Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Lý luận về mâu thuẫn với công tác bảo tồn giá trị văn hoá truyền thống ở quảng bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.63 KB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐOÀN THỊ PHƯƠNG THẢO

LÝ LUẬN VỀ MÂU THUẪN VỚI CƠNG TÁC
BẢO TỒN GIÁ TRỊ VĂN HĨA TRUYỀN THỐNG Ở
QUẢNG BÌNH HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60. 22. 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THANH TÂN

Huế, 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của
bản thân tơi, trong đó có sự kế thừa kết quả nghiên cứu của các học
giả đi trước, với những trích dẫn và sử dụng các tài liệu trong giới
hạn cho phép.
Luận văn này chưa được công bố trên các phương tiện thông
tin cũng như không trùng với bất kỳ luận văn nào trước đây.
Tác giả

Đoàn Thị Phương Thảo




Để hoàn thành luận văn, tôi xin chân
thành cảm ơn Quý thầy cô giáo những người
đã trực tiếp giảng dạy và trau dồi kiến thức
bổ ích cho tôi trong suốt khóa học.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc nhất đến thầy giáo TS.
Nguyễn Thanh Tân - người đã tận tình hướng
dẫn, tạo điều kiện tốt nhất giúp tôi có động
lực hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Khoa Lý
luận chính trị, Trường Đại học Khoa học Huế, Cơ
quan Tỉnh y Quảng Bình, Sở Văn hóa – Thể
thao và Du lịch Quảng Bình cùng gia đình, bạn bè
luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đoàn Thị Phương Thaûo


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO............................................................................................1
ĐẠI HỌC HUẾ......................................................................................................................1



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, Dân tộc Việt Nam đã rèn đúc nên một nền văn
hóa phong phú, đặc sắc với sự kết tinh của những phẩm chất cao đẹp của con người
và cộng đồng người. Đây là một nền văn hố mà sự hiện diện của nó cho đến ngày
nay vừa chứng tỏ sức sống mãnh liệt vừa đảm bảo vững chắc cho sự trường tồn của
dân tộc Việt Nam. Văn hố Việt Nam nói chung là tồn bộ những quan hệ xã hội
cùng những giá trị vật chất và giá trị tinh thần kết tinh ở trong đó, thể hiện hết sức
phong phú dưới dạng những thành quả của lao động và nhận thức dưới dạng những
trạng thái tâm lý, tình cảm, những phong tục tập quán, những cách sống, lối sống,
nếp sống của con người và cộng đồng người Việt Nam.
Nền văn hố này bắt đầu được hình thành, hẳn nhiên là từ khi các tộc người tổ
tiên của dân tộc Việt Nam bước vào lao động trong những điều kiện sinh tụ tự nhiên
đặc thù của mình. Cũng từ đấy người Việt Nam đi vào lịch sử bằng một quá trình lao
động nhẫn nại hết sức bền bĩ đã tạo nên đời sống và từng bước nhưng khá sớm đã
hình thành cộng đồng dân tộc của mình với những sức mạnh cố kết ngày càng tăng
trong cuộc đấu tranh giữ nước. Một trong những sức mạnh cố kết và đảm bảo cho sự
trường tồn của cộng đồng dân tộc Việt Nam có thể nói là sức mạnh quan trọng và
quyết định nhất chính là nền văn hố đặc sắc được tạo dựng trong lịch sử của họ với
một hệ giá trị truyền thống ngày một đầy đủ và bền vững. Nền văn hoá Việt Nam với
một hệ giá trị truyền thống như thế gọi là văn hoá truyền thống Việt Nam. Hệ giá trị
văn hóa truyền thống Việt Nam gồm những tố chất được tôi luyện và tích luỹ trong
lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cộng đồng dân tộc Việt Nam, tức gồm
những giá trị chân, thiện, ích, mỹ làm nên nội dung và căn cứ để xác định bản sắc
văn hoá Việt Nam. Tuy nhiên, hệ giá trị văn hoá truyền thống nói chung khơng phải
là hằng số hay bất biến, mà cũng thường được hình thành, bồi tụ, thay đổi qua từng
giai đoạn lịch sử xã hội.
Ngày nay, q trình tồn cầu hoá, quốc tế hoá mọi mặt của đời sống xã hội, bên
1



cạnh những thách thức cũng đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các quốc gia, dân
tộc trên thế giới cơ hội để phát triển kinh tế, nâng cao mức sống và thu nhập, có cơ
hội giao lưu và tạo thêm nhiều giá trị văn hoá mới làm giàu thêm bản sắc văn hố của
dân tộc mình. Thực sự đây là một q trình phát triển vừa có cơ hội vừa hàm chứa
thách thức, bao hàm mâu thuẫn: cái cũ và cái mới, truyền thống và hiện đại, đời sống
tinh thần và đời sống vật. Những mâu thuẫn này, ngày càng được thể hiện rõ rệt trong
sinh hoạt văn hoá nói chung, trong hưởng dụng các giá trị văn hố truyền thống nói
riêng. Những mâu thuẫn đó là hiện tượng tất yếu khách quan đối với mọi quá trình
phát triển xã hội. Do vậy, vấn đề giải quyết mâu thuẫn trong cơng tác bảo tồn giá trị
văn hố truyền thống dân tộc đang là vấn đề cấp thiết vừa có tính thời sự vừa lâu dài
đối với đất nước ta. Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta trong Báo cáo chính trị trình tại
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Hoàn thiện và thực hiện nghiêm
túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển
văn hóa, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa với phát triển du lịch
và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hóa trong
cơng chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người nước ngoài. Xây dựng và thực hiện các
chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa”[15, tr.75-76].
Vì vậy, cơng tác bảo tồn giá trị văn hoá truyền thống nhằm xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc phải bao hàm trong đó mâu thuẫn và
giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn có vai trị to lớn là vạch ra
nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Quy luật mâu thuẫn là nguyên tắc lý luận mà
trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng khách quan và trong chỉ đạo thực tiễn phải
luôn phát hiện mâu thuẫn, phân loại mâu thuẫn, phân tích các mặt đối lập nhằm có
phương thức giải quyết mâu thuẫn tạo ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển và là
cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Bởi
lẽ đó, việc nắm vững lý luận mâu thuẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin với công tác bảo
tồn giá trị văn hố truyền thống giúp chúng ta có phương thức giải quyết mâu thuẫn

nhằm khắc phục tư tưởng, hiện trạng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với giá trị văn
2


hoá truyền thống, xoá bỏ những phong tục - tập quán cổ truyền, những lạc hậu, lỗi
thời, và những ảnh hưởng, di hại của văn hoá và phải kế thừa, phát triển tinh hoá văn
hoá truyền thống nhằm xây dựng ý thức hệ mới, nền văn hoá mới, con người mới
Việt Nam trong xu thế tồn cầu hố.
Văn hố dân tộc Việt Nam là một phức thể thống nhất trong đa dạng, có giá trị
văn hố truyền thống chung của dân tộc, cũng có sắc thái riêng của từng vùng - miền,
từng thành phần tộc người để hợp thành chỉnh thể văn hoá Việt Nam. Giá trị văn hoá
truyền thống của tỉnh Quảng Bình ngồi những giá trị bện quyện vào giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc Việt Nam cũng mang trong mình những đặc trưng, nét độc
đáo riêng và có sức lan toả giá trị văn hố truyền thống trong nền văn hoá của dân tộc
Việt Nam. Quảng Bình là vùng đất của sự giao thoa văn hóa giữa văn hóa Sa Huỳnh
với văn hóa Đơng Sơn thời tiền sử, nơi đây là vùng phên dậu của Nhà nước Văn
Lang - Âu Lạc, từng là mảnh đất chứng kiến quá trình khai hoang lập làng mở nước
về phương Nam của Nhà nước Đại Việt, là ranh giới giao tranh thời Trịnh - Nguyễn,
đây còn là tuyến đầu của hậu phương lớn Miền Bắc đối với cách mạng Miền Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tất cả những điều đó đã để lại những
dấu ấn đậm nét trong văn hóa, làm cho di sản văn hóa (gồm di sản văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần) rất phong phú, đa dạng và mang đậm dấu ấn của một vùng quê
có bề dày lịch sử, văn hóa. Và đã hun đúc nên nhiều giá trị văn hố truyền thống của
con người Quảng Bình, hồ quyện với các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của
dân tộc.
Trong những năm qua, tỉnh đã quan tâm triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị
quyết T.Ư 5 (khóa VIII) về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc” và đạt được những kết quả tích cực, đặc biệt đã bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của tỉnh. Tỉnh đã xác định bảo tồn, phát
huy giá trị văn hoá truyền thống là một bộ phận cấu thành nền văn hóa Quảng Bình

phong phú và đa dạng. Tỉnh đã và đang dành nhiều quan tâm, nỗ lực bảo tồn các giá
trị văn hóa vật thể và phi vật thể tốt đẹp của các dân tộc, đồng thời hướng tới xây
dựng đời sống văn hố, mơi trường văn hố mới. Có thể khẳng định, cơng tác bảo tồn
3


và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của nhân dân các dân tộc tỉnh
trong những năm qua đã góp phần quan trọng đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc
sống, tạo được sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối
với đường lối đổi mới, CNH, HĐH. Nhiều nét mới trong các giá trị, chuẩn mực đạo
đức, lối sống được hình thành theo xu hướng nhân văn hơn, nhân bản hơn. Những
thuần phong, mỹ tục được phục hồi. Tinh thần dân chủ trong cuộc sống xã hội được
nâng cao. Những hoạt động hướng thiện trở thành phong trào xã hội như đền ơn, đáp
nghĩa, xố đói- giảm nghèo, tương thân, tương ái, góp phần thực hiện thắng lợi các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tỉnh đang triển khai các giải pháp kể cả về nguồn
lực lẫn con người để nhằm bảo bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
tốt đẹp, xây dựng nên văn hóa Quảng Bình tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc.
Tuy nhiên, Trước sự tác động của cơ chế thị trường, của mở cửa hội nhập quốc
tế và giao lưu văn hoá hiện nay, bên cạnh những giá trị tốt đẹp trong văn hố truyền
thống của Quảng Bình cịn có những yếu tố khơng cịn phù hợp với sự phát triển của
thời đại. Các giá trị văn hoá truyền thống dường như ngày càng cách xa cuộc sống
hiện đại hơm nay, nhiều giá trị văn hố truyền thống đang bị mai một, pha trộn, lai
căng, khơng cịn giữ được bản sắc. Vì vậy, vấn đề sưu tầm, phục dựng để bảo tồn giá
trị văn hố truyền thống đã khó, nhưng việc phát huy giá trị của nó cịn khó hơn gấp
nhiều lần để Quảng Bình mãi vẫn xứng danh là vùng đất địa linh, nhân kiệt; tám bát
danh hương; sơn hà cảnh thổ; văn võ, cổ kim.
Với nhận thức trên tôi chọn vấn đề “Lý luận về mâu thuẫn với cơng tác bảo tồn giá
trị văn hố truyền thống ở Quảng Bình hiện nay” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và việc xây dựng

lối sống là vấn đề đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm ở những mức độ khác
nhau. Tiêu biểu, có thể kể đến các cơng trình sau:
Các cơng trình “Về giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam” (tập thể tác giả, Nxb
Thông tin Lý luận, 1983) và “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”
của GS Trần Văn Giàu (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tái bản 1993) đã phân tích sâu
4


về các giá trị tinh thần truyền thống của người Việt Nam. Đặc biệt, GS Trần Văn
Giàu đã phân tích sự vận động của những giá trị tinh thần truyền thống qua những sự
kiện phong phú của lịch sử Việt Nam.
Các cơng trình “Đến hiện đại từ truyền thống” của GS. Trần Đình Hượu
(Chương trình khoa học - cơng nghệ cấp nhà nước KX-07 xuất bản), “Sự chuyển đổi
các giá trị văn hóa trong văn hóa Việt Nam” của GS.TS Đỗ Huy và Trường Lưu
(Nxb Khoa học Xã hội, 1993) và Nguyễn Thu Linh trong luận án “Tính kế thừa trong
sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam” (Ở thời kỳ quá độ lên CNXH) đã bàn sâu về
kế thừa giá trị truyền thống văn hóa.
Ở phạm vi hẹp hơn, trong luận án tiến sĩ của Cù Huy Chử (1995), tác giả đã
đứng trên quan điểm giá trị để nghiên cứu vấn đề “Kế thừa giá trị truyền thống văn
hóa dân tộc trong xây dựng nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam”, đề xuất một số giải
pháp nhằm thúc đẩy sự kế thừa các giá trị truyền thống văn hóa dân tộc nhằm xây
dựng nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam.
Gần đây có nhiều hội thảo chuyên đề, nhiều cơng trình cấp nhà nước nghiên cứu
về giá trị đặc trưng của văn hóa dân tộc Việt Nam và vai trị của nó trong xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) cùng tập thể tác giả đã thực hiện đề tài khoa học
cấp nhà nước KHxã hội 04-02: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”, (Nxb Chính trị Quốc gia, 2001) đã xuất phát từ sự tiếp cận văn hóa,
các yếu tố cấu thành của nó và từ thực tiễn hoạt động văn hóa hơn nửa thế kỷ qua, đã
khảo sát thực trạng văn hóa, đạo đức lối sống, đặc biệt là của thanh niên, qua đó đề

xuất một số giải pháp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn và GS.TS Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên)
cuốn sách “Giá trị truyền thống trước những thách thức của tồn cầu hóa”, tromg đó
có các bài viết đề cập đến vấn đề giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống trong
điều kiện tồn cầu hóa để xây dựng nền văn hóa hiện nay ở Việt nam hiện nay.
GS.TS Đỗ Huy trong cuốn “Nhận diện văn hóa Việt Nam và sự biến đổi của nó trong
5


thế kỷ mới” (Nxb Chính trị Quốc gia, 2002), trên cơ sở nhìn lại văn hóa Việt Nam ở
thế kỷ XX, đã đề cập đến việc xây dựng những giá trị văn hóa Việt Nam trong thế kỷ
mới.
Nghiên cứu về lối sống, lối sống xã hội chủ nghĩa và xây dựng lối sống hiện
nay, có những :
“Lối sống xã hội chủ nghĩa” của tập thể tác giả là tiến sĩ triết học, kinh tế học,
viện sĩ thông tấn Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô (cũ), đã xem xét những vấn đề cơ
bản, những đặc trưng cơ bản và các phương hướng chủ yếu tiếp tục hoàn thiện lối
sống xã hội chủ nghĩa.
Ở góc độ đạo đức, các nhà nghiên cứu trong cuốn sách “Về giáo dục đạo đức
cách mạng trong cán bộ, đảng viên hiện nay - Thực trạng và giải pháp” (Nxb Chính
trị Quốc gia, 2004) đã phân tích thực trạng vấn đề đạo đức, lối sống và đề ra các giải
pháp giáo dục đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay.
Trên bình diện xem xét bản sắc văn hóa dân tộc, trong cơng trình “Bản sắc văn
hóa trong lối sống hiện đại” (Nxb Văn hóa - Thơng tin, 2003), tác giả PGS.TS. Lê
Như Hoa đã đề cập đến nếp sống, lối sống, lối sống đơ thị, lối sống gia đình trong
giai đoạn hiện nay.
Ở góc độ tâm lý, tập thể tác giả trong cuốn sách “Tâm lý người Việt Nam đi vào
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa - Những điều cần khắc phục” (Nxb Chính trị Quốc gia,
2004) đã đề cập đến mặt mạnh, mặt yếu, khẳng định những cái hay cần kế thừa, phát

huy, những hạn chế cần khắc phục trong lao động, học tập và trong lối sống của
người Việt Nam, đề xuất một số kiến nghị về chiến lược và chính sách nhằm phát
triển con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu về văn hố Quảng Bình có các cơng trình như “Những nét đẹp về
văn hố cổ truyền Quảng Bình” (Nguyễn Tú sưu tầm và biên soạn, Nxb Thuận Hoá,
2007), “Giá trị tinh thần truyền thống con người Quảng Bình” (Nguyễn Thế Hồn
chủ biên, Nxb Thuận Hố năm 2001)..., đã nêu lên ở những giá trị và đề xuất những
cách thức kế thừa trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
6


Mục đích của đề tài
Làm rõ mâu thuẫn và phương thức giải quyết mâu thuẫn của công tác bảo tồn
giá trị văn hố truyền ở Quảng Bình hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài
- Phân tích lý luận chung về mâu thuẫn và khái niệm giá trị văn hoá truyền thống.
- Phân tích các mâu thuẫn và phương thức giải quyết các mâu thuẫn của công
tác bảo tồn những giá trị văn hố truyền thống ở Quảng Bình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lý luận mâu thuẫn của triết học Mác - Lênin
và sự vận dụng lý luận mâu thuẫn trong công tác bảo tồn giá trị văn hố truyền thống
ở tỉnh Quảng Bình, giai đoạn 1989 (tái lập tỉnh) đến 2011.
Phạm vi nghiên cứu: về không gian, đề tài nghiên cứu vấn đề bảo tồn những
giá trị văn hoá truyền thốngg ở 7 huyện và thành phố của tỉnh Quảng Bình; về thời
gian, nghiên cứu hoạt động bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống của 7 huyện
và thành phố của tỉnh Quảng Bình giai đoạn 1989-2011.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở lý luận của đề tài là các nguyên lý của triết học Mác - Lênin về văn hoá,

về mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn.
- Phương pháp nghiên cứu đề tài là kết hợp các nguyên tắc nhận thức biện
chứng với các phương pháp như phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, các
phương pháp điều tra thực tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn
gồm 2 chương (4 tiết).

Chương 1
7


LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÂU THUẪN
VÀ GIÁ TRỊ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
1.1. Lý luận chung về mâu thuẫn
1.1.1. Quan niệm trước Mác về mâu thuẫn
Từ thời cổ đại, tìm lời giải cho câu hỏi về nguyên nhân hình thành, vận động
của vạn vật trong vũ trụ các nhà triết học đã từng bước phát hiện ra mâu thuẫn.
Ở phương Đông, nhiều nhà triết học của Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại đã có
những phỏng đốn thiên tài về sự tương tác các mặt đối lập và coi đó là nguồn gốc
hình thành, vận động vạn vật.
Các nhà triết học Trung Hoa cổ đại quan sát sự biến hố khơng ngừng của các
hiện tượng và thấy ra ở trong đó những thế lực không ngừng ức chế lẫn nhau, giúp
đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau, họ nêu ra thuyết
“Âm - Dương" với những tư tưởng duy vật biện chứng sơ khai về mâu thuẫn. Thuyết
Âm - Dương được viết thành văn lần đầu tiên trong sách "Quốc ngữ" và thể hiện rõ
nhất trong "Kinh Dịch" đã cho rằng, có hai thế lực (chủ yếu là vật chất) tồn tại phổ
biến trong vũ trụ: một thế lực có dương tính, tích cực, nhiệt liệt, cứng cỏi và thế lực
kia có âm tính, tiêu cực, lạnh nhạt, nhu nhược, tác động qua lại lẫn nhau tạo nên tất
cả vạn vật. Bên cạnh đó, các nhà triết học cịn phát hiện ra tính qui luật của sự tác

động qua lại giữa Âm và Dương.
Âm dương đối lập, mâu thuẫn nhau trong mọi phương diện. Về tính chất: dương
thì cứng, nóng, âm thì mềm, lạnh. Về đường đi lối về: dương là thăng (đi lên), âm là
giáng (đi xuống), "cái này đi ra thì cái kia đi vào, cái này dịch sang bên trái, thì cái
kia dịch sang bên phải". Âm dương đối lập nhau cả ở phương vị nữa. Theo "Nội
kinh", khí dương lấy phía Nam làm phương vị, lấy phía Bắc làm nơi tàng thế. Khí âm
lấy phía Bắc làm phương vị, lấy phía Nam làm nơi tiềm phục. Nếu suy rộng hơn nữa
thì phàm những thuộc tính tương đổi như hoạt động với trầm tĩnh, sáng sủa với đen
tối, đông - tây, trong xã hội : quân tử - tiểu nhân, hưng phấn với ức chế, vơ hình với
hữu hình... chồng - vợ, vua - tôi... Qua các hiện tượng tự không một cái gì khơng phải
8


là quan hệ đối nhiên, xã hội, các tác giả trong "Kinh Dịch" đã lập âm dương. Do đó,
âm dương tuy là bước đầu phát hiện được những mặt đối lập khái niệm trừu tượng
nhưng nó có sẵn cơ sở tồn tại trong các hiện tượng đó và khẳng định vật chất, nó có
thể bao quát và phổ cập tất cả vật nào cũng ơm chứa âm dương trong nó: các thuộc
tính đối lập của mọi sự vật, âm "vật vật hữu nhất thái cực" (vạn vật, vật nào dương
tuỳ đối lập, mâu thuẫn nhau, song cũng có một thái cực, thái cực là âm dương),
không tách biệt nhau mà xâm nhập vào nhau, không phải là tuyệt đối mà là tương
đối, không phải là đại biểu cố định cho một số sự vật nào đó mà là đại biểu cho sự
chuyển biến, đối lập của tất cả các sự vật. Song âm dương không phải là hai mặt tách
rời nhau và chỉ có đấu tranh với nhau mà cịn thống nhất với nhau, nương tựa vào
nhau để tồn tại, "âm là cái dương vẫn tìm, mềm là cái dương vẫn lấn".
Thế nhưng với vạn vật thì "cơ dương bất sinh, cơ âm bất trường". Nếu chỉ một
mình dương hay một mình âm thì khơng thể sinh thành, biến hóa được. Nếu một mặt
mất đi thì mặt kia cũng mất theo, "dương cơ thì âm tuyệt", âm dương phải lấy nhau
để làm tiền đề tồn tại cho mình. Ngay cả cái gọi là âm dương cũng chỉ có ý nghĩa
tương đối, vì trong dương bao giờ cũng có âm, trong âm bao giờ cũng có dương. Khi
dương phát triển đến thái dương thì trong lịng nó đã xuất hiện thiếu dương rồi, khi

âm phát triển đến thái âm thì trong lịng nó đã xuất hiện thiếu âm rồi. Sở dĩ gọi là âm
vì trong nó phần âm lấn phần dương, sở dĩ gọi là dương vì trong nó phần dương lấn
phần âm. Âm dương bao giờ cũng nương tựa vào nhau. Sách Lão Tử viết: "phúc là
chỗ núp của họa, họa là chỗ dựa của phúc”.
Bên cạnh quy luật âm dương đối lập và thống nhất, cịn có quy luật tiêu trưởng
và thăng bằng của âm dương nhằm nói lên sự vận động khơng ngừng, sự chuyển hóa
lẫn nhau giữa hai mặt âm dương để duy trì tình trạng thăng bằng tương đối của sự
vật. Nếu mặt này phát triển thái quá sẽ làm cho mặt khác suy kém và ngược lại. Từ
đó làm cho hai mặt âm dương của sự vật biến động không ngừng. Sự thắng phục, tiêu
trưởng của âm dương theo quy luật "vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản". Sự vận
động của hai mặt âm dương đến mức độ nào đó sẽ chuyển hóa sang nhau gọi là
"dương cực sinh âm, âm cực sinh dương". Sự tác động lẫn nhau giữa âm đương luôn
9


nảy sinh hiện tượng bên này kém, bên kia hơn, bên này tiến, bên kia lùi. Đó chính là
q trình vãn động, biến hóa và phát triển của sự vật, đồng thời cũng là quá trình đấu
tranh tiêu trưởng của âm dương.
Những quy luật cơ bản của âm dương nói lên sự mâu thuẫn, thống nhất, vận
động và phát triển của một dạng vật chất, âm dương tương tác với nhau gây nên mọi
sự biến hóa của vũ trụ. Cốt lõi của sự tương tác đó là sự giao cảm âm dương. Điều
kiện của sự giao cảm đó là sự vật phải trung và "hòa" với nhau. Âm dương giao hòa
cảm ứng là vĩnh viễn, âm dương là hai mặt đối lập trong mọi sự vật, hiện tượng. Vì
vậy, quy luật âm dương cũng là quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển
không ngừng của mọi sự vật khách quan.
Lão Tử cũng coi sự tương tác của các mặt đối lập là nguồn gốc sinh thành của
vạn vật qua hai phạm trù “Đạo” và “Đức” trong tác phẩm “Đạo Đức Kinh”.
Theo Lão Tử, “Đạo” là khởi nguyên, nơi hội tụ hai mặt chủ quan và khách quan
của vạn vật. Mọi biến chuyển trong vũ trụ, trong hoạt động của xã hội loài người đều
bắt nguồn từ “Đạo”. Nó chứa đựng hợp nhất hai mặt đối lập và luôn luôn luân

chuyển trong vũ trụ là “âm” và “dương”. “Âm” mang tính nữ, tối, tĩnh, mềm và
hướng nội, “dương ” mang tính nam, sáng, động, cứng và hướng ngoại. Hai mặt
“âm” và “dương” không tồn tại độc lập mà luôn luôn tác động lẫn nhau, kết hợp với
nhau, bổ sung cho nhau để tạo nên khởi nguyên của vũ trụ và nhân sinh. Đạo của Lão
Tử nhấn mạnh tính chất của các mặt đối lập trong sự vật, chỉ ra rằng, chính chúng đã
tạo nên bản thân mỗi một bên đối lập, đồng thời tạo nên sự chuyển hóa giữa chúng:
“Cái hữu và cái vô sinh ra nhau, cái khó và cái dễ làm nên nhau, cái dài và cái ngắn
tạo thành hình dạng của nhau, cái cao và cái thấp tạo nên độ nghiêng của nhau, âm và
thanh cùng hòa với nhau, cái trước và cái sau theo đuổi nhau”.
“Đạo” còn là con đường, là quy luật sinh thành, biến hố của vạn vật. Theo
nghĩa đó, “Đạo” vừa có trước vạn vật, vừa nằm trong từng sự vật cụ thể. Đạo có
trong từng sự vật gọi là “Đức”. Đạo sinh ra vạn vật còn Đức là “mầm sống ngấm
ngầm” trong vạn vật, nuôi sống và bảo tồn chúng. “Đạo” được Lão Tử nói đến là
thiên nhiên, năng lượng sức sống và sự vận hành của thiên nhiên. Cũng có thể gọi là
10


tự nhiên hoặc thiên lý. Và Đức là cứ theo tự nhiên mà sống, thuận theo thiên lý mà
lưu hành. Trong cái Đạo của vũ trụ ấy, thiên nhiên và những qui luật của chúng tập
hợp thành cái trụ cốt, cái bản thể, còn đất trời và sinh linh, v.v. là những thực thể có
vị trí thích hợp và chức năng thích hợp, thao tác theo một thể thức tự nhiên. Tóm lại,
Lão Tử nhìn sự vật thường xun biến đổi và nhận ra luật mâu thuẫn nơi vẻ ngoài
của vạn vật, “cái yên tĩnh là chủ của cái xáo động, cái quí lấy cái tiện làm gốc, cái
cao lấy cái thấp làm gốc, cái thật đầy thì giống như trống khơng, con người thật khơn
khéo thì trơng giống như vụng về...”
Lão Tử cịn nhận ra luật qn bình và luật phản phục ở bên trong vũ trụ, Theo
ông trong cùng một lúc, bị chi phối bởi luật quân bình và luật phản phục, vũ trụ vận
hành với Đạo, vạn vật đều nương tựa vào nhau mà sinh tồn và tương tác tạo điều kiện
cho nhau “có và khơng cùng sinh; khó và dễ cùng thành, dài và ngắn cùng hình, cao
và thấp cùng nghiêng, thanh và âm cùng họa, trước và sau cùng theo” . “Vật gì phát

tới cực điểm thì phản hồi, hễ tăng rồi thì phải hao giảm - trăng trịn rồi khuyết, hết
mùa đơng tới mùa xn... Cùng tắc biến, biến tắc thơng....”. Tóm lại, hai luật này thể
hiện mâu thuẫn ngay trong sự tồn tại, phát triển của vũ trụ. Luật quân bình giữ cho sự
vật được thăng bằng theo một trật tự điều hoà tự nhiên, không thái quá, không bất
cập. Luật phản phục thúc đẩy sự vật khơng ngừng biến hố, phát triển đến cực điểm
thì trở thành cái đối lập với nó. Bởi vậy, muốn thủ tiêu sự vật nào đó thì hãy làm cho
nó phát triển đến đỉnh điểm và khi đó nó sẽ trở thành cái đối lập với nó, thì khơng
cịn là nó nữa.
Dù căn bản cịn sơ khai, nhưng tư tưởng của Lão Tử phản ánh đúng bản chất
của thế giới. Sự tồn tại của thế giới là tự thân, khách quan, luôn vận động theo quy
luật nội tại, do sự tương tác giữa các mặt đối lập ngay trong mỗi sự vật. Tuy nhiên,
ông đánh giá chưa đúng vai trò của thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, chú
trọng sự thống nhất mà hạ thấp mà hạ thất sự đấu tranh. Chính điểm này đã làm cho
tư tưởng của ông không triệt để. Nhưng nhìn chung, với những đóng góp xuất sắc
vào lý luận mâu thuẫn, Lão Tử xứng đáng là đại biểu của tư duy biện chứng phương
Đông cổ đại.
11


Ở Ấn Độ, tiêu biểu là Phật giáo, học thuyết này đã nêu lên rằng, vũ trụ là bao la,
vô cùng, vô tận, luôn luôn diễn tiến, vô thuỷ, vô chung, khơng làm gì có trạng thái
tĩnh bất di bất dịch cả. Vạn vật trong thế giới, kể cả con người được cấu thành bởi sự
liên hợp của hai yếu tố “Sắc” và “Danh”. Sắc là yếu tố vật chất, là cái có thể có cảm
giác được. Nó bao gồm đất, nước, lửa và khơng khí. Cịn Danh là yếu tố tinh thần, là
cái tâm lý khơng có hình chất mà chỉ có tên gọi. Cái “Danh” và cái “Sắc” đó hợp lại
với nhau thành “ngũ uẩn”. Ngũ uẩn tác động qua lại trong sự biến hố vơ thường tạo
nên vạn vật. Quan niệm này của Phật giáo đã có những giá trị nhất định trong tư duy
về mâu thuẫn đó là đã nhìn thấy được hai yếu tố đối lập tương quan liên hệ thâm
nhập với nhau là “Sắc” và “Danh” hình thành nên vạn vật. Triết học Phật Giáo đã
vạch ra được những mâu thuẫn nội tại của chúng như bản thể tuyệt đối trong thế giới.

Tuy còn sơ khai, nhưng đã hàm chứa trong đó yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng.
Trong quan niệm của Phật giáo, nhận thức của con người cũng là một mâu
thuẫn và chính nó đã dẫn con người đến khổ. Trong lời thuyết pháp dành cho năm
thầy sa môn, Đức Phật dạy rằng, này các thầy sa môn, đây là phép màu về nguyên
nhân sự khổ; nguyên nhân sự khổ là lịng tham sống, vì tham sống mà ln hồi sinh
tử, càng tham, càng muốn, càng được càng tham, tham sống, tham sướng, tham
mạnh. Phân tích tâm lý con người và suy nghĩ về siêu hình để tìm ra nguyên nhân
thâm trầm sâu rộng của đau khổ, Phật giáo cho rằng con người và vạn vật vốn là vô
ngã (tất cả thế giới là một trường biến hố khơng ngừng, trơi chảy khơng ngớt nên
khơng có gì là vốn của ta), vơ thường (khơng gì là tồn tại vĩnh viễn, không ngừng vận
động, biến đổi), nhưng do vô minh (không hiểu biết) con người đã nhầm lẫn mà cho
rằng nó là của ta, của riêng ta và tất cả đều tồn tại vĩnh viễn. Vì vậy, con người cố
nắm lấy, giữ lấy cho riêng mình. Nhưng trên thực tế thì ngược lại, con người không
thể nắm giữ được cái mà mình vốn khơng đủ khả năng làm chủ(thay đổi qui luật
khách quan theo ý của con người). Chính điều đó đẩy con người rơi vào mâu thuẫn,
rồi thất vọng và nảy sinh buồn khổ. Giống như bản thân con người là một pháp trong
vạn pháp, mà vạn pháp thì vơ thường, nhưng con người khơng nhận thức được điều
đó, nên cố tìm cách biến sự tồn tại hữu hạn của mình thành vơ hạn, trường sinh bất
12


tử. Khi khơng thực hiện được tham vong đó, khi cái chết đến gần, con người buồn
khổ, tuyệt vọng và khơng chấp nhận sự thật ấy. Vì vậy, theo Phật giáo chỉ có nhận
thức đúng đắn của mình về sự tồn tại của mình và thế giới trong sự vận động, biến
hố khơng ngừng, khơng có gì là vĩnh cửu và nguồn gốc của sự vận động, biến đổi
đó là do sự kết hợp của các mặt đối lập tồn tại ngay trong bản thân sự vật và thế giới.
Đóng góp của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại vào lý luận về mâu thuẫn của
nhân loại có các đại biểu tiêu tiểu Hêraclít và Aritstốt. Hêraclít, người được Hêgen
coi là ông tổ của phép biện chứng, trở nên bất hủ với quan niệm độc đáo về sự hài
hòa và đấu tranh của các mặt đối lập.

Trong con mắt của nhà biện chứng xuất sắc, Hêraclít nhìn thấy được sự tồn tại
phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật hiện tượng. Điều đó thể hiện trong
những phỏng đốn thiên tài của ơng về vai trị của những mặt đối lập trong sự biến
đổi phổ biến của tự nhiên, về sự trao đổi của những mặt đối lập, về sự tồn tại, thống
nhất của các mặt đối lập. Theo ông, cùng một cái ở trong chúng ta: sống và chết, thức
và ngủ, trẻ và già, vì rằng cái này biến đổi thì thành cái kia và ngược lại, từ mọi vật
sinh ra cái duy nhất, từ duy nhất sinh ra mọi vật... Như vậy, Hêraclít có phỏng đốn
về sự phân đôi của cái thống nhất thành những mặt đối lập, bài trừ nhau nhưng gắn
liền với nhau. Thống nhất của các mặt đối lập là sự đồng nhất của cái đa dạng và sự
hài hoà giữa các mặt đối lập cấu thành chỉnh thể (sự vật, hiện tượng, thế giới, vũ trụ),
Ơng viết: Sự hài hịa được tạo ra bởi cái chỉnh thể và cái chưa chỉnh thể (cái bộ
phận), cái phù hợp với nhau và cái không phù hợp với nhau, cái tích tụ và cái phân
tán, cái hịa điệu và cái khơng hịa điệu, và từ cái chỉnh thể (đối lập) sinh ra cái một
và từ cái một sinh ra cái chỉnh thể. Chính sự hài hòa ấy đã đem lại cho mọi sự vật,
hiện tượng và cả vũ trụ này tính xác định, tính vững chắc và tính ổn định. Nhờ sự hài
hịa vốn có ấy mà mọi sự vật, hiện tượng và cả vũ trụ mới là nó, mới tồn tại. Nhưng
sự hài hịa ấy theo Hêraclít, chỉ là tương đối, tính xác định, vững chắc và ổn định của
mọi sự vật, hiện tượng và cả vũ trụ cũng là tương đối. Trong vũ trụ này khơng có cái
gì là bất biến, là tuyệt đối, vĩnh viễn ngoại trừ sự vận động.
Hêraclít thấy khơng có sự vật, hiện tượng đứng im tuyệt đối mà trái lại, tất cả
13


đều ở trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại. Ơng nói:
cái chết của lửa chỉ là sự ra đời của khơng khí, cái chết của khơng khí chỉ là sự ra đời
của nước. Nước sinh ra từ cái chết của đất, khơng khí sinh ra từ cái chết của nước,
lửa sinh ra từ cái chết của khơng khí. Theo quan điểm về vận động của ơng, lửa chính
là nguồn gốc của mọi sự thay đổi. Mọi sự hài hòa của vũ trụ đều có thể bị phá vỡ bởi
cuộc chiến tranh giữa các mặt đối lập vốn có của nó. Nhờ sự đấu tranh, trao đối và
chuyển hóa của các mặt đối lập mà mọi sư vật, hiện tượng và cả vũ trụ có thể chuyển

hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác, vận động và biến đổi. Đấu tranh của các
mặt đối lập đó là nguồn gốc của mọi cái đang hiện hữu, là khởi nguyên sáng tạo của
sự sống và tồn tại, Vì vậy, đấu tranh là tất yếu và phổ biến. Hêraclít cịn cho rằng,
trong xã hội, đấu tranh của các mặt đối lập, các lực lượng đối lập nhau sẽ làm cho xã
hội tiến bộ hơn.
Với những luận giải sâu sắc về sự hài hoà và đấu tranh của các mặt đối lập, vai
trò của từng yếu tố trong một chỉnh thể, Hêraclít đã đặt nền móng vững chắc cho các
nhà triết học về sau, khi nghiên cứu vấn đề này và đã đưa triết học Hy Lạp cổ đại nói
chung và triết học duy vật cổ đại nói riêng tiến lên một bước mới với những quan
điểm duy vật và yếu tố biện chứng. Tuy nhiên, trong quan niệm của Hêraclít cịn có
mặt hạn chế, đó là mới chỉ ra mâu thuẫn thuẫn tuý, mà chưa xác định mâu thuẫn đi
đến đâu, tính chất của nó ra sao. Mặc dù vậy, ông vẫn xứng đáng giữ vị trí trung tâm
trong lịch sử phép biện chứng Hy Lạp cổ đại.
Khi bàn về lý luận mâu thuẫn của các triết gia Hy Lạp cổ đại, khơng thể khơng
nói đến triết gia Aritxtốt người được C.Mác đánh giá là “nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời
cổ”. Tư tưởng mâu thuẫn của Aritstốt được thể hiện khá rõ trong hệ thống các cặp
phạm trù, ông đã nêu lên mối quan hệ biện chứng giữa tất cả các phạm trù. Nhờ có
bản chất mà toàn bộ các phạm trù đã tạo nên một hệ thống có kết cấu chặt chẽ. Theo
Aritstốt, bản chất được bộc lộ rõ thông qua các phạm trù khác. Các phạm trù khác thể
hiện từng mặt, từng khía cạnh của bản chất. Các phạm trù đó đều có sự đồng nhất và
đối lập. Đồng nhất của các phạm trù thể hiện không một phạm trù nào tồn tại thiếu sự
hiện diện của phạm trù bản chất. Về mặt này mọi phạm trù đều giống nhau bởi chúng
14


là những phạm trù cơ bản và từ các phương diện khác nhau thể hiện cùng một bản
chất, phụ thuộc vào bản chất ở một mức độ giống nhau, còn đối lập của các phạm trù
thể hiện ở chỗ, mỗi phạm trù riêng biệt chỉ xác định bản chất ở một khía cạnh nhất
định và từ một phía nhất định. Nội dung của từng phạm trù rất cụ thể và riêng biệt.
Nhưng sự đối lập giữa các phạm trù của Aritstốt khơng phải là một sự đối lập tuyệt

đối. Ơng khơng xem xét chúng một cách hồn tồn tách biệt nhau mà trong một sự
thống nhất và có mối quan hệ lẫn nhau, sự chuyển tiếp lẫn nhau. Aritstốt khẳng định
mọi sự vật trong thế giới đều là sự thống nhất giữa bản chất và hình dạng. Ơng đã
đưa ra tư tưởng biện chứng sâu sắc coi: “các sự vật đang tốn tại và bản chất được cấu
thành từ các mặt đối lập”.
Hệ thống phạm trù của Aritstốt chiếm một vị trí quan trong lịch sử sử triết học
và ngày nay nhiều phạm trù của nó vẫn cịn giữ ngun giá trị bởi vì đó là những
phạm trù cơ bản nhất trong tư duy của nhân loại. Mặc dù trong triết học của Aritstốt
ta nhận thấy có sự giao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa biện
chứng và siêu hình, nhưng trong hệ thống phạm trù của mình, ơng chủ yếu đặt ra
những vấn đề của phép biện chứng trong đó có lý luận về mâu thuẫn.
Trong logic học, Aritstốt đã nghiên cứu cấu trúc bên trong của phán đốn thơng
thường, giải phẩu học về nó, về quan hệ chủ thể và vị thể. Ơng đã xem chủ thể và vị
thể là các bộ phận cấu thành phán đoán, là biểu hiện về sự thống nhất biện chứng của
các mặt đối lập. Mối liên hệ qua lại giữa chủ thể và vị thể được thực hiện được nhờ
liên từ. Liên từ chỉ ra rằng chủ thể khơng những là chủ thể mà cịn là vị thể và ngược
lại, chủ thể và vị thể vừa có thể là chính mình vừa có thể là cái đối lập với mình.
Chẳng hạn trong phán đốn “Xơcrát là người” có nghĩa cái riêng là cái chung và như
vậy, phán đoán tạo sự thống nhất của các mặt đối lập.
Bên cạnh đó, Aritstốt đã manh nha có ý thức về sinh hoạt xã hội như là lĩnh vực
của những mâu thuẫn, khi cho rằng, xã hội ông đang sống chứa đựng những đối lập
giữa lợi ích chủ nơ và nơ lệ, giữa các lực lượng giới cầm quyền và các cơng dân.
Cùng với dịng chảy của thời gian và những biến động của lịch sử, tư duy nhân
loại về lý luận mâu thuẫn vận động, biến đổi theo những quy luật nhất định, vừa liên
15


tục, vừa đứt đoạn, vừa kế thừa, có sự đan xen yếu tố mới và cũ để làm nên những nét
độc đáo riêng của từng giai đoạn lịch sử triết học đã tạo nên nhiều thang bậc và âm
hưởng khác nhau trong triết học. Nếu như nền triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo

đầu cho những giá trị tinh hoa về lý luận mâu thuẫn, Thì nền triết học Trung cổ là
khoảng lặng, trong khoảng lặng đó triết học đã trở thành “đầy tớ” cho thần học.
Nhiệm vụ của triết học thời kỳ này là giải thích đúng đắn và chứng minh về mặt hình
thức cho những tín điều tôn giáo do nhà thờ thiên chúa giáo thống trị, đứng đầu là
Giáo hoàng La Mã đặt ra và để bảo vệ Kinh thánh, Đức tin của mình dường như triết
học kinh viện đã cố tình lảng quên và không dung nạp lý luận mâu thuẫn – thành quả
của triết học Hy Lạp cổ đại. Bởi lẽ, lý luận mâu thuẫn sẽ vạch ra tính chất mâu thuẫn
của những giáo điều trong Kinh thánh với hiện thực phát triển của tự nhiên, xã hội và
tư duy con người.
Theo triết học kinh viện, Thiên chúa là mẫu mực, là cái hoàn hảo tuyệt đối, là
đấng anh linh tạo ra sự tồn tại vạn vật trong thế giới, là thước đo cho mọi hiểu biết
đúng đắn của con người. Vì vậy, con người chỉ có một nhiệm vụ duy nhất sống và
thờ phụng Thiên chúa, phải xem tất cả những giáo điều trong Kinh thánh là chân lý
và không được phép ngi ngờ, kiểm thảo lại. Vì theo các nhà triết học kinh viện,
những gì diễn ra trong thế giới hiện thực khơng có gì mâu thuẫn với kinh thánh, nếu
có mâu thuẫn thì đó là do con người chưa hiểu hoặc chưa đủ đức tin đối với Đấng tối
cao và những lời răn dạy của Ngài. Như vậy, mâu thuẫn là do con người tạo ra và
chính con người loại bỏ, tẩy trừ nó, có như vậy mới xố hết nghi ngờ để toàn tâm,
toàn ý phụng thờ thiên chúa.
Đây là thời kỳ lịch sử mà tiếng nói “trí tuệ và lương tri” bị áp đảo bởi sự tuyên
truyền của giáo hội về đức tin nơi thiên chúa, các nhà thần học được phép tuyên bố
rằng mọi tri thức nhân loại có thể rút ra từ kinh thánh; tất cả những gì trái với kinh
thánh đều đáng nguyền rũa và xử tội. Thế giới trong triết học kinh viện là thế giới đã
được Thiên chúa mặc khải và không vận động và biến đổi, nếu có vận động và biến
đổi thì đó là do cú hích từ thượng đế, chứ không phải do đấu tranh của các mặt đối
lập ngay trong bản thân thế giới. Triết học kinh viện đã kìm hãm sự phát triển của tư
16


tưởng biện chứng nói chung và lý luận về mâu thuẫn nói riêng làm cho tư tưởng đó

dường như bị lụi tàn trong thời kỳ Trung cổ - thời kỳ đen tối của triết học và khoa
học nhân loại.
Khi bóng đêm của đêm trường trung cổ bị những ánh sáng bình minh của nền
văn minh cơng nghiệp chiếu rọi thì Tây Âu đã có những bước chuyển dữ dội, chuyển
sang thời kỳ phục hưng, thời đại bừng dậy sau dấu lặng và khoảng trắng quá dài, thời
đại phục sinh những giá trị của nền văn hoá cổ đại Hy Lạp đã bị lãng quên trong nền
chuyên chế phong kiến kéo dài hàng nghìn năm ở châu Âu trên nền tảng kinh tế - xã
hội mới và được chỉ đạo bởi một hệ tư tưởng mới.
Về mặt văn hoá, những tư tưởng triết học, những phát kiến khoa học của thời cổ
đại được khôi phục và phát triển. Các nhà tư tưởng tiên tiến của thời đại phục hưng
đặc biệt dương cao ngọn cờ nhân văn. Họ xem con người là đối tượng nghiên cứu
của triết học, những tư tưởng tốt đẹp về con người của Prôtago, Xôcrát…trở thành
tiền đề lý luận cho ước mơ giải phóng con người. Các giá trị tốn học của Talét, hình
học của Ơclít, những yếu tố duy vật trong triết học của Êpiquya.., cũng dược xem xét
và ghi nhận thoả đáng. Đặc biệt hơn, những tư tưởng biện chứng thời cổ đại được
làm sống lại và nâng lên tầm cao mới, nhờ có chỗ dựa vững chắc từ những thành tựu
của khoa học (đặc biệt là khoa học tự nhiên thời kỳ này).
Trong bước nhảy vọt về triết học đó, triết học phục hưng đã đạt được những
thành tựu rực rỡ về lý luận mâu thuẫn trong đó nổi bật nhất là tư tưởng biện chứng
“về sự tương tác các mặt đối lập” của Brunô.
Thế giới trong triết học Brunô là thế giới vật chất, vô tận, vĩnh viễn. Trong thế
giới, mọi cái đều liên hệ với nhau và đều vận động, cái này mất đi là tiền đề của cái
khác ra đời. Ông quan niệm: nếu suy nghĩ một cách chín chắn thì chúng ta sẽ thấy
rằng tiêu diệt chẳng qua chỉ là phát sinh, phát sinh chẳng qua chỉ là tiêu diệt. Tình
yêu là lịng căm thù, lịng căm thù là tình u. Rốt cuộc, căm thù là cái đối lập tức là
căm thù là cái thứ hai; do vậy, về mặt thực thể và gốc rể, tình yêu và căm thù, hữu
nghị và thù hằn là cùng một cái. Như vậy, theo Brunơ q trình đối lập trong khi bài
trừ phủ định lẫn nhau thì chúng lại thống nhất với nhau. Quá trình tiêu diệt và sự phát
17



sinh là hai quá trình độc lập nhưng sự tiêu diệt khơng khác gì hơn là sự chuyển hố từ
cái này sang cái khác. Ơng cịn cho rằng trong sự thống nhất của thế giới có sự phù
hợp giữa “cái nhỏ nhất” và “cái lớn nhất”. Theo ông, ba cái nhỏ nhất thuộc ba lĩnh
vực khác nhau: trong toán học là “điểm”, trong vật lý là “nguyên tử”, trong triết học
là “đơn tử”, tương ứng với “đơn tử” thì trong triết học là giới tự nhiên vô cùng vô
tận.
Tư tưởng biện chứng của Brunô đã vượt xa hơn các nhà triết học Hy Lạp cổ đại
khi xem xét “cái lớn nhất” và “cái nhỏ nhất” trong sự thống nhất của chúng; tương
quan giữa “cái lớn nhất” và “cái nhỏ nhất” thể hiện mâu thuẫn tổng quát của toàn thể
vũ trụ. Tuy nhiên, Brunô mới chỉ đề cập đến mâu thuẫn trong tự nhiên và trong tư
duy, mà ít bàn đến mâu thuẫn trong xã hội, chưa chỉ ra được mối quan hệ, vai trò của
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, chưa thấy được vai trò của mâu thuẫn
đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Khác với thời phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII - XVIII) ở các nước Tây Âu
là thời kỳ giai cấp tư sản đã dành được chính quyền, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa được xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị, nó đã tạo ra những
vận hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát triển mà trước hết là khoa hoc tự nhiên, trong
đó cơ học đã đạt được trình độ là cơ sở cổ điển. Khoa học tự nhiên thời kỳ này mang
đặc trưng là khoa học tự nhiên - thực nghiệm. Trong tư duy của hầu hết các nhà khoa
học thời kỳ này, nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự trừu tượng, tách rời, không
vận động, không phát triển, nếu có đề cập đến vận động thì là sự vận động máy móc
khơng phát triển và thế giới hiện thực được chia nhỏ thành những mảnh, những bộ
phận nhỏ và mỗi bộ phận có những đặc trưng riêng, giữa chúng ít có sự tương đồng
hay liên hệ với nhau.
Trước địi hỏi của q trình phát triển phương thức sản xuất tư bản ở các nước
Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: phát hiện ra điện, phát hiện ra
ôxy và bản chất sự cháy của Lavoadiê; việc phát hiện ra tế bào của Lơvenhúc; học
thuyết về dưỡng khí của Prítxki và Sienlo... Những thành tựu đó chứng tỏ sự hạn chế
của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất của các hiện tượng tự

18


nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra. Nó địi hỏi cần có cách nhìn mới, phương
pháp mới, quan niệm mới về vai trò và khả năng của con người. Triết học cổ điển
Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó.
Triết học cổ điển Đức với hai đại biểu xuất là Cantơ và Hêgen đã khôi phục và
phát triển tư tưởng biện chứng về những đối lập đạt được đỉnh cao nhất trong sự
phát triển của nó trước khi phép biện chứng mácxít ra đời.
Cantơ là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của nhân loại trước Mác,
khi ơng có cơng nêu lên phép biện chứng và đã thừa nhận nó như một thuộc tính
tất yếu của lý tính. Lênin cho rằng cơng lao lớn của Cantơ đã làm cho phép biện
chứng thoát khỏi “cái vẻ bề ngồi độc đốn”. Nét độc đáo trong tư tưởng của
Cantơ là những mâu thuẫn được nghiên cứu đều thuộc về nhận thức; “Ông chỉ ra
những đặc điểm riêng biệt của những mâu thuẫn biện chứng trong nhận thức,
những nghịch lý sâu sắc trong những vấn đề triết học, tính mâu thuẫn của lý tính
của tồn bộ nhận thức như là một q trình”.[44, tr.49]
Khát vọng cao đẹp của trí tuệ của con người là vươn tới nền tảng tận cùng của
mọi sự vật để có được ý niệm về thế giới, về vũ trụ nói chung; lý tính muốn xâm
nhập cả vào lĩnh vực "vật tự nó", để đạt tới tri thức trọn vẹn, tuyệt đối lại nảy sinh
những antinomia (mâu thuẫn, nghịch lý) do khả năng con người khơng cho phép làm
được việc đó. Các antinomia này, theo Cantơ, không phải là những lỗi logic thông
thường mà con người có thể khắc phục được, mà là những mâu thuẫn khơng thể tránh
khỏi trong tư duy lý tính. Khi con người đặt vấn đề về nhận thức thế giới với tư cách
là một chỉnh thể vơ điều kiện, thì ngay lập tức lý tính con người đã hình thành nên
các vấn đề cụ thể mà nó tưởng rằng có thể giải quyết được, nhưng hố ra lại khơng
đơn giản như vậy, mà ngay từ đầu nó đã đưa ra những lý giải mâu thuẫn cho tất cả
các vấn đề đó. Ơng khẳng định sự tồn tại bốn antinomia cơ bản của tư duy lý tính,
mỗi antinomia được cấu thành từ hai luận đề đối lập nhau, tuỳ từng trường hợp cụ
thể mà có thể cùng đúng hoặc cùng sai, trong từng lĩnh vực và từng đối tượng nghiên

cứu.
Học thuyết của Cantơ về các antinomia còn những điểm đáng lưu ý sau: Thứ
19


nhất, ơng quy những mâu thuẫn đó vào mâu thuẫn của lý tính (tư tưởng) chứ chưa
thấy rằng đó là những mâu thuẫn của thế giới hiện thực (của giới tự nhiên). Thứ hai,
các antinomia đó cũng chưa hồn tồn là những mâu thuẫn biện chứng vì giữa các
mặt đối lập của chúng chưa có sự thống nhất và chuyển hố lẫn nhau. Thứ ba, giải
quyết mâu thuẫn cũng khơng phải chỉ dừng lại ở việc phân tích tổng mặt đối lập rồi
kết luận đúng - sai như ông đã làm. Cantơ đã giải quyết vấn đề theo nguyên tắc hay
là, hay là... ngồi ra khơng thể là cái gì khác mà lẽ ra sự vật phải vừa là cái này lại
vừa là cái kia. Trên thực tế, quá trình nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn là động lực
thúc đẩy sự vật phát triển. Thứ tư, Cantơ đã sai lầm khi hạn chế số lượng các
antinomia, trong khi theo Hêgen, chúng có trong tất cả các sự vật ở mọi hình thức,
trong tất cả các quan niệm, ý niệm, khái niệm.
Tuy nhiên, học thuyết biện chứng tiên nghiệm của Cantơ bao hàm nhiều tư
tưởng tích cực. Ơng đã thấy mâu thuẫn (antinomia) là bản chất của lý tính con người
chứ không phải là những lỗi logic thông thường. Hêgen đánh giá rằng: "việc tìm ra
các antinomia cần được xem như một thành tựu rất quan trọng của nhận thức, bởi
bằng việc đó... vận động biện chứng của tư duy được đề cao” [44, tr.35]. Học thuyết
về các antinomia của Cantơ đã mở ra con đường phát triển mới cho quan niệm biện
chứng về tư duy, nhận thức và là một trong những tiền đề lý luận của triết học
mácxít. Với những đóng góp tích cực đó của Cantơ trong lịch sử phát triển của phép
biện chứng nói chung và tư duy về lý luận mâu thuẫn nói riêng, thì những hạn chế
trong triết học của ông không làm lu mờ cơng lao đó của triết học Cantơ.
Sau Cantơ, phép biện chứng trước Mác đạt đến đỉnh cao trong triết học Hêgen,
theo nhận xét của Lênin “Phép biện chứng của Hêgen... là sự khái quát của lịch sử tư
tưởng” [40, tr.356]. Là người đầu tiên đã tổng kết toàn bộ lịch sử nhận thức, tìm ra
nguyên lý cơ bản của tư duy biện chứng và xây dựng một cách có hệ thống các quy

luật của phép biện chứng trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm cho nên Hêghen không chỉ là
một thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà khoa học có tri thức bách khoa, trên mọi
lĩnh vực ông thể hiện là một người vạch thời đại.
Lý luận về mâu thuẫn của Hêgen là một trong những thành tựu xuất sắc của sự
20


phát triển tư tưởng triết học nhân loại. Điểm sáng trong lý luận mâu thuẫn là khi ông
đưa ra nhận định thiên tài rằng: mâu thuẫn biện chứng là điều kiện để nhận thức chân
lý, là nguồn gốc phát triển của mọi chân lý khoa học. Theo Hêgen, con người có thể
nhận thức được thế giới và có khả năng đạt được chân lý. Ông xem xét chân lý một
cách biện chứng, chân lý không phải là cái cứng đờ, bất động, mà về thực chất, nó nằm
trong q trình nhận thức đầy mâu thuẫn biện chứng, nhận thức như thế mới qua quá
trình tự phát triển, tự đào sâu đã tiến gần đến tri thức khách quan, đến chân lý. Quan
điểm về nhận thức chân lý của Hêgen chứa đầy ý nghĩa biện chứng, - cái mà các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác gọi là “hạt nhân hợp lý. Tuy nhiên, ông hiểu nhận thức
của tư duy đầy vẻ thần bí vì theo ơng nhận thức của tư duy là quá trình tự nhận thức
của ý niệm tuyệt đối; hay nói cách khác, tư duy tự nhận thức là cơ sở của tất cả những
cái tinh thần, những cái vật chất và của mọi chân lý.
Hêgen đã sớm nhận ra tính phổ biến của mâu thuẫn và vai trị của nó trong q
trình vận động và phát triển của thế giới, Hêgen đã khẳng định: “Mâu thuẫn là nguồn
gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sự sống” [49, tr.47]. Theo ông, một
cái gì đó có sự sống, chỉ bởi vì và chỉ trong chừng mực cái đó chứa mâu thuẫn trong
bản thân thì nó mới vận động, mới có xung lực và hoạt động, tất cả mọi vật đều có
tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó. Nhà triết học Đức nhấn mạnh rằng, khơng nên
coi mâu thuẫn là một điều gì xấu đối với các sự vật; phải coi mâu thuẫn là mối liên hệ
qua lại, là sự lệ thuộc, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, là nguyên tắc của mọi
sự tự thân vận động.
Trong khi nghiên cứu và tìm ra những mối liên hệ, quá trình vận động khơng
ngừng và sự chuyển hố lẫn nhau giữa các khái niệm chung nhất, giữa các phạm trù

của tư duy lý luận - khoa học. Hêgen đã phát hiện ra những mâu thuẫn nội tại vốn có
là động cho sự phát triển mọi sự vật. Ông phê phán quan niệm siêu hình về các mặt
đối lập cực đoan và nhấn mạnh rằng các mặt đối lập khơng phải có tính tuyệt đối mà
có tính tương đối, tất cả chúng chỉ tồn tại trong mối liên hệ chuyển hoá từ cái này đến
cái kia trong sự phát triển. Hêgen đã gián tiếp vạch ra nội dung và nguồn gốc đích
thực của phép biện chứng ấy chính là biện chứng của hiện thực khách quan. Nhận
21


×