Tải bản đầy đủ (.ppt) (30 trang)

Tài liệu Giáo trình Phân tích kỹ thuật Phần 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.9 KB, 30 trang )

PH N 2Ầ

Mục đích của trò phù phép BCTC: Có nhiều lý do mà các nhà lãnh đạo Cty cho phù phép
BCTC nhằm mục đích đẩy giá CP của mình lên cao.

Phù phép thông qua các ước tính kế toán: Trong quá trình lập báo cáo tài chính, các Cty thường sử
dụng rất nhiều các ước tính kế toán (Accrual earnings management) có ảnh hưởng trực tiếp tới LN trong
kỳ của Cty. Vì không có một tiêu chuẩn chính xác về giá trị các ước tính này, nên nó được xem là một
công cụ đắc lực để phù phép LN. Một số thủ thuật làm tăng mức LN thường gặp như giảm mức khấu
hao, giảm mức dự phòng, giảm giá hàng tồn kho, giảm dự phòng nơ khó đói, không ghi nhận chi phí khi
tài sản bị giảm giá xuấng dưới giá trị thuần, vốn hoá các khoản chi phí không đủ điều kiện...
Thủ thuật phù phép LN dựa trên các ước tính kế toán thực chất không làm tăng LN mà chỉ đơn thuần
chuyển LN của kỳ sau sang kỳ hiện tại. Hậu quả tất yếu là LN các năm sau sẽ bị giảm. Để tiếp tục đáp
ứng kỳ vọng ngày càng cao của thị trường, báo cáo tài chính các năm tiếp theo cũng phải được phù
phép. Tuy nhiên, càng về sau, mức LN cần phù phép càng lớn khiến cho việc sử dụng các ước tính kế
toán trở lên vô hiệu. Đến khi “giấy không thể gói được lửa”, khủng hoảng là điều khó tránh khỏi

Phù phép thông qua các giao dịch thực: phù phép LN thông qua việc giàn xếp một số giao dịch
thực (Real earnings management) nhằm tăng LN trong năm hiện tại, mặc dù các giao dịch đó có
thể không có lợi cho Cty về lâu dài.

1. Tăng doanh thu (DT) thông qua các chính sách giá và tín dụng
Một biện pháp các doanh nghiệp thường sủ dụng để tăng LN khi thấy có nguy cơ không đạt kế hoạch đặt ra là
giảm giá bán hoặc nới lỏng các điều kiện tín dụng nhằm tăng lượng hàng bán ra trong những tháng cuối năm
tài chính. Biện pháp thứ hai là công bố kế hoạch tăng giá bán đầu năm sau. Ví dụ, để tăng LN Quí IV/2007,
một Cty sản xuất ôtô có thể công bố kế hoạch tăng giá bán từ Quí I/2008, lập tức DT Quí IV/2007 sẽ tưng vọt.
Hai biện pháp này cho phép Cty tăng LN trong năm hiện tại, nhưng sẽ bị giảm vào các năm sau, vì thực chất
Cty đã chuyển LN của năm sau sang năm hiện tại. Mặt khác, tăng giá bán năm sau còn làm giảm khả năng
cạnh tranh của Cty trên thị trường.
2. Cắt giảm chi phí hữu ích
Cắt giảm chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D), chi phí quảng cáo, chi phí duy tu, bảo


dưỡng thiết bị cũng là cũng là một cách có thể làm tăng LN. Tuy nhiên, vì các chi phí này có vai trò cực kỳ
quan trọng đối với sự phát triển của Cty về lâu dài, nên sử dụng giải pháp này cũng đồng nghĩa với việc hy
sinh các khoản LN tiềm năng trong tương lai.

Phù phép thông qua các giao dịch thực: Ngoài phù phép thông qua các ước tính kế toán, doanh nghiệp còn
có thể phù phép LN thông qua việc giàn xếp một số giao dịch thực (Real earnings management) nhằm tăng LN
trong năm hiện tại, mặc dù các giao dịch đó có thể không có lợi cho Cty về lâu dài.

3. Trì hoãn thanh lý tài sản không có nhu cầu sử dụng hoặc các khoản đầu tư không hiệu quả
Đối với các tài sản doanh nghiệp không có nhu cầu sử dụng hoặc các khoản đầu tư không mang lại hiệu quả, giải pháp
tối ưu là thanh lý càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, thanh lý tài sản thường đem lại một khoản lỗ cho Cty trong năm hiện
tại. Do đó, nếu LN trong năm hiện tại có nguy cơ không đạt được mức kỳ vọng của thị trường, lãnh đạo Cty có thể
không muốn thanh lý, mặc dù trì hoãn sẽ gây nhiều thiệt hại cho Cty như làm phát sinh chi phí bảo quản, cản trở không
gian sản xuất. Với các tài sản và các khoản đầu tư không hiệu quả thì càng nắm giữ lâu, doanh nghiệp càng lỗ
4. Bán các khoản đầu tư hiệu quả
Ngoài trì hoãn thanh lý các khoản đầu tư không hiệu quả, Cty có thể bán các khoản đầu tư sinh lời nhằm tăng thêm LN
cho năm hiện tại. Động thái này được ví như “gặt lúa non”. Vì thế, áp dụng biện pháp trên có nghĩa là Cty tự nguyện bỏ
qua tiềm năng sinh lời lớn từ các khoản đầu tư này trong những năm tiếp theo.
5. Sản xuất vượt mức công suất tối ưu
Trong điều kiện thông thường, mỗi doanh nghiệp thường xác định một mức công suất tối ưu, tuỳ thuộc vào năng lực nội
tại cũng như điều kiện thị trường Tuy nhiên, trong trường hợp cần tăng LN, Cty có thể quyết định sản xuất vượt mức
công suất tối ưu. Điều này cho phép Cty giảm giá thành đơn vị sản phẩm nhờ tận dụng chi phí cố định. Mặt trái của biện
pháp này là máy mó, thiết bị phải làm việc quá mức ảnh hưởng tiêu cự tới năng suất và độ bền. Ngoài ra, sản phẩm làm
ra nhiều, nếu không bán được, sẽ phát sinh chi phí bảo quản và hàng tồn kho lâu ngày sẽ bị giảm giá trị.

Cả hai biện pháp phù phép báo cáo tài chính (dựa trên các ước tính kế toán hay các giao dịch thực), về
bản chất, chỉ là chuyển LN của các năm sau sang năm hiện tại. Điểm khác biệt là ở chỗ: trong khi sử
dụng các ước tính kế toán không làm thay đổi khả năng sinh lời đích thực của doanh nghiệp, thì việc sử
dụng các giao dịch thực để phù phép LN sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh lời của
Cty trong dài hạn. Xét về mặt này, làm tăng LN thông qua các ước tính kế toán được ưa chuộng hơn.

Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sử dụng các ước tính kế toán không đủ sức giúp các doanh nghiệp
đạt được mức LN kỳ vọng và có thể sẽ gặp trở ngại từ phía kiểm toán viên. Do đó, doanh nghiệp có thể
phải dùng đến các giao dịch thực để tăng LN. Kiểm toán viên dù phát hiện các thủ thuật này nhưng vì nó
tuân thủ các chuẩn mực kế toán, nên cũng không thể yêu cầu doanh nghiệp điều chỉnh lại

Tóm lại, dù áp dụng biện pháp nào, về lâu dài đều không có lợi cho NĐT cũng như cho chính
Cty. Xét trên phạm vi toàn xã hội, hậu quả còn nặng nề hơn, vì bê bối tài chính của một Cty
không chỉ ảnh hưởng riêng đến Cty đó, mà còn làm xói mòn lòng tin của NĐT đối với thị
trường. Để ngăn chặc những tác động tiêu cực của “Overvaluation”, các doanh nghiệp cần có
ý thức cung cấp thông tin đầy đủ và minh bạch cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, các NĐT cũng
cần tỉnh táo để không đẩy mọi việc đi quá xa vượt tầm kiểm soát. Tuy nhiên, nhiều khi lợi ích
ngắn hạn của “Overvaluation” quá hấp dẫn khiến các doanh nghiệp khó có thể cưỡng lại
được. Theo như nhận xét của Giáo sư M.C Jensen, Giám đốc Cty Tư vấn Quản trị doanh
nghiệp Monitor Group: “Overvaluation cũng giống như một loại heroin. Nó mang cho ta cảm
giác lâng lâng lúc ban đầu, nhưng không lâu sau đó sẽ là những nối đau không cùng.

Chiến lược đầu tư theo WAREN BUFFET

Chiến lược đầu tư theo BENJAMIN GRAHAM

Lựa chọn CP theo Phương pháp CANSLIM

Warren Buffett - người được xem là NĐT tài chính thành công nhất thế giới cho
đến hiện tại. Ông đã từng là người giàu nhất thế giới, và hiện tại là người giàu thứ
ba thế giới

Ông đặt ra các nguyên tắc và thực hiện theo các nguyên tắc đó

Đầu tư vào Cty chứ không đầu tư vào CP


Đầu tư theo giá trị thực: Những câu hỏi Warren Buffett đặt ra trước khi
quyết định chọn Cty/CP để đầu tư

Chọn thời điểm mua

Không quan tâm (b ngoài tai) m t s v n đ .ỏ ộ ố ấ ề

Danh ngôn (W.B)

Đầu tư vào Cty chứ không đầu tư vào CP:

Warren Buffett quan niệm rằng CP chỉ là tờ giấy chứng nhận
quyền sở hữu của cổ đông đối với Cty đó. Ông không đầu tư vào
CP, mà đầu tư vào Cty. Nói một cách khác, ông hoàn toàn không
quan tâm đến việc mua đi bán lại CP trong thời gian ngắn. Thay
vào đó, ông áp dụng chiến lược “buy and hold” - mua và giữ -
nghĩa là ông sẽ giữ CP trong thời gian dài, rất dài và đôi khi giữ
luôn nếu đó là những Cty ông xác định là chiến lược của mình

Đầu tư theo giá trị thực: Những câu hỏi Warren Buffett đặt ra trước khi quyết định chọn
Cty/CP để đầu tư:

- Cty có phát triển tốt không, có lợi thế cạnh tranh không? Warren Buffett chỉ muốn mua CP
của Cty có lợi thế cạnh tranh cao; hoặc là Cty dẫn đầu thị trường của ngành kinh doanh chính
của nó; hoặc là có thương hiệu được khách hàng đánh giá cao. Ông không muốn đầu tư vào
những Cty không có lợi thế cạnh tranh và chỉ có thể cạnh tranh bằng cách giảm giá bán. Ông
còn xét xem Cty mà ông sắp đầu tư có nguy cơ bị Cty lớn mạnh khác nhảy vào cạnh tranh hay
không. Ông là người sáng chế ra từ “economic moat” ngụ ý Cty đó có lợi thế cạnh tranh và
tạo ra “hàng rào” ngăn cản sự cạnh tranh của các Cty khác.




- Cty đó có mô hình kinh doanh đơn giản không? Warren Buffett chỉ đầu tư vào các Cty có
mô hình đơn giản, dễ hiểu, không quá phức tạp. Ông chỉ đầu tư vào những ngành mà ông biết
rất rõ.



- LN Cty tốt, tăng trưởng ổn định không?



Đầu tư theo giá trị thực: Những câu hỏi Warren Buffett đặt ra trước khi quyết định chọn Cty/CP để đầu tư:



- Tỷ số nợ trên vốn có thấp không? Tỷ số LN trên nợ có cao
không? Giả sử LN không đạt được mức kỳ vọng, Cty có khả
năng trả được nhũng món nợ đến hạn không?



- Tỷ lệ LN trên vốn đầu tư có tốt không? Đây là một trong
những chỉ số mà Buffett đặc biệt quan tâm. Ông chỉ đầu tư vào
những Cty tạo ra mức LN tốt.

- Chi phí vận hành của Cty có ở mức chấp nhận được hay
không?




- Dòng tiền mặt để đầu tư có đủ lớn để tạo ra LN và sự tăng
trưởng?



Đầu tư theo giá trị thực: Những câu hỏi Warren Buffett đặt ra trước khi quyết định chọn
Cty/CP để đầu tư:



- Cty có giữ lại LN để tái đầu tư hay không? Việc Cty chia cổ tức hay không chia cổ tức là
một trong những điểm khác biệt giữa Benjamin Graham và Warren Buffett. Benjamin Graham
cho rằng Cty nên chia cổ tức cho nhà đầu tư. Đối với ông, cổ tức được chia tốt hơn cổ tức
được giữ lại trong Cty. Trong khi đó, Warren Buffett muốn Cty giữ lại LN để tái đầu tư. Ông
cho rằng, nếu như Cty đang làm ra LN tốt - bằng hay cao hơn mức lãi suất mong muốn - thì
Cty nên giữ LN lại để tái đầu tư. Khi đó Cty sẽ trở thành một máy in tiền với tốc độ ngày
càng tăng cao nhờ hiệu ứng tuyệt vời của lãi suất kép.



- Ban lãnh đạo có giỏi, có tầm nhìn, có bề dày thành tích về quản lý kinh doanh, có đạo đức
không? Buffett chỉ đầu tư vào những Cty ông tin rằng ban lãnh đạo có năng lực.

×