độ quê huyện Nông Cống, Nguyễn Chích quê huyện Đông Sơn. - Trong hội thề Lũng Nhai (không kể Lê Lợi, đã có 11/18 người là người xứ Thanh như: Lê Lai, Lê Lý, Lê Hiển, Lê Bôi, Lê Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Đinh Liệt, Trịnh Khả, Trương Lôi, Vũ Uy) phần lớn trong số đó là các tướng lĩnh tài ba của nghĩa quân Lam Sơn sau này. - Trong việc khai hoang, sản xuất, đảm bảo cung cấp lương thực cho nghĩa quân đồng bào các dân tộc thiểu số vùng núi phía Tây Thanh Hoá đã ủng hộ nhiệt tình về mọi mặt cho nghĩa quân: Xây dựng căn cứ, đào hào đắp luỹ, xây dựng kho tàng, nhà cửa...Truyền thuyết dân gian còn lưu truyền biết bao câu chuyện cảm động về mối tình quân dân đoàn kết nhất trí, hết lòng quyên góp lương thực. - Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, phụ nữ Thanh Hoá đã góp phần tích cực trong việc xây dựng căn cứ, cung cấp lương thực, tiếp tế, cứu thương, bảo vệ tướng lĩnh... Không những thế, phụ nữ Thanh Hoá còn tham gia chiến đấu anh dũng chống giặc Minh. Tiêu biểu là Phạm Thị Ngọc Trần (vợ Lê Lợi) ngoài việc tham gia lo việc lương thực nuôi quân bà còn là tấm gương dũng cảm quên mình vì việc lớn. Bên cạnh đó còn nhiều nữ tướng xông pha trận mạc như: Hồng.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Nương Công Chúa (con gái Lê Lợi), Nguyễn Thị Bành (vợ tướng quân Nguyễn Chích). V. CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC CỦA NHÂN DÂN THANH HOÁ TỪ CUỐI THẾ KỶ XVIII ĐẾN HẾT CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ NHẤT (1918) * Thanh Hoá hưởng ứng phong trào Cần vương - Ngày 13 tháng 7 năm 1885 Hàm Nghi ra Chiếu Cần vương, kêu gọi nhândân ra sức phò vua cứu nước. Hưởng ứng Chiếu Cần Vương nhân dân các dân tộctrong tỉnh Thanh Hoá từ miền ngược đến miền xuôi đều đứng lên giúp Vua cứunước. - Phong trào Cần vương ở Thanh Hoá đã được qui tụ và có chỉ đạo chung, Trần Xuân Soạn được vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết cử phụ trách tỉnh ThanhHoá. Phạm Bành phụ trách vùng đồng bằng, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước làm chủvùng núi, xây dựng căn cứ liên hệ với nghĩa quân Lang Văn Thiết, Lang Văn Hạnh ở Nghệ An. * Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong phong trào Cần vương ở Thanh Hoá - Khởi nghĩa Ba Đình (1886 - 1887) + Ba Đình thuộc huyện Nga Sơn. Trung tâm căn cứ của cuộc khởi nghĩa là ba làng: Mậu Thịnh, Thượng Thọ và Mỹ Khê. Chỉ huy cứ điểm là Phạm Bành và Đinh Công Tráng, bên cạnh còn có Nguyễn Khế, Nguyễn Toại. + Tháng 10 năm 1886 nghĩa quân tổ chức phục kích trên Quốc lộ 1 và đánh tan hai cuộc tấn công của quân Pháp. Tháng 12 năm 1886 đến tháng 1 năm 1887, quân Pháp tập trung một lực lượng lớn gồm 2 488 tên do đại tá Bơ- rít- xô chỉ huy mở cuộc tấn công quy mô vào căn cứ. Suốt 34 ngày đêm cầm cự, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của giặc. + Cuối cùng quân Pháp đã phun dầu thiêu trụi các luỹ tre, triệt hạ và xoá tên 3 làng trên bản đồ hành chính. Nguyên Thế, Đinh Công Tráng hy sinh, để giữ trọn khí tiết Phạm Bành đã tự sát. + Nghĩa quân phải mở đường máu rút lên Mã Cao (Yên Định) tiếp tục chiến đấu thêm một thời gian dài rồi tan dã. + Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại, nhưng đã nêu một tấm gương chiến đấu anh dũng sáng ngời, gây cho Pháp nhiều tổn thất, cổ vũ mạnh mẽ cho nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân Thanh Hoá nói riêng tiếp tục đứng lên chống Pháp giải phóng dân tộc. Tên của ba làng đã đi vào lịch sử chống Pháp như một mốc son. - Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886 - 1892) + Hùng Lĩnh thuộc huyện Vĩnh Lộc. Trung tâm của căn cứ là các ngọn núi Cù Mông, Đa Bút của dãy Hùng Lĩnh nay là xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. + Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là Tống Duy Tân quê ở Đông Biện, nay là Bồng Trung, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc. Ông vốn là người họ Nguyễn ở Tống Sơn (nay là Hà Trung) nhưng sau đổi thành họ Tống..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> + Khi triều đình Huế ký hiệp ước đầu hàng Pháp, để giữ trọn khí tiết và thanh danh ông từ quan về quê mở trường dạy học và bí mật chuẩn bị kháng chiến, tổ chức phục kích tiêu diệt giặc. + Ngày 8 tháng 11 năm 1885 và ngày 22 tháng 12 năm 1885 nghĩa quân đã đánh trả hai cuộc tấn công của Pháp tiêu diệt và làm bị thương nhiều quân địch và đáng chú ý là trận Vân Đồn (Xuân Châu- Thọ Xuân). + Quân Pháp đã tổ chức nhiều cuộc tấn công lớn bằng cả đại bác vào căn cứ của nghĩa quân. Nghĩa quân phải vượt qua Vĩnh Lộc, Thạch Thành, rồi về Yên Định đến Vạn Lai lập căn cứ phục kích đánh giặc ở nhiều nơi như Cầu Quan (Nông Cống), Yên Thái khi chúng lên đường rút về tỉnh lị. + Nhưng về sau do bị quân Pháp tổ chức tấn công và bao vây. Biết lực lượng chưa đủ mạnh Tống Duy Tân và Cao Điền cho nghĩa quân giải tán chờ cơ hội. Tháng 9 năm 1892 Tống Duy Tân về hang Nhâm Kỷ ở Bá Thước để xây dựng căn cứ. Ngày 5 tháng 10 năm 1892 Tống Duy Tân bị bắt ở hang Dong (Thiết Ống, Bá Thước). + Cuộc khởi nghĩa kết thúc để lại tấm gương hy sinh của nghĩa quân và đặc biệt là thủ lĩnh Tống Duy Tân. Để lại bài học quí về chiến lược chiến thuật trong chiến tranh du kích. - Phong trào chống Pháp của đồng bào miền núi do Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước lãnh đạo * Khởi nghĩa của Hà Văn Mao - Hà Văn Mao ông là người dân tộc Mường ở Điền Lư, Châu Quan Hoá (nay là Điền Lư huyện Bá Thước) Trung tâm của cuộc khởi nghĩa là Mường Khê sau này mở rộng địa bàn hoạt động tới Thọ Xuân, Cẩm Thuỷ. Nghĩa quân đã chặn đánh nhiều cuộc hành quân của Pháp giành thắng lợi. - Tháng 11 năm 1887 quân Pháp do thiếu tá Hen- Bơ- Boa và đại uý Pátxcan mở cuộc tấn công vào nghĩa quân. Do lực lượng quá chênh lệch ông đã cho nghĩa quân giải tán, còn mình để giữ trọn khí tiết ông đã vào rừng tuần tiết. * Khởi nghĩa của Cầm Bá Thước - Cầm Bá Thước ông là người dân tộc Thái quê ở Mường Chiềng Bán thuộc tổng Trịnh Vạn (nay thuộc xã Vạn Xuân, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá). - Căn cứ của cuộc khởi nghĩa ở Trịnh Vạn nơi có vùng núi hiểm trở. Ông đã cho xây dựng ở đây một hệ thống đồn trại kiên cố, bố trí giàn đá, lao gỗ, bãi chông dọc theo núi cao, sông sâu. Sau này mở rộng địa bàn hoạt động sang Ngọc Lặc, Như Xuân, Quan Hoá, Quỳ Châu (Nghệ An). - Tháng 2 năm 1894 Pháp đưa quân lên đóng rải rác ở đồn Cửa Đạt, Thổ Sơn, Nhiên Trạm để đè bẹp nghĩa quân. Để giành thế chủ động sáng ngày 6 tháng 2 năm 1844 Cầm Bá Thước cho quân tấn công quân Pháp gây cho Pháp những tổn thất lớn. - Ngày 10 tháng 5 năm 1895 do có tay sai dẫn đường, quân Pháp tổ chức tấn công với qui mô lớn vào Hón Bòng. Ngày 13 tháng 5 năm 1895 Cầm Bá Thước cùng vợ cả, con trai và 12 nghĩa quân bị sa vào tay giặc cuộc khởi nghĩa kết thúc..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> - Sự hi sinh của Cầm Bá Thước đã để lại trong lòng người dân miền núi tỉnh Thanh và nhân dân Thanh Hoá cùng nhân dân cả nước niềm tin bất diệt để tiếp tục cuộc chiến đấu chống Pháp giành thắng lợi. 3. Đặc điểm, ý nghĩa phong trào Cần vương ở Thanh Hoá - Đặc điểm: Phong trào nổ ra sớm và mạnh mẽ, tỏ rõ ý thức thiết tha với độc lập dân tộc, thể hiện sức mạnh đoàn kết của nhân dân kiên quyết đánh bại quân xâm lược. Đây là nhân tố quyết định sự bùng nổ rộng khắp và sức sống mãnh liệt của phong trào. + Phong trào diễn ra một diện rộng càng về sau qui mô càng lớn. Điểm đặc biệt là phong trào ở đồng bằng, trung du tan vỡ thì phong trào ở miền núi lại phát triển với xu hướng liên kết rộng, chặt chẽ với các phong trào ngoài tỉnh. + Phong trào mang tính dân tộc và nhân dân sâu sắc, thể hiện cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc trong tỉnh từ miền ngược đến miền xuôi. + Lãnh đạo phong trào là các văn thân, sĩ phu, thổ ty, lang đạo và cả nông dân. Phương thức đấu tranh phong phú với mọi vũ khí có trong tay. + Phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX cuối cùng đều thất bại. Nguyên nhân chủ yếu là do phân tán, thiếu đường lối kháng chiến thống nhất giữa các vùng, vũ khí còn thô sơ và đặc biệt nổ ra vào lúc thực dân Pháp còn mạnh, đủ sức để đối phó và dập tắt phong trào. - Vị trí, ý nghĩa lịch sử: Thanh Hoá là một trong những trung tâm phát triển manh mẽ của phong trào Cần Vương. Thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân các dân tộc trong tỉnh Thanh Hoá. + Phong trào đã gây cho Pháp những tổn thất nặng nề, góp phần với phong trào của cả nước làm chậm quá trình “bình định’’của Pháp. + Tuy thất bại nhưng phong trào đã nêu một tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết của nhân dân, sự hết lòng của nhân dân Thanh Hoá tham gia ủng hộ kháng chiến. Nêu những tấm gương sáng ngời về tinh thần yêu nước, phong trào; để lại nhiều bài học quý báu và xây dựng và tổ chức lực lượng, phát triển phong trào cách mạng, tiến tới giải phóng dân tộc sau này. VI. THANH HÓA TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1945 1. Phong trào yêu nước của nhân dân Thanh Hoá từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến trước thành lập Đảng bộ - Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tư bản độc quyền Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa để bù đắp những thiệt hại do chiến tranh gây ra trong đó có Việt Nam. Tại Thanh Hóa chúng không từ một thủ đoạn nào nhằm vơ vét tiền của, bòn rút sức lao động của nhân dân. - Trong thời gian này, cùng với cả nước phong trào đấu tranh của nhân dân Thanh Hoá diễn ra sôi nổi. Tiêu biểu là cuộc vận động đòi trả tự do cho nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu tiêu biểu như: Ở Cẩm Thuỷ, Vĩnh Lộc đã cử đại biểu về thị xã Thanh Hoá đón tiếp cụ Phan khi Cụ bị nhà cầm quyền giải đi qua Thanh Hoá. Phong trào lên đến đỉnh điểm vào dịp tổ chức đám tang Phan Châu Trinh. Lễ truy điệu được nhân dân Thanh Hoá cử hành trọng thể, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, nhất là thanh thiếu niên học sinh..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> - Những hoạt động trên trở thành những cuộc biểu dương hùng hậu, thể hiện lòng yêu nước và nguyện vọng giải phóng dân tộc của nhân dân Thanh Hoá. - Từ phong trào yêu nước đã xuất hiện một vài nhóm chính trị của thanh niên, học sinh, sinh viên đấu tranh, bãi khoá liên tiếp nổ ra trong các trường học đòi nhà cầm quyền xoá bỏ lệnh cấm nói tiếng Việt trong giờ học, chống bọn Pháp lăng mạ người Việt Nam. - Năm 1925 đồng chí Lê Hữu Lập được cử về nước và hoạt động cách mạng ở Thanh Hoá. Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 5 năm 1926, đồng chí Lê Hữu Lập đã thành lập ra “Hội đọc sách báo cách mạng” (tại số nhà 25 phố hàng Than thị xã Thanh Hoá), nhằm tập hợp những thanh niên tiên tiến để truyền bá chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc. - Hội đọc sách báo cách mạng đã nhanh chóng phát triển ở nhiều địa phương, nhất là Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Đông Sơn. Trên cơ sở Hội đọc sách báo cách mạng, các tiểu tổ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, BCH tỉnh bộ lâm thời đã được bầu. Sự ra đời của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên tỉnh Thanh Hoá báo hiệu một phong trào vận động cách mạng mới bắt đầu. - Cuối năm 1926 một tổ chức yêu nước của tầng lớp tiểu tư sản trí thức Thanh Hoá ra đời, đó là Phục Việt tức Tân Việt cách mạng Đảng. Cơ sở của tổ chức này cũng phát triển nhanh chóng nhất là ở vùng Thiệu Hoá. Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và Tân Việt cách mạng Đảng tuy là hai tổ chức khác nhau, nhưng qúa trình hoạt động cách mạng cả hai tổ chức đều tuyên truyền tư tưởng cách mạng theo xu hướng vô sản nên đã lôi cuốn được đông đảo quần chúng yêu nước tham gia. Những hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và Tânviệt cách mạng Đảng đã tạo tiền đề quan trọng cho sự hình thành và ra đời của tổ chức cộng sản trên đất Thanh Hoá. 2. Sự thành lập Đảng bộ Đảng cộng sản Thanh Hoá và phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ (1930 - 1939). - Sự thành lập Đảng bộ: Ngày 3-2-1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Sau khi Đảng ra đời, Xứ uỷ Bắc kỳ rất quan tâm đến việc thành lập tổ chức Cộng sản ở Thanh Hoá. Được sự chỉ đạo của Xứ uỷ, đồng chí Nguyễn Doãn Chấp đã về Thanh Hoá bắt mối liên lạc với các hội viên Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở các huyện Đông Sơn, Thiệu Hoá, Thọ Xuân và xúc tiến việc thành lập các chi bộ cộng sản. - Cuối tháng 6 năm 1930 chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở Hàm Hạ (nay thuộc xã Đông Tiến- Đông Sơn). - Đầu tháng 7 năm 1930, chi bộ cộng sản thứ hai ra đời ở Phúc Lộc, Thiệu Hoá (nay là xã Thiệu Tiến). - Giữa tháng 7 năm 1930 tại làng Yên Trường (Thọ Lập- Thọ Xuân) chi bộ cộng sản thứ 3 ra đời. - Như vậy chỉ trong một thời gian ngắn ở Thanh Hoá đã có ba chi bộ cộng sản ra đời. - Ngày 29 tháng 7 năm 1930 dưới sự chỉ đạo của Xứ uỷ Bắc kỳ, Hội nghị thành lập Đảng bộ Đảng cộng sản tỉnh Thanh Hoá được tiến hành dưới sự chủ.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> trì của đồng chí Lê Doãn Chấp tại nhà đồng chí Lê Văn Sĩ (làng Yên Trường Thọ Xuân). - Sự ra đời của Đảng bộ Đảng cộng sản Thanh Hoá đã chứng tỏ sự trưởng thành về ý thức chính trị của quần chúng công nông. Từ đây trở đi nhân dân Thanh Hoá đã có một tổ chức chân chính trực tiếp lãnh đạo, mở ra thời kỳ phát triển của phong trào cách mạng trong tỉnh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, phong trào cách mạng Thanh Hoá trở thành một bộ phận hữu cơ của cách mạng Việt Nam. - Đảng bộ Đảng cộng sản Thanh Hoá ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của cách mạng tỉnh nhà. Phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ (1930 – 1939): Sau khi Đảng bộ thành lập, cùng với Nông hội đỏ đã phát động quần chúng đấu tranh và treo cờ búa liềm ở phủ lỵ Quảng Hoá (Vĩnh Lộc), phủ lỵ Thọ Xuân, những cuộc đấu tranh của quần chúng công nông diễn ra mạnh mẽ. - Tháng 8 năm 1930 công nhân đồn điền Vạn Lại đấu tranh đòi chủ tăng lương giảm giờ làm. Công nhân đồn điền Yên Mỹ, công nhân nhà máy diêm Hàm Rồng đấu tranh đòi tăng tiền công khoán, giảm định mức khoán. - Tại các tổng Quảng Thì (Thọ Xuân), Xuân Lai (Thiệu Hoá)...các cuộc đấu tranh của nông dân được tổ chức kịp thời đòi chia công điền công thổ, chống phù thu lạm bổ, chống cường hào sách nhiễu. Sôi nổi nhất là cuộc đấu tranh ở làng Yên Trường, Chỉ Tín (Thọ Xuân). - Ngày 1 tháng 5 năm 1931 cờ đỏ búa liềm được treo ở ga Thanh Hoá, truyền đơn được rải nhiều nơi kêu gọi ủng hộ Xô Viết- Nghệ Tĩnh; kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, tạo nên một không khí cách mạng sôi động khiến chính quyền địch phải lo tìm cách đối phó. Cuộc khủng bố đánh phá ác liệt của địch kéo dài nhằm bóp chết Đảng bộ, tiêu diệt phong trào nhưng không diệt được sức sống mãnh liệt của cách mạng. Vào những năm 1936 đến 1939 phong trào đấu tranh lại diễn ra sôi nổi trong tỉnh. - Tháng 8 năm 1936 phong trào “Đông Dương đại hội” diễn ra sôi nổi trong cả nước. Đảng bộ đã tiến hành vận động nhân dân hưởng ứng phong trào một cách rộng rãi. Khắp nơi Uỷ ban hành động được thành lập, đẩy mạnh việc tập hợp yêu sách, kiến nghị của nhân dân gửi lên Công sứ tỉnh yêu cầu giải quyết những quyền lợi tối thiểu về sinh hoạt dân chủ. Phong trào Đông dương Đại hội đã hình thành một mặt trận nhân dân thống nhất rộng rãi. - Năm 1937 phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, các hội tương tế ái hữu ra đời ở nhiều nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, ở các làng, xã, huyện. Đặc biệt năm 1937 Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi to lớn trong cuộc vận động bầu cử Viện dân biểu trung kỳ. Sang năm 1938 phong trào phát triển thành cao trào cách mạng. cuộc đấu tranh của công nhân đòi tăng lương giảm giờ làm, chống cúp phạt nổ ra liên tiếp ở các nơi: Mỏ sắt, Thanh xá, núi Bần, Nhà máy rượu Nam Đổng ích, đồn điền Yên Mỹ, nhà máy diêm Hàm Rồng. - Tháng 2 năm 1938, ba nghìn quần chúng của bốn huyện Yên Định, Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc tổ chức mít tinh tại làng Chiềng với những khẩu hiệu đòi tự do dân chủ, ủng hộ Liên Xô. Chỉ tính riêng trong năm 1938 đã có hàng.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> trăm cuộc đấu tranh của nông dân, trong đó cuộc đấu tranh chống dự án thuế mới của chính quyền thực dân đã giành thắng lợi. - Sự phát triển của phong trào cách mạng trong những năm 1930 đã tạo ra một lực lượng cách mạng đông đảo trong tỉnh, chuẩn bị đưa phong trào đấu tranh lên giai đoạn mới. 3. Phong trào cách mạng từ năm 1939 đến trước Tổng khởi nghĩa giành chính quyền (1945) - Tháng 9 năm 1940 Nhật kéo vào Việt Nam và ngày càng mở rộng sự chiếm đóng. Từ đây nhân dân Việt Nam phải chịu một cổ hai tròng. Mâu thuẫn giữa nhân dân với bọn cướp nước trở nên gay gắt. Trước tình hình trên, Trung ương Đảng chủ trương đưa nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật lên hàng đầu. Chủ trương này đã kịp thời đến với Đảng bộ Thanh Hoá. - Tháng 11 năm 1940 tại làng Thuần Hậu (Hậu Lộc), các đồng chí Đảng viên lãnh đạo khu vực đã tiến hành Hội nghị, thành lập cơ quan lãnh đạo thống nhất của Đảng bộ và đề ra biện pháp phát triển phong trào cách mạng. Để tập hợp quần chúng tham gia phong trào cứu quốc, mặt trận phản đế cứu quốc đã được thành lập. - Mặt trận phản đế cứu quốc nhanh chóng phát triển ở nhiều địa phương trong tỉnh như Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Định. Các đội tự vệ cứu quốc được thành lập ở các tổng, xã và trở thành lực lượng quan trọng trong cuộc đấu tranh. - Năm 1941 cao trào phản đế cứu quốc đã dâng lên cuồn cuộn. Phong trào chống thuế diễn ra ở nhiều nơi như: Phong Lộc, Xá Lê, Long Linh (Thiệu Hoá) Trường Xuân (Hậu Lộc). Tiêu biểu nhất là Ngọc Trạo, phong trào phản đế cứu quốc phát triển đã lôi cuốn mọi người dân nơi đây tham gia, trở thành cơ sở, thành chiến khu- trái tim cách mạng của tỉnh nhà. Đêm ngày 19 tháng 9 năm 1941 tại hang Treo- một địa điểm nằm sâu trong rừng Ngọc Trạo, đội du kích Ngọc Trạo đã ra đời với 21 đội viên. Từ đây trở đi công cuộc khởi nghĩa giành chính quyền càng thêm khẩn trương. - Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 8, mặt trận Việt Minh được xây dựng ở nhiều phủ, huyện. Các đoàn thể cứu quốc phát triển sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân. Phong trào cách mạng diễn ra rầm rộ ở các địa phương: Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định, Hoằng Hoá, Hậu Lộc, nhằm chống thuế, chống bắt phu bắt lính, chống thu thóc, thu bông. Tháng 6 năm 1944 công nhân nhà máy diêm Hàm Rồng đình công đòi chủ phải giải quyết yêu sách. Phối hợp với phong trào sôi nổi rộng lớn ở bên ngoài, cuộc đấu tranh của tù chính trị ở nhà lao Thanh Hoá cũng quyết liệt. - Năm 1945 phong trào đấu tranh càng được đẩy lên đỉnh cao khi Đảng bộ và các quần chúng quán triệt chỉ thị Trung ương về việc phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói. Phong trào đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của quần chúng nên đã lôi cuốn hàng ngàn, hàng vạn người tham gia. Phong trào chuyển dần thành một cuộc vận động chính trị rộng lớn và những cuộc khởi nghĩa từng phần. - Tại Hoằng Hoá ngày 24 tháng 7, phát xít Nhật cho lính bảo an phối hợp với chi phủ tiến hành khủng bố, đánh phá cơ sở cách mạng. Chi bộ Đảng ở đây đã tổ chức và lãnh đạo quần chúng và lực lượng tự vệ chặn đánh địch. Bị truy.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> kích, địch bỏ chạy, tri phủ Hoằng Hoá bị bắt. Phát huy thắng lợi của cuộc đấu tranh chống khủng bố, Nhân dân Hoằng Hoá tiến về bao vây, giải tán triệt để bộ máy chính quyền bù nhìn ở các tổng, làng xã. Uỷ ban dân tộc giải phóng được thành lập quản lý mọi công việc ở địa phương. - Thắng lợi ở Hoằng hoá đã mở đầu cho các cao trào khởi nghĩa giành chính quyền và đưa phong trào cách mạng toàn tỉnh phát triển đến đỉnh cao. 4. Khởi nghĩa giành chính quyền ở Thanh Hoá tháng tám năm 1945 - Ngày 14 tháng 8 năm 1945 chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh không điều kiện. Lúc này phong trào cách mạng ở Thanh Hoá đang phát triển mạnh mẽ, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện Hoằng Hoá đã thắng lợi. - Điều kiện khách quan, chủ quan cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở Thanh Hoá đã chín muồi. - Trước tình hình đó Tỉnh uỷ đã triệu tập Hội nghị mở rộng vào ngày 14/8/1945 tại làng Mao Xá (Thiệu Toán). Hội nghị nhận định tình hình cách mạng trong tỉnh, quyết định chủ trương biện pháp sẵn sàng phát động nhân dân nổi dậy giành chính quyền. - Hội nghị Tỉnh uỷ đã quyết định thành lập Uỷ ban khởi nghĩa và Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh, phủ, huyện. Đồng chí Lê Tất Đắc được cử làm chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa và Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh. Để hạn chế đổ máu và nhanh chóng khởi nghĩa giành thắng lợi. Hội nghị đã sử dụng sách lược khôn khéo: Gửi thư của mặt trận Việt minh cho Nhật, yêu cầu chúng không can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam, rút hết quân đội ở các đồn bốt, cơ sở về nhà Giòng thị xã Thanh Hoá để hồi hương an toàn. - Ngày 17 tháng 8, Chỉ thị khởi nghĩa của tỉnh được triển khai rộng khắp cơ sở. Bọn Nhật đã chấp thuận yêu cầu của mặt trận Việt Minh. Bộ máy chính quyền địch ở tỉnh lị tan rã từng mảnh. - Dưới sự lãnh đạo của các cấp bộ Đảng và mặt trận Việt minh, quần chúng nhân dân các huyện đã rầm rộ xuống đường khởi nghĩa giành chính quyền. - Tính đến rạng sáng ngày 19-8-1945, quần chúng khởi nghĩa đã làm chủ các huyện Hậu Lộc, Hà Trung, Nga Sơn, Quảng Xương, Thạch Thành, Vĩnh Lộc, Thiệu Hoá, Yên Định, Thọ Xuân. - Chiều ngày 19 tháng 8 cuộc khởi nghĩa thắng lợi ở Đông Sơn. - Ngày 20 tháng 8 lực lượng khởi ở Tĩnh Gia giành chính quyền về tay nhân dân. - Ngày 21 tháng 8 hai huyện Nông Cống và Cẩm Thuỷ cũng giành được thắng lợi trong khởi nghĩa. - Đúng 8 giờ sáng, lực lượng quần chúng tuần hành cùng bốn chiếc xe khách chở Ban chỉ đạo và lực lượng tự vệ. Từ Lò Chum, lên đến Trường Thi, lực lượng khởi nghĩa đổ về chùa Hai Voi và toả đi chiếm trại Bảo an binh, dinh tỉnh trưởng... đi tới đâu lực lượng khởi nghĩa thu hút thêm lực lượng nhân dân tới đó, kẻ thù hoàn toàn bị áp đảo trước sức mạnh của quần chúng khởi nghĩa. Chiều ngày 20 tháng 8 thị xã Thanh Hoá hoàn toàn thuộc về cách mạng. Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời thị xã Thanh Hoá ra mắt nhân dân. - Đến ngày 21- 8 về cơ bản cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thanh Hoá đã giành được thắng lợi..

<span class='text_page_counter'>(33)</span> - Đối với 6 châu miền núi, tỉnh uỷ chỉ đạo giành chính quyền bằng phương pháp hoà bình. - Ngày 23 tháng 8 năm 1945, trong không khí tưng bừng phấn khởi của hàng vạn nhân dân thị xã và các phủ huyện lân cận, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh đã ra mắt đồng bào, đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của công cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của tỉnh nhà. - Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 ở Thanh Hoá là kết quả của sự vận dụng linh hoạt chủ động sáng tạo những chủ trương nghị quyết Trung ương Đảng của Đảng bộ Thanh Hóa vào tình hình cụ thể trong tỉnh. - Đảng bộ đã xây dựng được một đội quân cách mạng đông đảo ở nhiều địa phương, bao gồm lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang qua các thời kỳ mặt trận phản đế cứu quốc, mặt trận Việt minh và cao trào kháng Nhật cứu nước. Nhờ vậy khi thời cơ cách mạng đến, nhân dân Thanh Hoá nhanh chóng vùng dậy giành chính quyền. Thắng lợi to lớn này là kết quả của truyền thống đấu tranh yêu nước của nhân dân được Đảng lãnh đạo. - Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng tám (1945) đã diễn ra nhanh chóng và kết thúc thắng lợi. Chính quyền cách mạng nhân dân đã được thành lập. Thắng lợi to lớn này đã đưa nhân dân các dân tộc Thanh Hoá từ địa vị nô lệ, thoát khỏi ách thống trị của bọn thực dân phong kiến và trở thành người chủ thực sự của quê hương. Cuộc khởi nghĩa tháng tám ở Thanh Hoá đã góp phần cùng với nhân dân cả nước làm nên thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng tám, đưa tới sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, ghi một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. VII. THANH HÓA TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN NĂM 1975 1. Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá xây dựng hậu phương - Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, quân đội các nước trong phe đồng minh, với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, đã lũ lượt kéo vào nước ta. Nền độc lập bị đe doạ nghiêm trọng, chính quyền cách mạng còn non trẻ. - Ngày 20-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thăm Thanh Hoá và người đã căn dặn: “Thanh Hoá phải trở thành một tỉnh kiểu mẫu...phải làm sao cho mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự phải là kiểu mẫu” làm hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến. - Thực hiện lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá đã quyết tâm “xây dựng Thanh Hóa thành hậu phương vững mạnh để kịp thời cung cấp đầy đủ sức người, sức của cho chiến trường, đồng thời tổ chức chiến đấu tốt để bảo vệ hậu phương trong mọi tình huống”. - Về chính trị, coi trọng công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, đặc biệt là ở miền núi và khu vực trọng yếu. Đảng bộ Thanh Hoá đã tiến hành 4 kỳ đại hội. Đại hội I vào tháng 2- 1948, Đại hội II vào tháng 4- 1949, Đại hội III vào tháng 6- 1950, Đại hội IV vào tháng 5- 1952 xác định phương hướng, chủ trương, giải pháp lãnh đạo toàn dân xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện cho kháng chiến thắng lợi. - Về quân sự, tích cực xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân: tiêu thổ kháng chiến, rào làng kháng chiến, đào đắp chiến hào, xây dựng lực lượng vũ.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> trang, xây dựng các xưởng quân giới... Tỉnh uỷ quyết định chuyển chi đội Đinh Công Tráng thành trung đoàn chủ lực, xây dựng các đại đội chủ lực huyện, đại đội du kích xã, lập quỹ cấp dưỡng bộ đội địa phương nuôi quân ăn no đánh thắng. - Về kinh tế, Đảng bộ phát động toàn dân khai hoang, phục hoá, chống thiên tai, xây dựng tổ đổi công, thực hiện giảm tô tức 25% tiến tới giảm tô triệt để và cải cách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng. Các ngành thủ công nghiệp mở rộng, xây dựng nhiều cơ sở thương nghiệp Nhà nước. - Về văn hoá, Tỉnh uỷ phát động phong trào bình dân học vụ và mở rộng hệ thống giáo dục phổ thông các cấp. Năm 1953, toàn tỉnh đã có 453 trường phổ thông cấp I, 85 trường phổ thông cấp II, 3 trường phổ thông cấp 3 gồm 7 vạn học sinh. Toàn tỉnh xây dựng 1 bệnh viện đa khoa, 4 bệnh viện khu vực và hàng chục trạm xá tuyến huyện. Hoạt động văn hoá- nghệ thuật hướng vào xoá bỏ tàn dư văn hoá phản động, lạc hậu. Phong trào xây dựng nếp sống văn hoá mới làm thay đổi bộ mặt nông thôn Thanh Hoá. 2. Nhân dân Thanh Hoá đánh bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù - Được sự giúp đỡ của quân Anh tháng 9- 1945 thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Sau khi chiếm đóng các đô thị ở nam Bộ và cực Nam Trung Bộ thực dân Pháp chuẩn bị tiến quân ra Bắc thôn tính nước ta, trong đó Thanh Hoá là một vùng trọng điểm. - Sang năm 1948, thực dân Pháp tấn công vào Thanh Hoá toàn diện và ác liệt hơn. - Từ năm 1950- 1953, bị thua đau ở Tây Bắc và đồng bằng Bắc Bộ, địch hung hãn phá hoại Thanh Hoá trên mọi phương diện: Kinh tế, chính trị, quân sự. - Pháp tiến hành đổ bộ tấn công và chiếm giữ một số điểm ở Nga Sơn, Hậu Lộc, Hòn Mê, dùng lực lượng phản động, thổ phỉ nổi dậy chống phá ta ở Ba làng (Tĩnh Gia), vùng biên giới Việt -Lào (Quan Hoá, Bá Thước, Lang Chánh). Các tuyến giao thông quan trọng như quốc lộ 1A, Kim Tân- Vĩnh Lộc, Yên Định- Cẩm Thuỷ, các cửa lạch, bến sông Mã, sông Chu, các cầu cảng...đều bị địch dùng máy bay ném bom oanh tạc. Các đập dự trữ nước tưới tiêu như: Bái Thượng, Bàn Thạch và đê Phong Lạc bị giặc Pháp dùng máy bay phá huỷ hoàn toàn. - Trước tình hình đó quân và dân Thanh Hoá dưới sự lãnh đạo của Tỉnh Đảng bộ, của Uỷ ban kháng chiến đã kiên quyết giáng trả mọi âm mưu thâm độc của kẻ thù. Lực lượng vũ trang chủ lực của Tỉnh, lực lượng tự vệ của các huyện, xã với vũ khí ít ỏi đã sát cánh bên nhau lập nên những chiến công oanh liệt ngay trên quê hương. Cuộc chiến đấu ác liệt của nhân dân Nga Sơn trong những năm 1951, 1952, 1953 thực sự là tinh thần “Ba Đình” quật khởi. Điển hình là trận đánh chìm chiến hạm Ô- đanh vin diệt 200 viên sĩ quan và binh lính trên biển Sầm Sơn. - Chín năm kháng chiến, quân dân Thanh Hoá luôn chắc tay súng bảo vệ vững chắc quê hương, giữ yên “kho hậu cần” cho cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. 3. Những đóng góp của nhân dân Thanh Hoá trong 9 năm kháng chiến.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> - Trong 9 năm kháng chiến gian khổ, ác liệt, Thanh Hoá đã thực hiện xuất sắc vai trò hậu phương kháng chiến theo lời căn dặn của Bác. - Thanh Hoá đã giúp đỡ hàng vạn đồng bào tản cư, các đơn vị bộ đội, các cơ quan Trung ương, các cơ quan khu 3, khu 4, bộ đội Pa Thét, Chính phủ kháng chiến và vùng giải phóng Bắc Lào. - Nhân dân Thanh Hoá đã chi viện cho miền Nam 2 đại đội bộ đội địa phương, bổ sung cho bộ đội chủ lực 2 tiểu đoàn, 36 đại đội, 6 trung đội, 500 chiến sĩ du kích, huy động gần 57 ngàn thanh niên tham gia bộ đội và thanh niên xung phong, huy động hàng triệu dân công phục vụ các chiến dịch. -Trong những năm 1948-1950: Thanh Hoá đã quyên góp và thu mua luá khao quân, ủng hộ bộ đội địa phương được 26.612 tấn. -Từ năm 1951 đến năm 1954, Thanh Hoá đã thu góp được 261.728 tấn thóc thuế nông nghiệp góp phần cung ứng cho cuộc kháng chiến. -Năm 1953 Thanh Hoá cung cấp cho Việt Bắc 3000 thếp giấy và hàng vạn tấn giấy in báo. - Năm 1953 Thanh Hoá nhập kho nhà nước 1495 tấn muối. - Từ năm 1951- 1953 lò cao Như Xuân đã sản xuất được 500 tấn gang phục vụ công cuộc kháng chiến. - Dù ở đâu và trên chiến trường nào, con em Thanh Hoá cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Do vậy, 5 chiến sĩ ưu tú đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. - Vào thăm Thanh Hoá lần thứ 2 (1957), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi: “Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện biên phủ đến đó; tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hoá cũng có một phần vinh dự đến đó”. 4. Thanh Hoá Trong Thời Kỳ Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước (1954 - 1975) * Thanh Hoá khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh - Thực hiện đường lối chung của toàn Đảng, Đảng bộ Thanh Hoá đã tổ chức, lãnh đạo toàn dân trong tỉnh khắc phục hậu quả chiến tranh và thiên tai, khôi phục phát triển kinh tế- văn hoá đạt được những thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá. Tháng 9- 1954, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo các địa phương tu sửa nâng cấp đê Bái Thượng, hệ thống thuỷ nông sông Chu, tu sửa đường 1A, đường thị xã- Bái Bái Thượng- Eo Lê- Bá Thước và làm mới 460 km đường nội tỉnh, 340 cầu, 34 phà. Tháng 11-1955, xây dựng tuyến đường 217A, sau đó xây dựng tuyến đường 217B giúp nước bạn Lào... khôi phục lại thị xã Thanh Hoá và các trung tâm huyện, thị trong tỉnh. - Sau 3 năm khôi phục và phát triển kinh tế- văn hoá, tính đến cuối năm 1960, toàn tỉnh đã xây dựng được 4.930 HTX nông nghiệp (chiếm 915 tổng số hộ nông dân) và 313 HTX tiểu thủ công nghiệp (chiếm 70% hộ thủ công và tiểu thương toàn tỉnh), đưa 96 hộ tư sản công- thương vào các công ty hợp doanh. Xây dựng quan hệ sản xuất mới, bước đầu xây dựng được một số cơ sở sản xuất công nghiệp mới trong tỉnh. - Kinh tế tổ chức các phong trào thi đua làm thuỷ lợi, phân bón, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> - Năm 1964, tổng sản lượng lương thực toàn tỉnh đạt 562 ngàn tấn, ngư nghiệp đánh bắt được từ 20- 30 ngàn tấn cá, lâm nghiệp khai thác được hàng vạn m3 gỗ, luồng, tre, nứa. Xây dựng được 106 cơ sở sản xuất quốc doanh và công ty hợp doanh, 1.241 cơ sở tiểu thủ công nghiệp, 149 điểm cơ khí nhỏ phục vụ nông nghiệp. - Văn hoá xây dựng, nâng cấp 598 trường phổ thông cấp I, 293 trường cấp II, 13 trường cấp III, xoá mù chữ cho 95% đồng bào miền xuôi và 74% đồng bào miền núi. Xây dựng 95 bệnh viện tuyến huyện và tỉnh, 500 trạm xá xã. - Phong trào xây dựng nếp sống mới và văn hoá - văn nghệ phát triển mạnh phục vụ đời sóng tinh thần cho nhân dân. * Giữ vững mạch máu giao thông Bắc- Nam - Ở vào vị trí chiến lược quan trọng, là địa bàn nối liền khúc ruột miền Trung, Thanh Hoá đã trở thành mục tiêu trọng điểm bắn phá của đế quốc Mỹ. - Trong 2 ngày 3 và 4 - 4 – 1965 Mỹ đã huy động 455 lượt máy bay các loại, năm 627 quả bom phá và 58 bom nổ chậm, bắn hàng trăm tên lửa, rốc két xuống các trọng điểm ở Thanh Hoá. Riêng Hàm Rồng, Mỹ ném 350 quả bom, bắn 149 tên lửa, rốc két nhằm cắt đứt mạch máu giao thông, chặn đường chi viện cho miền Nam. - Phát huy thắng lợi Lạch Trường, trong 2 ngày 3 và 4-4-1965, được sự phối hợp của bộ đội phòng không và không quân, quân và dân Thanh Hoá đã dũng cảm chiến đấu bắn rơi 47 máy bay phản lực của Mỹ, bảo vệ vững chắc cầu Hàm Rồng, cầu Lèn. - Kết thúc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965-1968), quân dân Thanh Hoá đã bắn rơi 276 máy bay, bắn cháy 26 tàu chiến, bắn chìm 5 tàu biệt kích, góp phần cùng quân dân miền bắc buộc Mỹ phải ngừng leo thang chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. * Chi viện sức người sức của cho cách mạng miền Nam - Nằm trong vùng trọng điểm ném bom bắn phá của đế quốc Mỹ, Thanh Hoá là một trong những địa phương thiệt hại nhiều nhất ở miền Bắc. Trong hai lần leo thang bắn phá miền Bắc, Mỹ đã ném bom xuống Thanh Hoá 20 vạn tấn bom các loại, 34.809 qủa đạn của hải quân Mỹ bắn phá trên biển. Bình quân mỗi km2 phải chịu 19,7 tấn bom, mỗi người dân phải chịu 220 kg. - Nhưng bom đạn Mỹ không làm nhụt chí người xứ Thanh. Dưới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ Thanh Hoá, nhân dân tỉnh ta đã vươn mình đứng dậy làm tròn nghĩa vụ cứu quốc một cách vẻ vang. - 21 năm kháng chiến, Thanh Hoá đã có 227. 082 người gia nhập quân đội, bằng 10,15% dân số toàn tỉnh. - Những người con ưu tú của nhân dân Thanh Hoá với truyền thống “Lam Sơn”, “Hàm Rồng” đã hiến cả tuổi thanh xuân và máu xương của mình cho sự nghiệp giải phóng miền Nam. Dọc theo Trường Sơn, trên khắp các chiến trường miền Nam đều có mặt những người con quê Thanh. - Để động viên sức người, sức của cho tiền phương, Thanh Hoá đã dấy lên nhiều phong trào thi đua kháng chiến. Các cụ phụ lão với tinh thần “tuổi cao chí càng cao” luôn luôn mẫu mực trong chiến đấu, trong sản xuất và đóng góp ủng hộ kháng chiến. Phụ nữ với phong trào “ba đảm đang”, tay cuốc, tay cày, tay.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> súng vừa sản xuất, bảo vệ quê hương vừa động viên chồng con tòng quân cứu quốc. - Thanh niên với phong trào “ba sẵn sàng” luôn xung phong đi đầu trong lao động sản xuất và chiến đấu. Tuổi nhỏ với phong trào “Trần Quốc Toản” đã hăng hái “mang mũ rơm đi học đường dài” lại tích cực tham gia gieo cấy, chăm bón, gặt hái, giúp đỡ các gia đình thương binh liệt sĩ... - Với tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai”, “thóc không thiếu một cân”, “tất cả vì miền Nam ruột thịt”... nhân dân Thanh Hoá đã chắt chiu để góp sức mình cho kháng chiến. Góp gió thành bão, chính công sức của đồng bào Thanh Hoá đã góp phần làm nên cơn bão táp cách mạng cuồn cuộn triều dâng thác đổ cuốn phăng đồn bốt Mỹ- Nguỵ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. VIII. THANH HÓA TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC 1. Thanh Hoá thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (từ 1976 - 1980) - Thuận lợi niềm vui thống nhất, hoà bình và chiến thắng trong cuộc đọ sức với đế quốc Mỹ, là động lực mạnh mẽ để nhân dân Thanh Hóa bước vào thời kỳ dựng nước. - Về khó khăn Thanh Hoá là một trong những tỉnh phải gánh chịu hậu quả tàn phá nặng nề của chiến tranh, nên nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. - Từ ngày 19 đến 28-5-1975 Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII được triệu tập. Đại hội chỉ ra những thiếu sót tồn tại và đề ra phương hướng nhiệm vụ mới: - Thực hiện Nghị quyết đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ VIII, từ miền biển đến miền rừng, từ đồng bằng đến trung du, người người, nhà nhà đều hăng hái thi đua lao động sản xuất. - Nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp...được sắp xếp theo hướng “sản xuất lớn XHCN”. - Những thành tựu trên đã tạo nền cho nhân dânThanh Hoá tiếp tục bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ II (1976-1980). - Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, toàn thể cán bộ và nhân dân Thanh Hoá ra sức hăng hái tiến lên con đường xây dựng chế độ mới. Nhiều phong trào thi đua đã diễn ra liên tục, sôi nổi như “ba xung kích làm chủ tập thể”, “Định Công hoá”, thuỷ lợi hoá, đồng thời khai hoang phục hoá, trồng cây lương thực, hoa màu... - Trên các mặt trận văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao cũng dấy lên nhiều phong trào thi đua yêu nước. Trường học với phong trào “dạy tốt- học tốt”, “làm theo 5 điều Bác Hồ dạy”. Thể dục thể thao với phong trào “khoẻ để bảo vệ Tổ Quốc”. - Những năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm lần thứ 2, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi: hạn hán, lụt lội liên tiếp xảy ra... đã ảnh hưởng tới việc thực hiện kế hoạch. Song dưới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ, nhân dân Thanh Hoá đã ra sức khắc phục thiên tai để hoàn thành mục tiêu đã định. 2. Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981 - 1985).

<span class='text_page_counter'>(38)</span> - Thành quả mà nhân dân Thanh Hoá đạt được trong kế hoạch 5 năm lần thứ II là tiền đề để Thanh Hoá bước vào kế hoach 5 năm lần thứ III (19811985). - Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981- 1985), Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá đã đạt được những thành tựu quan trọng: - Về nông nghiệp trong những năm 1981- 1982, đã chặn được đà giảm sút của những năm 1976-1980. Sản lượng lương thực tăng (năm 1982 đạt 72 vạn tấn tăng 18 vạn tấn so với năm 1978). Các loại cây công nghiệp như lạc, đay, cói, chè vẫn tăng trưởng mạnh. Chăn nuôi trâu, bò, lợn đều tăng vượt bậc so với năm 1978 (trâu tăng 6,6%, bò tăng 6%, lợn lai tăng 250%). Công tác thu mua lương thực của Nhà nước luôn vượt kế hoạch (năm 1981 thu mua được 137.000 tấn, năm 1982 được 180.000 tấn). - Từ năm 1983 đến năm 1985, nông nghiệp Thanh Hoá vẫn tiếp tục đạt thành tích đáng khích lệ. Năm 1985 Thanh Hoá đạt chỉ tiêu 80 vạn tấn. Đây là một con số đánh dấu sự vươn lên không mệt mỏi của nhân dân Thanh Hoá. Bằng sự nổ lực của mình Thanh Hoá đã tự cung cấp được nhu cầu lương thực, thực phẩm cho địa phương và còn đóng góp cho Trung ương 40 vạn tấn lương thực. - Về công nghiệp và thủ công nghiệp trong điều kiện thiếu thốn về nguyên liệu vật tư và kỹ thuật, nền công nghiệp và thủ công nghiệp Thanh Hoá vẫn từng bước đi lên. Nhờ ứng dụng khoa học kỹ thuật và sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ, giá trị sản lượng công nghiệp Thanh Hoá năm 1985 đạt 1.6 tỷ đồng (tăng 11% so với năm 1978). Sự tăng trưởng về kinh tế đã góp phần nâng cao đời sống của nhân dân trong tỉnh. Năm 1985, bình quân lương thực đạt 305 kg/người, vải mặc:4,14m/người, nhiều gia đình đã bước đầu có tích luỹ. - Bên cạnh những thành tích về kinh tế, nhân dân Thanh Hoá còn đạt nhiều thành tích trong đời sống văn hoá, giáo dục, y tế và sự ổn định về chính trị, an ninh, quốc phòng. - Những thành tích quan trọng mà Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá đạt được trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981- 1985) là cơ sở vững chắc để Thanh Hoá bước vào thời kỳ đổi mới đầy thử thách. 3. Thanh Hoá Trong 10 Năm Đổi Mới Về Phát Triển (1986 - 1996) * Những thành tựu về kinh tế - Thanh Hoá đã mạnh dạn thực hiện chính sách “khoán hộ” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nồng nghiệp. - Diện tích gieo trồng hoang hoá được phát quang để thay vào đó là màu xanh của lúa, khoai, sắn...Năng suất của các loại cây lương thực, hoa màu vượt trội hơn hẳn những năm 1985 về trước. Sản lượng các loại cây công nghiệp ổn định và nâng cao tạo điều kiện cho sự phát triển một số ngành công nghiệp chế biến như giấy Mục Sơn, đường Lam Sơn, thuốc lá Lotaba... - Ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng tăng trưởng nhanh chóng, đáp ứng được nhu cầu thực phẩm của nhân dân trong tỉnh. - Trong 10 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu rực rở về sản xuất lương thực:.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> + Diện tích cây lương thực năm 1986 là 320.200 ha, đến năm 1994 là 377.801 ha. + Sản lượng lương thực quy thóc năm 1986- 1990 bình quân đạt 794 tấn/1 năm, đến năm 1994 là 924. 833 tấn/năm. Đặc biệt đến năm 1995 đạt 1 triệu tấn lương thực. - Sau 10 năm đổi mới, Thanh Hoá đã chấm dứt được căn bệnh thiếu lương thực triền miên, trở thành 1 trong 5 tỉnh có tổng sản lượng 1 triệu tấn và Thanh Hoá cũng bắt đầu xuất khẩu gạo. Đó là thành quả to lớn nhất sau 10 năm đổi mới trên mặt trận kinh tế của Thanh Hoá. - Bên cạnh sự tăng trưởng về sản xuất ngành giao thông vận tải, bưu điện và một số ngành kinh tế dịch vụ, tài chính ngân hàng cũng phát triển mạnh mẽ. Các tuyến đường giao thông quan trọng trong tỉnh thuộc địa bàn thành phố, huyện, xã đều được sửa chữa và nâng cấp tạo điều kiện thuận lợi cho việc vân chuyển giao lưu kinh tế. Ga xe lửa Thanh Hoá được xây dựng khang trang, đẹp đẽ trở thành một ga kiểu mẫu của ngành đường sắt. Mạng lưới điện và thông tin liên lạc, vô tuyến viễn thông trên địa bàn tỉnh đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu đời sống của nhân dân. - Bằng những nổ lực lớn lao của toàn Đảng toàn dân, sau 10 năm thực hiện đổi mới và mở cửa, Thanh Hoá đã khởi sắc về mặt kinh tế, từng bước đi vào thế ổn định và phát triển. * Những thành tựu về văn hoá xã hội - Sự phát triển và ổn định về kinh tế là nền tảng cho sự phát triển về mặt văn hoá xã hội và chính trị. - Mục đích đổi mới của Đảng ta nhằm làm cho “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ và văn minh”, lý tưởng tốt đẹp ấy đã hiện ra rõ nét trên quê hương Thanh Hóa. - “Theo thống kê của Cục thống kê Thanh Hoá (ngày 1/8/1993) thì toàn tỉnh có 76,4% số hộ có mức sống từ trung bình trở lên đến năm 1995 nhờ có chính sách “Xoá đói giảm nghèo” mà số hộ thiếu đói giảm nghèo đáng kể. Nhìn chung mức sống của nhân dân Thanh Hoá lúc này so với trước năm 1986 đã được nâng cao vượt bậc. Bình quân thu nhập đầu quân đầu người 210 USD (năm 1990 là 172 USD), cứ 3 hộ có 1 radio, cứ 7 hộ có 1 tivi, 58,26% số hộ nông dân có điện dùng sinh hoạt...” - Giáo dục và Đào tạo đạt được thành tựu rực rỡ. Số lượng giáo viên giỏi, học sinh giỏi các cấp ngày một tăng. Đặc biệt hàng năm, trong các kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc và quốc tế Thanh Hoá luôn được coi là tỉnh có thành tích đạt giải cao (năm học 1995- 1996 thành tích của Thanh Hoá xếp thứ nhất). - Chất lượng dạy học ngày một nâng cao, cơ sở vật chất phục vụ dạy học được chú trọng, mạng lưới trường lớp không ngừng được mở rộng, nhiều địa phương đã có trường học khang trang, kiên cố. Phong trào xoá nạn mù chữ đã mang lại hiệu quả ở nông thôn và miền núi. Đến năm học 1994- 1995 đã có 15/23 huyện thị phổ cập giáo dục tiểu học. Tỉ lệ thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp hàng năm đều tăng rõ rệt..

<span class='text_page_counter'>(40)</span> - Y tế với nhiều hoạt động chăm lo sức khoẻ cho nhân dân, y tế Thanh Hoá đã góp phần tích cực trong công tác phòng chống dịch bệnh, vận động kế hoạch hoá gia đình. - Các hoạt động Văn hoá, thể dục thể thao cũng gặt hái được nhiều thành quả đáng khích lệ. Hoạt động văn hoá nghệ thuật của Thanh Hoá luôn luôn chú trọng đến việc tuyên truyền đường lối của Đảng và giữ gìn bản sắc dân tộc, giữ gìn truyền thống quê hương. Các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa” với việc tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, các tượng đài, các nghĩa trang liệt sĩ trở thành phổ biến ở các địa phương. Hoạt động thể dục thể thao ngày càng mạnh mẽ trong các trường học, cơ quan xí nghiệp và lân cận các làng xã (trong các cuộc đua tài, Thanh Hoá luôn giành được thành tích cao về điền kinh, bắn súng). - Trong 10 năm đổi mới, Thanh Hoá đã từng bước ổn định và phát triển đi lên. Từ một tỉnh đông dân, giàu tài nguyên, lắm thế mạnh...nhưng là một tỉnh nghèo, Thanh Hoá đã vươn lên thành một tỉnh vững mạnh về kinh tế, giàu về thành tích giáo dục. Có được điều đó là nhờ sự lãnh đạo của Đảng bộ Thanh Hoá và nhờ sự vượt khó của nhân dân Thanh Hoá. - Trong sự nghiệp dựng nước cũng như trong sự nghiệp giữ nước xưa và nay, Thanh Hoá luôn xứng đáng với truyền thống quê hương: Cần cù và sáng tạo, chịu đựng và cống hiến. Đó là hành trang lịch sử mà xứ Thanh sẽ tiếp tục trên con đường đổi mới đất nước trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX và những năm tiếp theo của thế kỷ XXI. 4. Thanh Hoá Trong Giai Đoạn Từ 1996 Đến 2005 * Những thành tựu về kinh tế - Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được tăng cường. - Vùng đô thị xây dựng và hình thành các khu công nghiệp tập trung: Lễ Môn, Bỉm Sơn, Lam Sơn, Nghi Sơn, Đình Hương gắn với nâng cấp chỉnh trang các đô thị hiện có và chuẩn bị cho sự ra đời các đô thi mới, tạo sự phát triển nhanh về sản xuất công nghiệp, dịch vụ, du lịch. Thành phố Thanh Hoá được công nhận là đô thị loại II. - Vùng ven biển phát huy lợi thế và điều kiện tự nhiên, đã có sự phát triển mạnh, ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, du lịch, cảng biển… - Vùng đồng bằng đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, có sự chuyển đổi mạnh cơ cấu mùa vụ, cây trồng vật nuôi, tăng năng xuất sản lượng, mở mang phát triển ngành nghề, tiểu thu công nghiệp, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá ngày càng nhiều. - Vùng miền núi phát huy thế mạnh về đất đai, vốn rừng, hình thành một số vùng cây công nghiệp tập trung, các trang trại nông, lâm kết hợp, có bước chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá; tập trung chỉ đạo thực hiện các chương trình 135, dự án 5 triệu ha rừng, quyết định 134… đầu tư làm đường giao thông, điện lưới, thuỷ lợi, bưu điện, y tế, trường học, phát thanh truyền hình… cải thiện và nâng cao hơn đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào miền núi..

<span class='text_page_counter'>(41)</span> Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Công tác xoá đói, giảm nghèo được quan tâm; cơ bản xoá hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo từ 21,94% năm 2000 giảm xuống 10,6% năm 2005 theo tiêu chí cũ (kết quả điều tra theo tiêu chí mới là 34,7%); xoá nhà tạm bợ, dột nát cho 16 700 hộ; giải quyết việc làm mới cho 190 200 lao động; đưa hơn 16 000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; hơn 80% số hộ dân dùng nước hợp vệ sinh. - Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư xây dựng với tốc độ khá nhanh. Nhiều dự án quan trọng đã được xây dựng trong như: Cảng Nghi Sơn, đường Mục Sơn-Cửa Đạt, đường Hồ Chí Minh, đường nối cảng Nghi Sơn với đường Hồ Chí Minh, đường Lang Chánh-Yên Khương, đường Hồi Xuân-Tén Tần, công trình thuỷ lợi, thuỷ điện Cửa Đạt, khách sạn Sao Mai, khu công nghiệp Tây Bắc Ga thành phố Thanh Hoá, Trường Đại học Hồng Đức, Bệnh viện đa khoa, Bệnh viện phụ sản, Bệnh viện nhi, Trung tâm Truyền hình kỹ thuật số, hạ tầng các khu dụ lịch, khu di tích, nhà tưởng niệm, tượng đài … - Giao thông thuỷ lợi hoàn chỉnh và nâng cấp các trục giao thông chính, các cầu qua sông lớn được xây dựng nối liền các vùng, miền; nhiều tuyến đường giao thông liên huyện được làm mới; đường giao thông nông thôn ở nhiều nơi thuộc vùng đồng bằng, ven biển được nhựa, bê tông hoá hoặc cấp phối. Hệ thống thuỷ lợi được đầu tư, nâng cấp, cải tạo, xây dựng mới; các công trình thuỷ lợi đầu mối, hệ thống kênh mương nội đồng được đầu tư kiên cố, đảm bảo tưới chủ động cho hầu hết diện tích lúa nước và một phần diện tích mầu ở các huyện đồng bằng. * Những thành tựu về văn hoá xã hội Văn hoá – xã hội có chuyển biến, tiến bộ và từng bước được xã hội hoá; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Cơ sở vật chất trường học, y tế được tăng cường. Có hơn 56,5% số phòng học được kiên cố hoá. Đầu tư phát triển lưới điện và trạm điện, chuyển đổi mô hình quản lý điện nông thôn; 100% số huyện, thị xã, thành phố, 100% số phường, thị trấn, 96,6% số xã có điện lưới. Đến năm 2005 có 560 xã có điểm bưu điện - văn hoá xã, 100% số xã, phường, thị trấn miền xuôi và nhiều xã miền núi có máy điện thoại, đưa mật độ thuê bao lên 5,9 máy/100 dân. Giáo dục và Đào tạo hệ thống trường lớp, ngành học, cấp học phát triển. Loại hình trường lớp ngoài công lập được mở rộng, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu học tập. Sự nghiệp giáo dục miền núi được quan tâm, chăm lo cả về cơ sở vật chất và chất lượng đào tạo. Chất lượng giáo dục toàn diện được chú ý. Học sinh giỏi các cấp học, môn học tăng khá, nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi quốc gia và quốc tế. Các địa phương, cơ sở đã quan tâm chăm lo cho giáo dục, góp phần xây dựng mội trường giáo dục lành mạnh và huy đông tốt hơn nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất trường học. Có thêm nhiều trường THPT ngoài công lập đáp ứng tốt nhu cầu học tập cho người học, góp phần nâng cao mặt bằng dân trí chung của cả tỉnh. Truyền thống hiếu học được khơi dậy; nhiều học sinh, sinh viên đạt kết quả cao trong học tập. Đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi ở các huyện, thị, thành phố, xã, phường, thị trấn; 24/27 huyện, thị, thành phố và 89,1% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập THCS. Số trường đạt chuẩn quốc gia từ 80.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> trường (năm học 1999 – 2000) lên 386 trường (năm học 2005 – 2006 ). Xã hội hoá giáo dục và thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục -đào tạo được đẩy mạnh; phong trào khuyến học phát triển, việc xây dựng xã hội học tập có nhiều tiến bộ, đến nay có 516 TT HTCĐ. Văn hoá thông tin được đẩy mạnh, từng bước hiện đại hoá với nhiều hình thức hoạt động phong phú, đa dạng, chuyển tải kịp thời thông tin đến các tầng lớp nhân dân. Đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; tập trung xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Khai trương xây dựng 4188 làng, bản, khu phố, cơ quan văn hoá, trong đó đã công nhận 506 làng văn hoá cấp tỉnh, 1270 làng văn hoá cấp huyện; 63 % số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá; khai trương xây dựng 35 xã phường văn hoá. Tu bổ, tôn tạo một số khu di tích, khu tưởng niệm, phục vụ hoạt động du lịch, giáo dục truyền thống. Sáng tác văn học, nghệ thuật có tiến bộ, phát huy vai trò lực lượng xung kích trên mặt trận văn hoá tư tưởng, góp phần giữ gìn bản sắc, truyền thống văn hoá của dân tộc, của địa phương. Thể dục thể thao tiếp tục phát triển, số người tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên từ 16 % năm 2000 tăng lên 23% năm 2005; gia đình thể thao tăng từ 8% lên 13%; một số môn thể thao thành tích cao tiếp tục giành được nhiều huy chương ở các giải quốc gia, khu vực và quốc tế. Y tế sự nghiệp y tế có nhiều tiến bộ, nhất là trong lĩnh vực y học dự phòng. Chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, người nghèo và các đối tượng chính sách được quan tâm. Hệ thống y tế được củng cố một bước, đặc biệt là y tế cơ sở, đã xóa xã trắng về y tế. Cơ sở vật chất y tế được đầu tư đáng kể, nhất là cho cơ sở và các khâu trọng yếu. Y học cổ truyền dân tộc được khôi phục và phát triển. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân được phát triển đa dạng, từng bước nâng cao chất lượng. Hoạt động bảo hiểm y tế được mở rộng. Nhu cầu thuốc thiết yếu cho phòng và chữa bệnh của nhân dân được đảm bảo. Từng bước nâng cao chất lượng chuyên môn, y đức, tinh thần phục vụ bệnh nhân. Cơ sở vật chất cho khám chữa bệnh từng bước được nâng cấp, tăng cường trang bị kỹ thuật hiện đại; mạng lưới y tế cơ sở được củng cố. Có 30% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế, 62,24% trạm y tế miền xuôi, 50% trạm y tế miền núi có bác sỹ. Y tế ngoài công lập được khuyến khích phát triển. Cung ứng đủ thuốc, thiết bị y tế cho khám, chữa bệnh. Tỷ lệ tăng dân số năm giảm xuống còn 1,03%; mức giảm sinh hàng năm 0,65%. Tuổi thọ trung bình người dân được nâng lên (năm 1999 là 69,4 tuổi, năm 2003 là 72,3 tuổi). Những thành tựu trên là do đường lối đổi mới của đảng, đảng bộ Thanh Hoá đã vận dụng sáng tạo đường lối của đảng vào điều kiện cụ thể của Thanh Hoá, khơi dậy phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù, truyền thống cách mạng, tinh thần làm chủ của các tầng lớp nhân dân tỉnh Thanh. 5. Những nội dung bản thân sẽ vận dụng vào thực tiễn giảng dạy và giáo dục tại đơn vị: 1.Thanh Hóa từ thời kì tiền sử đến thế kỉ X 2. Thanh Hóa thời kì dựng nước và chống lại đô hộ phương Bắc 3. Thanh Hóa thời kì hình thành phát triển của nhà nước Việt nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> 4. Thanh Hóa thế kỉ Xv đến XVI 5. Cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Thanh Hóa 6. Thanh Hóa từ 1919-1945 7. Thanh Hóa từ Cách mạng tháng Tám đến 1975 8. Thanh Hóa trong thời kì đổi mới đất nước 6. Những nội dung khó và những đề xuất về cách thức tổ chức bồi dưỡng nhằm giải quyết những nội dung khó này 7. Tự đánh giá Sau khi bồi dưỡng bản thân đã tiếp thu và vận dụng được vào thực tiễn công tác khoảng 80% so với yêu cầu và kế hoạch. 1. Nội dung bồi dưỡng 3: - Mô đun 13. - Mô đun 14. - Mô đun 15. - Mô đun 16. 2. Thời gian bồi dưỡng: Từ ngày 02 tháng 1 năm 2015 đến ngày 28 tháng 4 năm 2015 3. Hình thức bồi dưỡng: Bồi dưỡng bằng hình thức tự học. 4. Kết quả đạt được: * Tháng 1: Mô đun 13: NHU CẦU VÀ ĐỘNG LỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH THCS TRONG XÂY DỰNG KẾ HOẠCH DẠY HỌC I. Nhu cầu và động lực học tập của HS. 1. Nhu cầu : Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau. * Đặc trưng của nhu cầu : - Không ổn định, biến đổi; - Năng động; - Biến đổi theo quy luật; - Không bao giờ thoả mãn cùng một lúc mọi nhu cầu * Các loại nhu cầu : - Nhu cầu vật chất: Ăn uống, đi lại, nhà ở... - Nhu cầu cảm xúc: Yêu thương, tôn trọng... - Nhu cầu xã hội: Giáo dục, tôn giáo ... * Mức độ : - Mức độ 1: Lòng mong muốn; - Mức độ 2 : Tham; - Mức độ 3: Đam mê ..

<span class='text_page_counter'>(44)</span> * Biểu hiện: - Hứng thú; - ước mơ - Lý tưởng ....) 2. Động lực học tập của HS THCS: Dạy học là một quá trình phức tạp đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của cả giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn khi học sinh tỏ ra thiếu hứng thú học bài, thiếu sự hợp tác với thầy cô và cả các bạn. Dẫn đến tình trạng giờ học căng thẳng, rời rạc, giáo viên mất hưng phấn giảng dạy; học sinh ức chế trong quá trình tiếp thu kiến thức...Vì vậy, 8 nguyên tắc đơn giản sau đây giáo viên có thể áp dụng nhằm giúp học sinh lấy lại động cơ trong học tập: II. Phương pháp, kĩ thuật xác định nhu cầu học tập của học sinh THCS 1. Phương pháp quan sát Với phương pháp này, người quan sát phải là người có hiểu biết, kinh nghiệm v ề dạy học,quy trình và phương pháp thực hiện dạy học.Thông qua việc quan sát, người quan sát sẽ thấy được những thiếu sót trong thực tế học tập của học sinh. Giáo viên có thể căn cứ những thông tin này để xác định nhu cầu của học sinh. Việc quan sát này có thể thực hiện dưới hai hình thức: * Quan sát chính thức: là việc người quan sát đến tận nơi ở, học tập của học sinh và ghi chép đặc điểm của học sinh về gia đình , kinh tế, tâm tư tình cảm. hiện công việc đều có thể trao đổi với nhau về về giải pháp khắc phục rào cản, và thực hiện yêu cầu của học sinh Nhược điểm: người bị quan sát có thể có những hành vi không đúng với thực tế anh ta hay làm hoặc cảm giác bất an khi bị người khác quan sát. * Tháng 1. Mô đun 14. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH DẠY HỌC THEO HƯỚNG TÍCH HỢP 1. Các yêu cầu của một kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp: - Trang bị cho học sinh hiểu biết những kiến thức cần thiết, cơ bản về những nội dung cần được tích hợp để từ đó giáo dục các em có những cử chỉ, việc làm, hành vi đúng đắn. - Phát triển các kĩ năng thực hành, kĩ năng phát hiện và ứng xử tích cực trong học tập cũng như trong thực tiển cuộc sống. - Giúp học sinh hứng thú học tập, từ đó khắc sâu được kiến thức đó học. - Nội dung tích hợp phải phù hợp với từng đối tượng học sinh ở các khối lớp thông qua các môn học và hoạt động giáo dục khác nhau. - Tránh áp đặt, giúp học sinh phát triển năng lực. 2. Mục tiêu, phương pháp, nội dung của kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp. a. Mục tiêu - Hiểu được bản chất của kế hoạch dạy học tích hợp..

<span class='text_page_counter'>(45)</span> - Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa. - Phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn. - Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể. - Xác lập mối quan hệ giữa các khái niệm đó học. b. Phương pháp Phương pháp dạy học theo hướng tích hợp là lồng ghép nội dung tích hợp vào các bài dạy, tùy theo từng môn học mà lồng ghép tích hợp ở các mức độ như liên hệ, lồng ghép bộ phận, toàn phần, ... từ đó giáo dục và rèn kĩ năng sống, giá trị sống cho học sinh. Để vận dụng quan điểm tích hợp vào việc giảng dạy, chúng ta cần chú ý đến ba hình thức tích hợp sau: + Tích hợp ngang. + Tích hợp dọc. + Tích hợp liên môn. c. Nội dung Dạy học theo hướng lồng ghép tích hợp thực hiện ở một số nội dung môn học và các hoạt động giáo dục: Nội dung tích hợp được bao gồm những nội dung như Tích hợp giáo dục đạo đức, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; giáo dục phòng chống tham nhũng; sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; bảo vệ môi trường; giáo dục về dân số, đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên; giáo dục về tài nguyên và môi trường, chủ quyền biển đảo theo hướng dẫn của Bộ GD-ĐT. Mức độ tích hợp tùy theo từng môn học, nội dung để lựa chọn mức độ tích hợp: + Mức độ tích hợp từ liên hệ + Tích hợp bộ phận, chỉ một phần của bài học, hoạt động thực hiện nội dung giáo dục. + Đến tích hợp toàn phần, cả một bài có nội dung trùng khớp với nội dung giáo dục. - Ví dụ tích hợp một số nội dung môn học: + Tích hợp ngang: Tích hợp ngang là kiểu tích hợp giữa ba phân môn Văn - Tiếng Việt -Tập làm văn. Điều này thể hiện trong việc bố trí các bài học giữa ba phân môn một cách đồng bộ và sự liên kết với nhau trên nhiều mặt nhằm hỗ trợ nhau, bổ sung làm nổi bật cho nhau. Phân môn này sẽ củng cố, hệ thống hóa lại kiến thức cho phân môn khác . - Tích hợp dọc: Tích hợp dọc là cách vận dụng quan điểm tích hợp trong cựng một phân môn với nhau tức là giữa Văn bản với Văn bản , giữa TV với TV , giữa TLV với TLV trong cùng một khối (lớp) hoặc khác khối (lớp) theo chiều dọc từ trên xuống . Thực chất, tích hợp theo chiều dọc là hệ thống các kiến thức có liên quan với nhau ở những thời điểm thích hợp sao cho học sinh có thể nắm bắt vấn đề một cách hệ thống. Khi thực hiện tích hợp dọc, các kiến thức được nhắc lại, được liên hệ với nhau giúp học sinh khắc sâu, nhớ lâu nội dung bài học..

<span class='text_page_counter'>(46)</span> + Tích hợp dọc trong một phân môn cùng khối (lớp) Giảng dạy theo quan điểm tích hợp này giúp học sinh củng cố, hệ thống lại kiến thức có liên quan với nhau từ các lớp dưới lên, nhằm khắc sâu, mở rộng, cung cấp thêm kiến thức cao hơn dựa trên những kiến thức đó học ở lớp dưới. - Tích hợp liên môn Đây là quan điểm tích hợp mở rộng kiến thức trong bài học với các kiến thức của các bộ môn KHTN-KHXH các nghành khoa học, nghệ thuật khác với các kiến thức đời sống mà học sinh tích lũy được từ cuộc sống cộng đồng, qua đó làm giàu thêm vốn hiểu biết và phát triển nhân cách cho học sinh. Thực tế cho thấy, áp dụng hình thức này, học sinh tỏ ra rất hào hứng với nội dung bài học, vốn kiến thức tổng hợp của học sinh được bổ sung nhẹ nhàng tự nhiên nhưng rất hiệu quả. Mặt khác, các kiến thức liên nghành thông qua hình thức tích hợp này cũng giusp học sinh úo thêm căn cứ, cơ sở để hiểu ũo hơn nội dung, ý nghĩa của văn bản. Kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp được thực hiện ở tất cả úac môn học, tùy theo môn học mà giáo viên hướng dẫn nội dung tích hợp cho phù hợp, cũng như các hoạt động chính khóa, không làm thay đổi mục tiêu và nội dung của môn học, bài học, đảm bảo tự nhiên, nhẹ nhàng, tránh gây nặng nề, ngược lại giúp phần vào việc tạo nên sự gắn ios nội dung học tập với thực tiễn cuộc sống. * Tháng 2. Mô đun 15: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI THỰC HIỆN KẾ HOẠCH DẠY HỌC a. Các yếu tố liên quan đến đối tượng và môi trường dạy học ảnh hưởng tới thực hiện kế hoạch dạy học. Hoạt động 1: Đối tượng dạy học có ảnh hưởng như thế nào đến thực hiện kế hoạch dạy học. Đối tượng dạy học bao gồm: người học và hoạt động học. - Người học: tự lĩnh hội kiến thức, không phải người được dạy. - Hoạt động học: tuân theo cấu trúc HĐ: tư duy, so sánh… Hình thức HHD: Nắm được vấn đề, sáng tỏ vấn đề. Hoạt động 2: Thế nào là môi trường dạy học? - Môi trường bên trong: Chỉ các mối quan hệ nội tại bên trong của người dạy người học như: tiềm năng trí tuệ, những xúc cảm, những giá trị của cá nhân. - Môi trường bên ngoài: Chỉ các yếu tố bên ngoài người học, người dạy như mô trường, người dạy ảnh hưởng tới người học. Môi trường bên trong chỉ rõ sức mạnh nội tại của người học và người dạy, tạo sức ép lên quá trình học và phương pháp sư phạm. Hoạt động 3: Môi trường dạy học ảnh hưởng như thế nào đến thực hiện kế hoạch dạy học? Môi trường có thể ảnh hưởng tiêu cực hoặc tích cực đến người dạy và người học và hoạt động của họ, điều đó làm cho người học phải thay đổi và thích nghi với những điều kiện ấy. Quan hệ giữa môi trường và người học là quan hệ ảnh hưởng và thích nghi. Người học và người dạy phải biết sàng lọc.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> những ảnh hưởng có lợi của môi trường hoặc điều chỉnh các ảnh hưởng bất lợi để dễ thích nghi. Nội dung 4: Các yếu tố liên quan đến chương trình tài liệu, phương tiện dạy học ảnh hưởng tới thực hiện kế hoạch dạy học. Ảnh hưởng của chương trình: GV THCS cần nghiên cứu chương trình. * Cấu trúc chương trình dạy học bao gồm: - Mục tiêu, nội dung môn học bao gồm các phần: chương, bài, đề muc. - Phân phối thời gian cho các phần, chương, bài, đề mục, đây cũng là quy định số tiết ôn tập. - Giải thích chương trình và hướng dẫn thực hiện chương trình. - Ý nghĩa của chương trình dạy học. * Ảnh hưởng của tài kiệu đến thực hiện kế hoạch dạy học: Chương trình dạy học chỉ quy định phạm vi tài liệu dạy học của các môn học, còn nhiệm vụ của SGK là: - Phải trình bày những nội dung của từng bộ môn một cách rõ rang, cụ thể, chi tiết và theo cấu trúc của nó, có chức năng chủ yếu là giúp HS lĩnh hội, củng cố, đào sâu những tri thức tiếp thu trên lớp, phát triển năng lực trí tuệ và có tác dụng giáo dục. - Giúp GV xác định nội dung, lựa chọn phương pháp, phương tiện DH để tổ chức công tác dạy học của mình. *Ảnh hưởng của phương tiện DH đến thực hiện kế hoạch DH. Phương tiện DH là các sự vật, hiện tượng (vật chất hay phi vật chất) được GV và HS sử dụng trong quá trình dạy học như những điều kiện hay công cụ trung gian vào đối tượng dạy học với chức năng khơi dậy, dẫn truyền và làm tăng thêm sức mạnh của những tác động mà GV và HS thực hiện lên đối tượng dạy học đó. c. Tình huống sư phạm trong thực hiện kế hoạch dạy học. * Tình huống sư phạm. Tình huống sư phạm là một dạng đặc biệt của mối quan hệ giao tiếp giữa người giáo dục và người được giáo dục. + Tình huống sư phạm có những đặc điểm sau: - Sự thiếu hụt những tri thức và phương thức hành động để giải quyết vấn đề. - Giải quết các tình huống sư phạm, mặc dù phải đi theo những cách thức riêng biệt ứng với từng hiện tượng cụ thể song giữa chúng có những nét chung. - Tính đa dạng phong phú của tình huống sư phạm được tạo nên bởi các yếu tố khả năng nhận thức và mức độ kinh nghiệm của đối tượng giáo dục. * Phân loại tình huống sư phạm trong dạy học. + Tình huống sư phạm được phân thành 2 loại: - Loại 1: nảy sinh trong quá trình giao lưu trực tiếp giữa chủ thể giáo dục với học sinh. - Loại 2: Được xác sắp đặt theo một nội dung nhất định , kể cả cách thức giải quyết và kết quả thu được theo những phương án khác nhau. * Kỹ thuật xử lý tình huống sư phạm. Mỗi tình huống có cách sử lý tình huống khác nhau..

<span class='text_page_counter'>(48)</span> Chủ thể ứng xử quan tâm trên hết các công việc mà ít lưu tâm tới đời sống.riêng tư và hoạt động cụ thể của đối tượng ứng xử. * Tháng 3: Mô đun 16: HỒ SƠ DẠY HỌC 1. Quá trình xây dựng HSDH ở cấp THCS: a. HSDH của môn học gồm: - HS tổ chuyên môn: HS này do tổ trưởng chuyên môn chủ trì xây dựng. - Thông tin chung: thông tin này do GV bộ môn xây dựng. - Sổ bồi dưỡng chuyên môn cá nhân: sổ này do GV ghi chép trong quá trình công tác nhiều năm. - Sổ dự giờ: do GV xây dựng và ghi chép khi dự giờ, thăm lớp đồng nghiệp. - Sổ điểm cá nhân: Do GV bộ môn xây dựng và ghi chép thường xuyên. - Sổ thiết bị dạy học: do nhà trường xây dựng, quản lý. - Sổ báo giảng: do GV bộ môn xây dựng trước ít nhất 1 tuần trước khi thực hiện. - Kế hoạch bài dạy (giáo án). 2. Quy trình xây dựng HSDH bao gồm các bước: Bước 1: Tổ chuyên môn thảo luận trao đổi về các văn bản chỉ đạo của các cấp, xây dựng kế hoạch tổ chuyên môn bao gồm: chương trình SGK, khung phân phối chương trình, chuẩn kiến thức kỹ năng của chương trình, khung ma trận đề kiểm tra, những vấn đề sử dụng phương tiện, TBDH, những vấn đề về PPDH, các kỹ thuật dạy học tích cực. Bước 2: Hoàn thiện các thông tin chung. Bước 3: Tìm hiểu và cập nhật thường xuyên sổ bồi dưỡng chuyên môn cá nhân, khung phân phối chương trình, các chuẩn kiến thức kỹ năng, sử dụng TBDH, sử dụng các kỹ thuật dạy học tích cực. Bước 4: Tìm hiểu và cập nhật sổ dự giờ, sổ mượn TBDH, xây dựng sổ điểm cá nhân. Bước 5: Xây dựng kế hoạch bài dạy, dựa vào TKB để xây dựng sổ báo giảng. 3. Cách sử dụng, bảo quản và bổ sung hồ sơ dạy học: a. Sử dụng: - Giáo án được GV xây dựng, cập nhật thường xuyên và sử dụng trong quá trình dạy học, được nhà trường kiểm tra thường xuyên theo quy định. - Sổ báo giảng được cập nhật ít nhất 1 tuần khi dạy, GV và viên chức TBDH căn cứ để chuẩn bị các điều kiện bài dạy. - Sổ mượn TBDH cũng được cập nhật ít nhất trước 1 tuần khi dạy, GV và viên chức TBDH căn cứ để chuẩn bị các điều kiện bài dạy. - Sổ dự giờ được GV sử dụng và cập nhật thường xuyên theo quy định. - Sổ bồi dưỡng chuyên môn được GV ghi chép và cập nhật thường xuyên. * Tất cả các sổ sách, kế hoạch trong HSDH được nhà trường kiểm tra thường xuyên và đột xuất. b. Bảo quản: - GV có trách nhiệm cập nhật và bảo quản giá an, sổ báo giảng, sổ dự giờ, sổ bồi dưỡng chuyên môn. - Tổ trưởng chuyên môn bảo quản sổ kế hoạch của tổ chuyên môn. - GV và viên chức TBDH cập nhật và bảo quản sổ thiết bị dạy học..

<span class='text_page_counter'>(49)</span> * Tất cả các sổ sách, kế hoạch trong HSDH được GV và nhà trường bảo quản theo quy định. c. Bổ sung: Tất cả các sổ sách, kế hoạch trong HSDH được GV và nhà trường bổ sung theo quy định. 4. Các năng lực cần thiết ở người GV THCS trong xây dựng và phát triển HSDH. - GV phải biết tìm kiếm, nghiên cứu thông tin mới, tài liệu tham khảo, các tình huống ứng dụng trong thực tiễn để rèn luyện cho HS. - GV phải được bồi dưỡng, nâng cao năng lực tổ chức thực hành ngoại khoá, sử dụng các TBDH. - GV phải có kỹ năng, kỹ thuật dạy học phù hợp với yêu cầu đổi mới PPDH. 5. Việc vận dụng kiến thức, kỹ năng đã được bồi dưỡng vào hoạt động nghề nghiệp thông qua các hoạt động dạy học và giáo dục - Qua phần nhận thức trên đây, người GV phải có nhiệm vụ là phải chuẩn bị đầy đủ các loại HSDH theo yêu cầu. - Thường xuyên cập nhật thông tin đúng thời gian quy định. - Bảo quản tốt HSDH. - Tự bồi dưỡng nâng cao năng lực, tìm kiếm nguồn tư liệu mới làm phong phú nội dung HSDH. 6. Ứng dụng CNTT trong xây dựng và sử dụng HSDH để nâng cao năng lực ứng dụng CNTT. - Bản thân đã xây dựng hồ sơ cá nhân của mình dựa theo các bước sau: Bước 1: Tổ chuyên môn thảo luận trao đổi về các văn bản chỉ đạo của các cấp, xây dựng kế hoạch tổ chuyên môn bao gồm: chương trình SGK, khung phân phối chương trình, chuẩn kiến thức kỹ năng của chương trình, khung ma trận đề kiểm tra, các loại hồ sơ cần có như: sổ dự giờ, sổ kế hoạch cá nhân, lịch báo giảng, sổ chủ nhiệm, sổ điểm cá nhân, sổ điểm lớn, giáo án các loại, sổ tích lũy kích nghiệm, sổ bồi dưỡng thường xuyên, sổ mượn đồ dùng dạy học. Bước 2: Hoàn thiện các thông tin chung. Bước 3: Cập nhật thường xuyên sổ bồi dưỡng chuyên môn cá nhân, khung phân phối chương trình, các chuẩn kiến thức kỹ năng, sử dụng TBDH và các loại sổ sách nói trên. Bước 4: Cập nhật kịp thời sổ dự giờ, sổ mượn TBDH, xây dựng sổ điểm cá nhân, sổ điểm lớn, cập nhật điểm lên cổng CNTT. Bước 5: Xây dựng kế hoạch bài dạy, dựa vào TKB để xây dựng sổ báo giảng và hoàn thành sổ kế hoạch cá nhân. - Bản thân luôn cố gắng xây dựng HSDH có sử dụng CNTT như lên lịch báo giảng trên trang web của trường; nhập điểm kịp thời lên cổng CNTT. 5. Những nội dung bản thân sẽ vận dụng vào thực tiễn giảng dạy và giáo dục tại đơn vị. 1. Nhu cầu và động lực học tập của học sinh THCS. 2. Phương pháp và kĩ thuật xác định nhu cầu học tập của học sinh THCS. 3. Các yêu cầu của một kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp. 4. Mục tiêu, nội dung, phương pháp của kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp..

<span class='text_page_counter'>(50)</span> 5. Các yếu tố liên quan đến đối tượng và môi trường dạy học. 6. Các yếu tố liên quan đến chương trình, tài liệu, phương tiện dạy học. 7. Tình huống sư phạm trong thực hiện kế hoạch dạy học. 8. Xây dựng hồ sơ dạy học ở cấp THCS. 9. Sử dụng, bảo quản và bổ sung hồ sơ dạy học. 6. Những nội dung khó và những đề xuất về cách thức tổ chức bồi dưỡng nhằm giải quyết những nội dung khó này. Đề xuất: Không 7. Tự đánh giá. Sau khi bồi dưỡng bản thân đã tiếp thu được khoảng 80- 90% so với yêu cầu. 8. Kết quả đánh giá, xếp loại BDTX của giáo viên theo học kỳ, năm học. KQ đánh giá. Học kỳ I ĐTB XL. Học kỳ II ĐTB XL. Cả năm ĐTB XL. Kết quả tự đánh giá của cá nhân Kết quả đánh giá của Tổ chuyên môn Kết quả xếp loại của nhà trường Thành Trực, ngày 28 tháng 4 năm 2015 DUYỆT CỦA BAN GIÁM HIỆU. Giáo viên thực hiện. Mai Ngọc Hùng.

<span class='text_page_counter'>(51)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×