Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 153 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----o0o-----

NGUYỄN VĂN TIẾN

QUÁ TRÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
CỦA NHẬT BẢN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TỪ NĂM 1988 ĐẾN NĂM 2008

Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
0Mã số: 5.03.15

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. VÕ XUÂN ĐÀN

Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2008


2
MỤC LỤC
Trang
0 ......................................................................................................................... DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................................. 5
2. Lược sử vấn đề nghiên cứu. ............................................................................................ 9
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 13
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 14


5. Những đóng góp của luận văn ...................................................................................... 15
6. Kết cấu của luận văn ........................................................................................................ 15

Chương 1.................................................................................................................17
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC THU
HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI...............................................................................17
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng và Nhà nước đề ra chủ trương, chính
sách thu hút đầu tư nước ngồi .......................................................................................... 17
1.1.1. Cơ sở lý luận............................................................................................................................ 17
1.1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................................................ 19

1.2 Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc thu hút đầu tư nước
ngoài .......................................................................................................................................... 22

Chương 2.................................................................................................................30
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP (FDI) CỦA NHẬT BẢN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TỪ 1988 ĐẾN 2008................................................................................................30
2.1 Khái qt tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Tp.HCM .............................. 30
2.1.1 Chính sách và mơi trường thu hút đầu tư nước ngoài của thành phố ............................ 30
2.1.2. Những đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Tp.HCM ..................................... 38

2.2. Phân tích q trình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Thành phố Hồ Chí Minh
từ 1988 đến 2008 .................................................................................................................... 42
2.2.1. Thời kỳ từ năm 1988 đến năm 1991 .................................................................................... 42
2.2.2. Thời kỳ từ năm 1992 đến năm 1996 .................................................................................... 43
2.2.3. Thời kỳ từ năm 1997 đến năm 2008 .................................................................................... 52

2..3 Đánh giá những tác động từ FDI của Nhật Bản đối với quá trình phát triển
kinh tế xã hội Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................. 78
2.3.1 Trên lĩnh vực kinh tế ............................................................................................................... 79

2.3.2 Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội .............................................................................................. 84

Chương 3.................................................................................................................90
TRIỂN VỌNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA NHẬT BẢN Ở THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH.................................................................................................................90
3.1 Cơ hội thu hút FDI từ Nhật Bản của Thành phố Hồ Chí Minh ............................ 90
3.1.1 Những định hướng của Thành phố Hồ Chí Minh trong việc thu hút FDI từ Nhật Bản . 90
3.1.2 Một số đánh giá cơ hội thu hút FDI từ Nhật Bản của TP.HCM ........................................ 92
3.1.2. Triển vọng trong quan hệ đầu tư trực tiếp giữa Nhật Bản – Thành phố Hồ Chí Minh 105

3.2. Nhận định về những khó khăn, tồn tại và bài học kinh nghiệm ..................... 107
3.2.1. Năng lực thu hút FDI từ Nhật Bản còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát
triển Thành phố ................................................................................................................................. 108
3.2..2 Nguyên nhân của những tồn tại và yếu kém ................................................................... 112

5


3
3.2.2. Bài học kinh nghiệm để kế thừa, vận dụng trong việc thu hút phát triển FDI của Nhật
Bản ởø Tp.Hồ Chí Minh hiện nay .................................................................................................. 117

KẾT LUẬN .............................................................................................................129


4

Danh mục các từ viết tắt
1. ASEAN


Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

2. APEC

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương

3. BOT

Xây dựng- Kinh doanh- Chuyển giao

4. BT

Xây dựng- Chuyển giao

5. CNH – HĐH

Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá

6. ĐTNN

Đầu tư nước ngịai

7. FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

8. GDP

Tổng sản phẩm quốc nội


9. Hn

Hà nội

10. JICA

Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản

11. JBAH

Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh

12. JETRO

Tổ chức Thúc đẩy Ngoại thương Nhật Bản

13. KCNC

Khu công nghệ cao

14. KHXH

Khoa học xã hội

15. Nxb

Nhà xuất bản

16. NB


Nhật Bản

17. TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

18. WTO

Tổ Chức Thương Mại Thế Giới


5

DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hoá , hợp tác để cùng nhau phát triển là một
xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Có thể
nói, thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
có sự đóng góp quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI). Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: trong cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần của nước ta thì thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi là
một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Nhật Bản và Việt Nam là hai quốc gia có những nét tương đồng về
văn hố nên có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác để cùng phát triển.
Trên thực tế, quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản đã không
ngừng phát triển, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư trực tiếp ( FDI).
Từ khi Luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực (ngày 01/01/1988), các
nhà đầu tư Nhật Bản đã thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Đến năm
2001, với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất

cả các nước trong cộng đồng quốc tế”, “phấn đấu vì hịa bình, độc lập và
phát triển” trên ngun tắc “bình đẳng cùng có lợi” được Đảng ta nêu lên từ
Đại hội IX, các nhà đầu tư nước ngồi, trong đó có Nhật Bản đầu tư mạnh
mẽ hơn vào Việt Nam . Năm 2003 thỏa thuận Việt - Nhật được ký kết . Đây
là một cột mốc quan trọng tiếp theo trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt
Nam và Nhật Bản. Đến năm 2007, sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức
thương mại thế giới (WTO) , mối quan hệ 2 nước Việt Nam – Nhật Bản
được nâng lên ở tầm cao mới. Nhật Bản muốn tăng cường quan hệ nhiều
mặt với Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa
học và cơng nghệ. Nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam liên tục tăng, tạo nên 2
làn sóng đầu tư mới từ Nhật Bản vào Việt Nam trong những năm 1996 và
trong năm 2008.


6
Tính đến nay, Nhật Bản là một trong những nước có vốn đầu tư lớn
nhất vào Việt Nam, FDI của Nhật Bản vào Việt Nam tăng mạnh, cả về các
dự án cấp phép mới cũng như các dự án tăng vốn. Nhật Bản có mối quan
tâm và có nhiều động thái thiết thực nhằm thúc đẩy FDI tại Châu Á và Việt
Nam là do thiện chí hợp tác, vừa chia sẻ, vừa tranh thủ phát huy hiệu quả
các nguồn vốn ngoài lãnh thổ Nhật Bản . Một lý do khác nữa là họ có một
niềm tin mạnh mẽ vào mơi trường đầu tư ngày càng tốt hơn tại Việt Nam.
Có thể nói, các dự án FDI của Nhật Bản đã và đang góp phần quan trọng
vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị lớn nhất nước, một trung tâm
kinh tế - văn hĩa - khoa học kỹ thuật, và là đầu mối giao lưu quốc tế của
nước ta. Vì vậy, trong quan hệ hợp tác với Nhật Bản nói chung, trong vấn
đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản nói riêng, thành phố Hồ Chí
Minh giữ vị trí đầu tàu quan trọng, với 199 dự án, chiếm 10,4 % dự án, tổng
vốn đầu tư là 1.007.517.000 (8,2 ngàn USD). Vốn pháp định 440.178.000

USD (7,2 ngàn USD) [7:tr 164-165] Chiến lược thu hút mạnh mẽ nguồn vốn
đầu tư này nhằm giúp chúng ta có thể phát triển kinh tế - xã hội của thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng và của cả nước nói chung. Do vậy, để phát huy
những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của FDI Nhật Bản đối
với sự đóng góp và phát triển kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh cần phải có
một q trình dài lâu trên tinh thần trao đổi thỏa thuận và nghiên cứu một
cách cụ thể trên nhiều phương diện kinh tế, ngoại giao, quốc gia và quốc tế.
Việc chọn mối quan hệ giữa Nhật Bản và một thành phố tiêu biểu,
năng động của Việt Nam là thành phố Hồ Chí Minh trên một lĩnh vực đầu tư
trực tiếp (FDI) là việc chọn lựa xác thực và có phạm vi, quy mơ tìm hiểu
nghiên cứu phù hợp nhằm có điều kiện hệ thống lại, đánh giá lợi thế cạnh
tranh của Thành phố Hồ Chí Minh trên lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước
ngoài, tăng cường hơn nữa quá trình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào
Thành phố Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa.


7
Chính từ những lý do quan trọng đã được phân tích, tác giả đã mạnh dạn
chọn đề tài “Q trình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 1988 đến năm 2008” nhằm vào những mục đích cụ thể là:
- Tìm hiểu hồn cảnh lịch sử, những thuận lợi, khó khăn trong q
trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi ở thành phố Hồ Chí Minh. Khái
quát điểm mạnh của TP.Hồ Chí Minh trong thu hút FDI từ Nhật Bản. Về nội
dung đặc điểm FDI từ Nhật Bản.
- Phát huy hơn nữa lợi thế của Thành phố trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, nhằm thu hút mạnh hơn nữa nguồn vốn FDI từ Nhật Bản
vào Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phân tích quá trình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở thành phố Hồ
Chí Minh nhằm làm rõ bước đi, cách làm, những thành tựu, hạn chế và tác
động của FDI Nhật Bản đối với sự nghiệp xây dựng, đổi mới và phát triển

kinh tế – xã hội thành phố.
- Định hướng và cơ hội thu hút FDI từ Nhật Bản của Tp.HCM, từ đó
rút ra một số bài học kinh nghiệm để kế thừa, vận dụng và ý kiến đề xuất
trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản phục vụ cơng
cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố hiện nay.

Tuy nhiên, do đây là lĩnh vực mới mẽ mà hiệu quả của quá trình hoạt
động và thu hút đầu tư trực tiếp Nhật Bản ở TP.HCM chủ yếu có được là do
q trình tìm tòi thể nghiệm. Do vậy ở những giai đọan nhất định còn bộc lộ
sự thiếu ổn định, nhiều vấn đề đặt ra cho đối tác Nhật Bản và địa phương
Thành phố Hồ Chí Minh trong q trình hợp tác đầu tư. Nhưng nhìn cả quá


8
trình hợp tác phát triển 20 năm, từ 1988-2008 trên các mốc thời gian và căn
cứ ngọai giao tầm quốc gia, có thể thấy Thành phố Hồ Chí Minh đã tranh
thủ vận dụng, thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản một
cách hiệu quả, xứng đáng là một trong những địa phương có lợi thế đặc
biệt, đi đầu các thể nghiệm, là hình mẫu trung tâm trên một số lĩnh vực kinh
tế –xã hội, đã để lại nhiều hiệu quả và tác động mang đậm dấu ấn Nhật
Bản, đặc biệt là các ngành công nghệ cao. Cũng nhờ kinh nghiệm và xác
định được xu hướng phát triển chung mà công nghệ Nhật Bản là một trong
kiểu mẩu sản xuất thành công đã giúp khơi gợi định huớng cho Việt Nam
và Tp.HCM có những bước chuẩn bị cụ thể để phát triển ngành công
nghiệp phu trợ của mình. Vì vậy bên cạnh sự chủ động phân cấp quản lý
đầu tư của chính phủ, chắc chắn, Thành phố Hồ Chí Minh cần phải chủ
động hợp tác nhiều hơn với nhà đầu tư Nhật Bản. Muốn phát huy hiệu quả
của q trình hợp tác này, địi hỏi phải có quá trình nghiên cứu, đúc rút
nhiều kinh nghiệm khắc phục mặt hạn chế, bất cập.
Liên quan đến vấn đề đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Thành phố

Hồ Chí Minh, các nghiên cứu trước đây một mặt chỉ nghiên cứu thu hút đầu
tư trực tiếp Nhật Bản ở tầm quốc gia họặc nếu có đề cập ở cấp độ địa
phương thì cũng chỉ tập trung phân tích hiện trạng thu hút đầu tư nước
ngồi trong đó có Nhật Bản nhưng trong từng báo cáo năm - giai đoạn nhỏ
5 năm, 10 năm, hoặc chỉ thông tin, nghiên cứu về khả năng thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài của Việt Nam chứ chưa đề cập nhiều đến qúa trình
đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Chính vì lẽ đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn quá trình đầu tư
trực tiếp của Nhật Bản ở thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1988 đến năm
2008 và đề xuất lãnh đạo Thành phố sớm có những điều chỉnh và giải pháp
nhằm thu hút đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản, rút ra những bài học kinh
nghiệm, quan điểm và nhận thức mới là rất cần thiết.


9
2. Lược sử vấn đề nghiên cứu.
Có thể khẳng định rằng những nội dung cơ bản liên quan đến luận
văn đã có nhiều cơng trình đề cập đến. Tuy nhiên, với tầm quan trọng của
đề tài, việc tìm hiểu và nghiên cứu đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở thành
phố Hồ Chí Minh thì vẫn chưa được sự quan tâm nhiều của các nhà nghiên
cứu. Hầu hết những số liệu, tài liệu liên quan đến đầu tư trực tiếp của Nhật
Bản ở thành phố Hồ Chí Minh đều nằm rải rác, tản mạn trong những cơng
trình nghiên cứu đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam và trong những
cơng trình viết về quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản.
Trước tiên, có thể kể đến giáo sư kinh tế học Trần Văn Thọ với tác
phẩm “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hĩa Việt Nam”
– thuộc đại học Vaseda (Tokyo), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2005.
Trong cơng trình này, tác giả đề cập đến FDI của Nhật Bản tại Việt Nam,
nhưng chỉ điểm qua xu hướng chung FDI của Nhật ở Việt Nam.
Tác giả Trần Xuân Tùng với cơng trình nghiên cứu “Đầu tư trực tiếp

nước ngồi ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp”, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội năm 2005. Tác giả đã đề cập đến kinh nghiệm chung hỗ trợ các nhà
đầu tư nước ngồi của thành phố Hồ Chí Minh, nhưng lại chưa bàn đến
việc hỗ trợ các nhà đầu tư Nhật Bản.
Một số nhận định trong tác phẩm “30 năm hợp tác hữu nghị Việt
Nam- Nhật Bản” của Công ty cổ phần Thơng tin kinh tế đối ngoại, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2003, đã đề cập đến FDI Nhật Bản tại thành
phố Hồ Chí Minh. Ở đây, tác phẩm đã khái quát được những nét chính,
chưa đi sâu vào phân tích vấn đề một cách tồn diện.
Ngồi ra, có thể kể đến các đề tài do Viện Nghiên cứu Xã hội TP.HCM
thực hiện hoặc phối hợp thực hiện trong pham vi giới hạn, nhằm tổng hợp
và phân tích thành tựu và triển vọng trong quan hệ đối ngọai của TP.HCM
trên lĩnh vực kinh tế – xã hội, như: Tổng quan về ASEAN và tiềm năng
TP.Hồ Chí Minh trong tiến trình hội nhập. Nxb Tổng hợp TP.HCM, năm
2004, của các tác giả Nguyễn Quốc Lộc, Nguyễn Cơng Khanh, Đồn Thanh
Hương; Thành phố Hồ Chí minh tự giới thiệu, Tập 1,2, 3, Nxb TP.HCM.


10
xuất bản trong các năm 1998, 2000, 2002 do tiến sĩ Trần Nhu - chủ biên. Ở
cấp độ quan hệ giữa Nhật Bản và TP.HCM có thể kể đề tài: “Quan hệ giữa
Tp.HCM và Nhật Bản trên lĩnh vực kinh tế - văn hóa. Tiềm năng và triển
vọng”, năm 2005, do Hồ Thị Minh Trâm làm chủ nhiệm, v.v.
Các công trình nghiên cứu đề cập đến tình hình đầu tư trực tiếp nước
ngồi ở Việt Nam và TP.HCM do Viện Kinh tế TP.HCM và Thời báo Kinh tế
Sài Gòn xuất bản như: Thạc sĩ Nguyễn Văn Quang (2007), với đề tài “Định
hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi phục vụ chuyển dịch cơ cấu
TP.HCM”, Viện Kinh tế TP.HCM; ThS. Cao Văn Quang, ThS. Cao Ngọc
Thành (2005), “Đánh giá vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngồi trong phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn TP.HCM”, Viện Kinh tế TP.HCM; ThS.

Nguyễn Thiềng Đức (2007), “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong
nước trên địa bàn TP.HCM trong điều kiện hội nhập - nhận diện thách thức
và cơ hội”, Viện Kinh tế TP.HCM.; Trần Tô Tử (1996), “Vấn đề thu hút vốn
đầu tư nước ngồi phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội TP.HCM”, Viện Kinh
tế TP.HCM. Ngồi ra cịn có các tài liệu tham khảo, các vấn đề có liên quan
đến đầu tư trực tiếp nước ngồi khác do Viện Kinh tế TP.HCM thực hiện
trong thời gian qua như: Phân tích lợi thế cạnh tranh của các nhóm ngành
nghề chính của Thành phố Hồ Chí Minh; Quan hệ thương mại Việt Nam Nhật Bản; Giới thiệu về tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta và
của Thành phố Hồ Chí Minh, v.v.
Tác giả Kenichi Ohno, với tên sách “Phát triển kinh tế của Nhật Bản”,
diễn đàn phát triển Việt Nam (VDI), tại Hà Nội, xuất bản 3-2007. Kenichi
Ohno là tác giả, đồng tác giả và là chủ biên của nhiều cuốn sách về kinh tế
phát triển và kinh tế quốc tế, như năm 1997 với “Phát triển kinh tế Đông Á”;
năm 1998 với “Người Nhật nhìn về phát triển kinh tế” và 2000 với “Tồn cầu
hóa của các quốc gia đang phát triển”. Kenichi Ohno và đồng sự của ông
trong VDI có thời gian hơn 13 năm gắn bó và tư vấn cho q trình hoạch
định chính sách phát triển Việt Nam, đặc biệt là từ 2004 trở lại đây, đã có
nhiều đóng góp trong việc xây dựng các kế hoạch tổng thể phát triển công
nghiệp, thảo luận các vấn đề xã hội xuất hiện khi Việt Nam trải qua quá


11
trình phát triển khá nhanh nhằm đạt đến sự tăng trưởng bền vững. Cơng
trình đã đề cập đến nhiều vấn đề cụ thể có liên quan đến sự phát triển kinh
tế Nhật Bản và kinh nghiệm hiện đại hĩa ở Việt Nam, đề cập các vấn đề
chung của những nước đi sau, như trường hợp hội nhập của Nhật Bản
trước đây và kinh nghiệm cho Việt Nam hiện nay. Tuy vậy, tác giả chỉ giới
hạn quá trình phát triển của kinh tế Nhật Bản trong thập niên 1990 về trước,
nên cũng phần nào hạn chế trong việc so sánh, nhận định trong các giai
đoạn khác.

Trong năm 2006, được sự hỗ trợ của tổ chức VDF và Nhà xuất bản
Lao động Xã hội Hà Nội, tác giả Kenichi Ohno còn xuất bản sách “Hoạch
định chính sách cơng nghiệp ở Thái Lan – Malayxia và Nhật Bản”. Như tựa
đề, nội dung sách đề cập chủ yếu về phương pháp hoạch định chính sách
công nghiệp của Việt Nam và nhiều bài học từ các quốc gia khác như Thái
Lan, Malayxia, Nhật Bản.
Về một số chính sách trong tương lai được cụ thể hố bằng Hiệp
định đối tác kinh tế Nhật Bản –Việt Nam và ngành công nghiệp thép, vào
tháng 8-2007, Diễn đàn phát triển Việt Nam (VDI) cịn xuất bản tài liệu
“Cơng nghiệp gang thép Việt Nam: một giai đoạn phát triển và chuyển đổi
chính sách mới” của tác giả Nozomu Kawabata.
Trong kỷ yếu “Hội nghị 20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” có đề
cập đến đầu tư nước ngồi giữa Việt Nam - Nhật Bản - JETRO. Tuy nhiên,
kỷ yếu này cũng chỉ bàn đến những vấn đề chung như xu hướng đầu tư
của Nhật Bản vào Việt Nam hay Việt Nam trong con mắt trong các nhà đầu
tư Nhật Bản.
Tác giả Vũ Văn Hà (chủ biên) trong tác phẩm “Quan hệ kinh tế Việt
Nam - Nhật Bản trong những năm 1990 và triển vọng”, NXB Khoa học Xã
hội năm 2000, đã nêu lên tình hình chung của đầu tư trực tiếp Nhật Bản ở
Việt Nam, đề cập khá rõ thực trạng, những nhân tố tác động, triển vọng và
giải pháp nhằm gia tăng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam. Tuy
nhiên, hạn chế của tác phẩm là tác giả chưa đi sâu vào những đặc điểm
riêng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở thành phố Hồ Chí Minh.


12
Tương tự như vậy, có thể kể đến sách Kinh tế Việt Nam giai đoạn
kinh tế chuyển đổi. Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, Sài Gịn Times Group,
VAPEC TP. Hồ Chí Minh của tác giả Trần Du Lịch (1996); và sách “Họat
động đầu tư trực tiếp nước ngồi ở Hà nội và TP.HCM”, Nxb KHXH, Hà Nội,

Viện Kinh tế Thế giới (2002).
Ngồi ra cịn có nhiều cơng trình khác, tuy chưa có đề cập sâu đến thu
hút đầu tư của Nhật Bản ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cũng góp phần
gợi ý khá rõ nhằm phác họa nên lịch sử phấn đấu lập nghiệp gian khổ và
sáng tạo của các nhà doanh nghiệp Nhật Bản, từ những cơ sở kinh tế nhỏ
thành những tập đoàn sản xuất kinh doanh mạnh vượt khỏi giới hạn quốc
gia trong sách “Bản lĩnh kinh doanh của các doanh nghiệp Nhật Bản”; tìm
hiểu, nghiên cứu những vấn đề của cuộc khủng hoảng tài chính “tiền tệ”
kinh tế ở Châu Á và những hậu quả của cuộc khủng hoảng này trong sách
“Kinh tế chính trị của sự phát triển của Nhật Bản và Châu Á“; những ảnh
hưởng lịch sử và văn hóa đối với ý thức lao động của người Nhật, cung cấp
cho người đọc những kinh nghiệm trong nghề quản trị - trong sách “Hệ
thống quản trị kinh doanh Nhật Bản trong môi trường quốc tế”; đề cập chính
sách cơng nghiệp của Nhật Bản trên phương diện kinh tế, cũng như đánh
giá một cách tồn diện, chính xác ý nghĩa và ảnh hưởng của nó bằng cách
tổ chức các cuộc hội thảo và lấy ý kiến phản biện của những người làm
công tác thực tế và các nhà nghiên cứu quan tâm đến chính sách cơng
nghiệp trong sách “Chính sách cơng Nghiệp của Nhật Bản”; hiểu được
những hành vi đặc trưng của các nhà kinh doanh Nhật Bản, từ đó cung cấp
cho độc giả những kinh nghiệm trong quan hệ hợp tác, kinh doanh hữu hiệu
với người Nhật trong sách “Hiểu và làm việc với thế giới thương mại của
Nhật Bản”; kinh nghiệm của Nhật Bản trong lĩnh vực này sẽ rất hữu ích đối
với Việt Nam trong quá trình huy động và sử dụng vốn ban đầu cho sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong sách “Vốn trong quá
trình tăng trưởng kinh tế cao ở Nhật sau chiến tranh”; kinh nghiệm đáng
quý cho Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành


13
phần trong sách “Phân hóa giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường Nhật

Bản từ 1945 đến nay”, v.v.
Ngoài các cơng trình được giới thiệu ở trên, người nghiên cứu cịn
tìm thấy nhiều bài viết liên quan trên tạp chí, báo về lĩnh vực đầu tư trực
tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam, mặc dù rất ít đề cập đến đầu tư trực tiếp
Nhật Bản vào thành phố phát triển năng động, thành phố Hồ Chí Minh.
Từ các bài báo khoa học, các cơng trình nghiên cứu trên đây cho
thấy những vấn đề liên quan đến đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Thành
phố Hồ Chí Minh đã được chú trọng, nhất là trong thời kỳ thành phố đang
cùng cả nước thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập. Vì vậy người
nghiên cứu nhận thấy rằng, việc nghiên cứu chun sâu một cách có hệ
thống về q trình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào thành phố Hồ Chí
Minh là cần thiết, nhằm làm rõ hơn vai trị hạt nhân của thành phố Hồ Chí
Minh trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp Nhật Bản. Qua đó, người
nghiên cứu mong mõi sẽ được góp thêm tư liệu cho vấn đề này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích khoa học và thực tiễn nghiên cứu của đề tài,
người nghiên cứu xác định đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề đầu
tư trực tiếp của Nhật Bản ở thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một vấn đề rất
thiết thực đối với thành phố Hồ Chí Minh trong việc tranh thủ nguồn ngoại
lực để thành phố thu hút sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, nhà quản lý,
các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu...
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở
thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở có sự so sánh, đánh giá với các địa
phương khác trong cả nước để làm nổi bật vai trị, vị trí của thành phố Hồ
Chí Minh trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi nói chung, mà trọng
tâm là vốn đầu tư từ Nhật Bản.
Về thời gian, luận văn giới hạn trong khoảng từ năm 1988 đến 2008. Vì đây
là thời kỳ cả nước thực hiện công cuộc đổi mới. Đây cũng là thời kỳ thu hút
đầu tư trực tiếp Nhật Bản ở trong nước và thành phố Hồ Chí Minh chính
thức được xây dựng và phát triển. Mốc thời gian năm 1988 là thời điểm



14
Luật đầu tư có hiệu lực và cũng là năm các nhà đầu tư Nhật Bản có dự án
đầu tư tại thành phố Hồ Chí Minh. Mốc thời gian năm 2008 được chọn để
kết thúc thời gian nghiên cứu một cách tồn diện về bình diện đầu tư trực
tiếp của Nhật Bản tại thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên để làm rõ điểm
xuất phát của đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở thành phố Hồ Chí Minh,
chúng tơi tìm hiểu thêm một số nét sơ lược về tình hình đầu tư trực tiếp
nước ngồi ở Việt Nam nói chung và việc thu hút đầu tư từ Nhật Bản ở
thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ trước năm 1988.
Và để đảm bảo tính lơ gích, hệ thống, luận văn giới hạn trình bày nội dung
nóng bỏng đang được quan tâm hiện nay, đó là cơng tác tìm hiểu, đánh giá
thực trạng, đề xuất giải pháp hỗ trợ, quản lý nhà nước đối với họat động
FDI của Nhật Bản tại TP.HCM (không bao gồm các khu chế xuất, khu công
nghiêp, khu công nghệ cao, đầu tư gián tiếp).
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, luận văn vận dụng phương pháp nghiên
cứu của khoa học lịch sử là: kết hợp giữa phương pháp lịch sử và phương
pháp lô gích. Việc phân tích, nhận định các thời kỳ phát triển của quá trình
đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Tp.Hồ Chí Minh được đặt trong bối cảnh
lịch sử của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể. Qua những thời kỳ phát
triển luận văn nhằm nêu rõ những thành tựu, hạn chế và tác động của FDI
Nhật Bản đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của Tp.Hồ Chí Minh,
đồng thời đúc kết những bài học kinh nghiệm cho sự thu hút, phát triển của
nguồn vốn FDI từ Nhật Bản hiện nay.
Ngoài phương pháp lịch sử, luận văn cũng bước đầu tiếp cận và vận
dụng phương pháp liên ngành trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn
hiện nay như: các phương pháp định lượng và định tính (để tìm ra các số liệu
thống kê, so sánh), phương pháp điền dã, phỏng vấn nhân chứng, sử dụng

kết quả nghiên cứu của một số ngành khoa học có liên quan (như khoa học
kinh tế, quan hệ quốc tế)... từ đó rút ra những kết luận khách quan về quá
trình thu hút, phát triển nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản trong bối cảnh


15
chung của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
và Tp.Hồ Chí Minh.
5. Những đóng góp của luận văn
- Qua việc thu thập, hệ thống một khối lượng tài liệu xuất phát từ
nhiều nguồn khác nhau có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu, luận văn
cung cấp những thông tin cần thiết về quá trình đầu tư trực tiếp nước ngồi
nói chung, về đặc điểm FDI từ Nhật Bản và việc thu hút đầu tư trực tiếp của
Nhật Bản ở Tp.Hồ Chí Minh nói riêng.
- Luận văn tập trung làm rõ các thời kỳ thu hút, phát triển của FDI Nhật
Bản ở Thành phố với những nét cơ bản nhất; đồng thời bước đầu nêu lên
những đánh giá thành tựu, hạn chế và một số bài học kinh nghiệm để kế thừa
trong việc thu hút FDI Nhật Bản ở Tp.Hồ Chí Minh hiện nay.
- Từ đó, luận văn sẽ góp phần bổ khuyết những mảng trống hoặc chưa
được tô đậm về: xúc tiến các dự án đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản, về định
hướng đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật cao, về quy hoạch và phát triển ngành
công nghiệp phụ trợ cho Tp.HCM nhằm thu hút FDI từ Nhật Bản. Khẳng định
hơn nữa vai trò trung tâm thu hút FDI từ Nhật Bản của Tp.Hồ Chí Minh trong
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

6. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần dẫn luận, kết luận và phụ lục minh hoạ, luận văn được
chia làm ba chương:
- Chương 1: Trình bày những cơ sở lý luận và thực tiễn thơng qua
chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về đầu tư nước ngoài tại Việt

Nam để giải quyết những vấn đề trọng tâm của đề tài.
- Chương 2: Tìm hiểu khái quát về tình hình đầu tư trực tiếp nước
ngịai ở thành phố Hồ Chí Minh, phân tích và đánh giá những tác động của
đầu tư trực tiếp Nhật Bản đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội thành
phố Hồ Chí Minh.


16
- Chương 3: Đánh giá một số cơ hội thu hút FDI từ Nhật Bản của
Tp.HCM những triển vọng về đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại thành phố
Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó đưa ra nhận định về những khó khăn, tồn tại và
bài học kinh nghiệm để kế thừa, vận dụng trong việc thu hút phát triển FDI
của Nhật Bản ởø Tp.Hồ Chí Minh hiện nay


17

Chương 1
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC THU
HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng và Nhà nước đề ra chủ trương,
chính sách thu hút đầu tư nước ngồi
1.1.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia, ngoài nguồn vốn
nội tại của quốc gia đó cịn có những nguồn vốn từ bên ngồi tham gia vào
hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Đầu tư quốc tế có vai trị quan trọng
trong việc thúc đẩy sự phát triển và vận hành của nền kinh tế thế giới. Mối
quan hệ giữa lợi ích hai nơi đầu tư và tiếp nhận đầu tư là mối quan hệ
tương hỗ, đơi bên cùng có lợi.
Theo các lý thuyết phát triển kinh tế, có thể xác định một số khái niệm

về đầu tư nước ngoài như sau:
- Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (Official Development
Asistance – ODA).
- Nguồn vốn tín dụng thương mại (chủ yếu là hỗ trợ cho lĩnh vực
thương mại, xuất nhập khẩu giữa các quốc gia).
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (Foreign Direct Invesment –
FDI).
Đầu tư quốc tế là hình thức di chuyển tư bản từ nước này sang nước
khác nhằm mục đích kiếm lời (51:tr.339(. Đầu tư chủ yếu dưới hai phương
thức là đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp là người đầu tư
bỏ vốn ra kinh doanh để kiếm lợi nhuận, nhưng khơng trực tiếp tham gia
vào q trình sản xuất kinh doanh, chẳng hạn như đầu tư cổ phiếu, chứng
khoán, gửi tiết kiệm… Đầu tư trực tiếp là phương thức đầu tư mà trong đó
người đầu tư bỏ vốn và trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh để thu lợi nhuận (51:tr.346(.
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp
nước ngoài như sau: đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà
đầu tư từ một nước (nước đầu tư) có được một tài sản ở nước khác (nước


18
thu hút đầu tư) cũng với quyền quản lý tài sản đó, phương diện quản lý
cũng là thứ để phân biệt FDI với các nguồn vốn tài chính khác. Trong phần
lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà nhà đầu tư đó quản lý ở nước
ngồi là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư
thường hay được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty
con” hay “chi nhánh cơng ty”.
Đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá
nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản
xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngồi đó sẽ nắm quyền quản

lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Cũng từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi - FDI có thể định
nghĩa là: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn quốc tế dưới
hình thức vốn sản xuất thơng qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào
một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành tổ
chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ cơng nghệ, kinh nghiệm
quản lý… nhằm mục đích thu lợi nhuận” [59:tr. 21].
Về mặt hình thức, các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được
phân thành 2 dạng thức:
-

Đầu tư trực tiếp theo chiều ngang (horizontal FDI): Tổng quát là
đầu tư của nhà đầu tư vào chính ngành nghề mà chủ đầu tư đang
có lợi thế cạnh tranh.

-

Đầu tư trực tiếp theo chiều dọc (vertical FDI): Mục đích của hình
thức này là đầu tư để khai thác nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên
và các yếu tố đầu vào (như nguồn lao động rẻ, đất đai, tài
ngun, khống sản…).

Xét về hình thức sở hữu, đầu tư trực tiếp nước ngồi gồm các hình
thức sau:
-

Hình thức Doanh nghiệp liên doanh: Đây là hình thức liên doanh
với pháp nhân là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp này
gồm hai hoặc nhiều hơn liên kết quan hệ kinh tế. Mỗi bên liên



19
quan là một pháp nhân riêng. Doanh nghiệp liên doanh là một
pháp nhân độc lập với các bên tham gia.
-

Hình thức Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: Đây là
doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức hay cá nhân đầu
tư từ bên ngồi. Chủ đầu tư có toàn quyền về điều hành, quản lý
hoạt động sản xuất, kinh doanh từ nguồn vốn của họ, hoạt động
theo pháp nhân Việt Nam và chịu sự chi phối của Luật đầu tư
nước ngồi.

-

Hình thức Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh
doanh: Đây là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp
tác được ký kết giữa hai hay nhiều bên tham gia. Các bên tham
gia hoạt động theo tư cách pháp nhân độc lập của mình và thực
hiện các nghĩa vụ của mình trước pháp luật nhà nước.

Ngồi ba hình thức cơ bản trên, để phục vụ cho nhu cầu phát triển
kinh tế nội tại và các yếu tố phát triển, cịn có các hình thức đầu tư khác
như:
-

Hình thức Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT)

-


Hình thức Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO)

-

Hình thức Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT)

1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Sau hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ngày
30 tháng 4 năm 1975, nước ta hoàn toàn độc lập và thống nhất. Từ đây, cả
nước cùng thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Với những khó khăn, thách thức chồng chất của một đất nước vừa
trải qua hai cuộc chiến tranh, nền kinh tế nước ta đứng trước nhiều vấn đề
cần nhanh chóng giải quyết. Ở miền Bắc, song song với việc tiếp tục ổn
định và phát triển nền kinh tế đang thực hiện thì ở miền Nam cần nhanh
chóng chỉnh đốn và xây dựng nền kinh tế mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.


20
Để thực hiện thành công công cuộc ổn định và phát triển kinh tế trong
giai đoạn sau chiến tranh đòi hỏi sự nỗ lực của toàn dân, đồng thời xác định
quan điểm tranh thủ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Nền
kinh tế đất nước cần phải được cải tạo và hoạt động theo phương hướng
kế hoạch hóa tập trung mang tính chất chỉ huy, có định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Ngay sau ngày giải phóng, năm 1977, nhận thấy nhu cầu về nguồn
vốn đầu tư cho phát triển sản xuất, Đảng và Nhà nước đã nhanh chóng xác
định chủ trương thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngồi. Ngày 19 tháng 4
năm 1977, Chính phủ đã ban hành Nghị định 115/CQ về Điều lệ đầu tư
nước ngồi. Đây có thể nói là điểm khởi đầu cho q trình thu hút nguồn

vốn đầu tư nước ngồi tại Việt Nam, qua đó cho thấy nhận thức về vai trị,
vị trí hết sức quan trọng của đầu tư nước ngoài mà Đảng và Nhà nước xác
định ngay sau ngày thống nhất nước nhà. Ngay trong Điều 1 – Điều lệ đầu
tư năm 1977 đã xác định rất rõ: “Chính phủ nước Cộng hịa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam hoan nghênh việc đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam và hai bên cùng có
lợi”.
Tuy nhiên, trong bối cảnh trường quốc tế có nhiều biến động, sự đối
đầu căng thẳng giữa hai cường quốc đứng đầu hai khối xã hội chủ nghĩa và
tư bản chủ nghĩa là Liên Xơ và Mỹ. Trong lúc đó, nước ta bị tác động nặng
nề bởi sự cấm vận của Mỹ và tình hình bất ổn ở biên giới phía Bắc và Tây
Nam. Chính những lý do trên đã tác động đến Điều lệ Đầu tư năm 1977.
Cánh cửa quan hệ kinh tế quốc tế (với các nước tư bản chủ nghĩa) hầu như
khép lại. Đây là điều đáng tiếc nhất trong quá trình thu hút đầu tư nước
ngồi ở nước ta.
Tuy nhiên, với sự ủng hộ mạnh mẽ của các nước xã hội chủ nghĩa
anh em, nhất là Liên Xơ, đã góp phần vào việc thu hút nguồn vốn từ bên
ngoài vào phát triểân kinh tế đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ V năm 1981 đã chỉ rõ chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại,
trong đó có vấn đề hợp tác kinh tế quốc tế rằng: “Mở rộng và tăng cường


21
hợp tác tồn diện với Liên Xơ và phát triển hợp tác với các nước khác trong
Hội đồng tương trợ kinh tế, theo hướng liên kết xã hội chủ nghĩa” [64: tr.63].
Mặt khác, cần phải “làm hết sức mình để tranh thủ đến mức cao nhất sự
giúp đỡ quý báu của Liên Xô và các nước anh em, sử dụng có hiệu quả sự
giúp đỡ đó, đồng thời thực hiện tốt nghĩa vụ của chúng ta trên nguyên tắc
có đi có lại, khơng được tùy tiện ỷ lại” [64:tr.69].
Tháng 7 năm 1978, Việt Nam chính thức gia nhập Hội đồng Tương

trợ kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa (gọi tắt là SEV) vào kỳ họp thứ 32.
Hầu như toàn bộ nền kinh tế của nước ta lúc bấy giờ đã thiết lập mối quan
hệ kinh tế với khu vực các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Tuy nhiên, do tình hình kinh tế kém phát triển, trong lúc điều kiện tích
luỹ nội bộ hầu như bằng khơng, viện trợ từ các nước khối SEV được sử
dụng kém hiệu quả. Đặc biệt, với cơ chế quản lý sai lệch đã tác động nặng
nề đến sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Sản xuất đình đốn, ngưng trệ
nhất là ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam Bộ, trong lúc
nhu cầu về ngân sách cũng như nguồn vốn đầu tư sản xuất ngày càng lớn
dẫn đến tình trạng lạm phát phi mã, kéo dài gây hậu quả nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, những cải cách về giá – lương – tiền năm 1981 và 1985
lại không thành công gây nên áp lực rất lớn trong vấn đề nguồn vốn đầu tư
cho phát triển kinh tế – xã hội.
Trước những áp lực đó, nhận thức rõ nhu cầu cấp thiết cần phải đổi
mới tư duy trong quản lý và phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã tiến
hành công cuộc Đổi mới.
Đặïc biệt, Thành phố Hồ Chí Minh – địa phương năng động, sáng tạo
đã xin phép Trung ương được thử nghiệm việc thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài từ các nước tư bản chủ nghĩa. Ngay từ những năm 1984 –
1986, Thành phố đã thực hiện cho phép các dự án đầu tư mang tính thể
nghiệm như Roussel, Rhone – Pouland… để thu hút nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngồi.
Có thể nói từ thực tiễn sinh động những thể nghiệm này và chủ
trương đổi mới toàn diện về tư duy của Đảng và Nhà nước ta về thu hút


22
nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã tạo sự chuyển biến trong tiến trình phát
triển kinh tế nước ta.
Từ những thay đổi trong nhận thức và tư duy quản lý kinh tế nói

chung và việc thu hút nguồn vốn tư bản nước ngồi phục vụ cho q trình
phát triển kinh tế đã tạo bước ngoặt trong lịch sử phát triển của đất nước.
Những yếu kém do các yếu tố khách quan lẫn chủ quan trong quá trình
phát triển nền kinh tế đất nước giai đoạn từ 1975 đến những năm cuối thập
niên 80 của thế kỷ XX dần dần được điều chỉnh, đưa nền kinh tế ổn định và
phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta
xác định.
Có thể nói, từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sinh động của đất
nước, Đảng và Nhà nước ta đã có những quyết sách kịp thời, hợp lý thể
hiện tư duy đổi mới, năng động nhằm tạo nguồn động lực mạnh mẽ thúc
đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước vượt qua những khó khăn, thách
thức.
Với những chủ trương, chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngồi khơng những góp phần làm ổn định và thúc đẩy sự phát triển kinh tế,
mà cịn nâng cao trình độ khoa học cơng nghệ, kỹ thuật tiên tiến, phương
pháp quản lý… đến những ảnh hưởng về đời sống xã hội đất nước. Quá
trình vận dụng lý luận, nhận thức về thu hút đầu tư nước ngoài áp dụng
trong thực tiễn nước ta cũng đã tạo điều kiện xác định lý luận về quản lý và
phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, làm rõ hơn về con
đường đi lên xã hội chủ nghĩa của nước ta.
1.2 Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc thu hút
đầu tư nước ngồi
Q trình thu hút đầu tư nước ngồi vào nước ta xuất phát và đặt
trong bối cảnh lịch sử của mối quan hệ quốc tế và tình trạng phát triển của
cơ chế quản lý kinh tế.
Kể từ khi giành được độc lập vào tháng 8 năm 1945, do bối cảnh
chiến tranh nên ở miền Bắc nước ta gắn liền với sự hỗ trợ tích cực của các


23

nước XHCN anh em (như Liên Xô, Trung Quốc, CHDC Đức, Tiệp Khắc,
v.v.). Sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, việc xây dựng và phát triển
kinh tế gắn chặt với sự viện trợ và hợp tác toàn diện với các nước trong
khối Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV), trong lúc đó việc quan hệ hợp
tác và thu hút đầu tư từ các nước tư bản chủ nghĩa rất ít, do Mỹ cấm vận và
mối quan hệ quốc tế bị chi phối nặng nề bởi chiến tranh lạnh (giữa hai phe
TBCN – do Mỹ đứng đầu và XHCN – do Liên Xô đứng đầu).
Nhưng bước vào những năm 80 của thế kỷ XX, do những hạn chế
của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và sự cấm vận, chống phá từ các
thế lực thù địch, thêm vào đó do tình hình kinh tế các nước thuộc khối SEV
gặp nhiều khó khăn, hạn chế, đã đẩy tình hình kinh tế nước ta trở nên
khủng hoảng trầm trọng, nhất là về thu hút các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài.
Nước ta với trình độ phát triển kinh tế thấp kém, ảnh hưởng nặng nề
sau hai cuộc chiến tranh, tích lũy trong nước hầu như khơng có, một phần
quỹ tiêu dùng và hầu như tồn bộ quỹ tích lũy nguồn vốn đều phải dựa vào
vay nợ và viện trợ nước ngoài.
Xuất phát từ đường lối Đổi mới do Đảng ta chủ trương, để thốt khỏi
tình trạng khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế – xã hội, Nghị quyết Đại
hội lần thứ VI – năm 1986 của Đảng đã đề ra chủ trương: “Cùng với việc
mở rộng xuất, nhập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn, cần vận
dụng nhiều hình thức đa dạng để phát triển kinh tế đối ngoại” (Đảng Cộng
sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB. Sự thật,
Hà Nội, 1987, tr.84). Đồng thời chỉ rõ ra rằng: “Công bố chính sách khuyến
khích nước ngồi đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với
các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với
việc công bố luật đầu tư, cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện
thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh
doanh” [65 :tr.85.]. Có thể nói đây là những quan điểm, chủ trương mang
tính bước ngoặt trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển kinh tế

của Đảng và Nhà nước ta. Việc xác định những tư tưởng mang tính chủ


24
đạo nêu trên vừa giải quyết những khó khăn trước mắt của nền kinh tế và
mang tính định hướng lâu dài của đường lối Đổi mới, đã tạo nên động lực
vào sự phát triển của đất nước.
Từ quan điểm chỉ đạo trên, để thể chế hóa đường lối, lần đầu tiên
vào kỳ họp Quốc hội thứ 2 (ngày 29 tháng 12 năm 1987) đã chính thức
thơng qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài
năm 1987 đã chính thức đánh dấu bước ngoặt trong tư duy quản lý và phát
triển kinh tế. Bộ luật gồm 6 chương, 42 điều khoản thi hành. Bộ luật cũng
chính thức cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam
theo 3 hình thức:
-

Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng

-

Liên doanh

-

Thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi

Có thể nói việc Quốc hội thơng qua bộ luật thu hút đầu tư vốn nước
ngoài này đã mang lại những phản hồi tích cực từ cộng đồng các nước
trong khu vực và thế giới, khẳng định xuyên suốt quan điểm Đổi mới toàn
diện của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình thực hiện cơng cuộc xây

dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX,
trong lúc tình hình thế giới có nhiều chuyển biến, đặc biệt là sự khủng
hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa, chỗ dựa chủ yếu về nguồn vốn trước
đây của nước ta dẫn đến những ưu đãi về giá chấm dứt, nợ nứơc ngoài
phải trả hàng năm tăng lên… gây cho nước ta nhiều khó khăn. Tuy nhiên
với chủ trương “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng
thế giới” mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ hợp tác kinh tế với các nước
trong khu vực và thế giới nhằm thu hút nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước.
Trong lúc đó, bộ luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 bộc lộ những
nhược điểm, tồn tại chưa đáp ứng nhu cầu phát triển cũng như tình hình
mới. Từ đó, mơi trường đầu tư, các quy định pháp luật chưa đáp ứng sự
phát triển nhanh chóng của thực tiễn. Ngày 30 tháng 6 năm 1990, tại kỳ họp


25
lần thứ 7 khóa VIII, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Văn bản pháp lý này đã bổ sung và
sửa đổi 15 trong số 42 điều khoản của bộ luật năm 1987 theo hướng thuận
lợi, mở rộng hơn nữa môi trường đầu tư. Những thay đổi mang tính cơ bản
trong lần sửa đổi năm 1990 cho phép các tổ chức kinh tế tư nhân có tư
cách pháp nhân được trực tiếp hợp tác với nước ngoài, đồng thời cũng sửa
đổi các quy định ưu đãi theo hướng mở rộng và bình đẳng hơn.
Cũng trong thời gian đó, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục xác định tầm
mức quan trọng của việc thu hút đầu tư nước ngoài nhằm thu hút nguồn lực
để phát triển kinh tế đất nước. Trước những biến động trên trường quốc tế,
nhận rõ những thách thức mà nước ta phải đối diện, tại Đại hội Đảng lần
thứ VII, Đảng ta xác định: “Cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những
diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển

mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hóa của nền kinh tế
thế giới để có những chủ trương đối ngoại phù hợp… Chúng ta chủ trương
hợp tác bình đẳng và cùng có lợi tất cả các nước, khơng phân biệt chế độ
chính trị – xã hội khác nhau trên cơ sở ngun tắc cùng tồn tại hịa bình
[66: tr.88.], đồng thời một lần nữa khẳng định: “Có chính sách thu hút tư
bản nước ngoài đầu tư vào nước ta, trước hết là lĩnh vực sản xuất, dưới
nhiều hình thức” [66: tr64.]. Vận dụng quan điểm về nền kinh tế nhiều thành
phần mang đặc trưng của thời kỳ quá độ, coi nguồn vốn đầu tư nước ngoài
này là một bộ phận của kinh tế tư bản nhà nước. Mặt khác, Nghị quyết chỉ
rõ: “Mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại trên
nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, thu hút các
nguồn lực bên ngoài để phát huy mạnh mẽ các lợi thế và nguồn lực bên
trong” [66: tr.119]; chỉ rõ nguyên tắc trong quan hệ hợp tác kinh tế nói chung
và thu hút đầu tư nước ngồi nói riêng rằng: “Quan hệ kinh tế với bên ngoài
phải trên ngun tắc bình đẳng và cùng có lợi; do đó, chỉ có thể mở rộng và
đem lại hiệu quả tốt khi dựa trên cơ sở và hướng khai thác tối đa mọi nguồn
lực và lợi thế bên trong” [66: tr.119].


×