Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Tài liệu Đề tài "ODA ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.12 KB, 113 trang )

LUẬN VĂN
"ODA ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM"
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI :
ODA ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Gv hướng dẫn: ThS. Mai Thu Hiền
Sinh vieõn: Nguyễn Mạnh Hà
Lớp: A2CN9
Hà Nội, tháng 03-2003
MỤC LỤC
Lời nói đầu Trang
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUỒN VỐN
HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA)

I- KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI ODA
1. Lịch sử hình thành ODA 6
2. Khái niệm 7
3. Đặc điểm 8
3.1. Ưu điểm
3.2. Hạn chế
4. Phân loại ODA 15
4.1. Theo tính chất
4.2. Theo mục đích
4.3. Theo điều kiện


4.4. Theo hình thức
4.5. Theo tính chất đối tác
II- VAI TRÒ CỦA ODA ĐỐI VỚI CÁC QUỐC GIA ĐANG
VÀ CHẬM PHÁT TRIỂN
16
1. ODA là nguồn vốn quan trọng đối với các quốc gia đang và
chậm phát triển
2. ODA giúp các nước nghèo tiếp thu những thành tựu khoa
học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực
19
3.ODA hoàn thiện cơ cấu kinh tế 22
4. ODA tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện mở rộng
đầu tư phát triển trong nước
5. Tác dụng của viện trợ ODA đối với các nước đang phát
triển
24
III- XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA ODA TRÊN THẾ GIỚI 26
1. Bảo vệ môI trường sinh thái là trọng tâm của nhiều nhà tài
trợ
2. Vấn đề Phụ nữ trong phát triển gần đây thường xuyên
được đề cập trong chính sách ODA của nhiều nhà tài trợ
3. Mục tiêu và yêu sách của các nhà tài trợ ngày càng cụ thể 28
4. Cung vốn ODA tăng chậm
5. Cạnh tranh giữa các nước đang phát triển trong việc tiếp
nhận vốn ODA đang tăng lên
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA
Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
31
I- CƠ CHẾ QUẢN LÝ ODA
1. Hành lang pháp lý

2. Bộ máy quản lý Nhà nước 34
II- TÌNH HÌNH SỬ DỤNG ODA CỦA VIỆT NAM 35
1. KháI quát về số liệu ODA qua các năm
1.1. Tình hình cam kết ODA cho Việt Nam
1.2. Đàm phán và ký kết các Hiệp định vay nợ, viện trợ
1.3. Tình hình giải ngân
2. Cơ cấu phân bổ ODA 41
2.1. Cơ cấu ODA theo ngành
2.2. Cơ cấu ODA theo vùng
III- NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ODA
TẠI VIỆT NAM
48
1. Các tiêu thức cơ bản và nguồn thông tin để đánh giá hiệu
quả
sử dụng ODA
1.1. Phân loại tiêu thức đánh giá
1.2. Nguồn thông tin đánh giá
2. Kết quả đạt được
2.1 Taờng voỏn ủaàu tử cho quoỏc gia 51
2.2 Chuyeồn dũch cụ caỏu kinh teỏ
2.3 Sửù phaựt trieồn cuỷa caực doanh nghieọp
3. Tồn tại và nguyên nhân 55
3.1. Tồn tại
3.2. Nguyên nhân
CHƯƠNG 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ODA TẠI
VIỆT NAM 81
I- PHƯƠNG HƯỚNG SỬ DỤNG VỐN ODA CỦA VIỆT
NAM
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với việc sử dụng
ODA

2. Mục tiêu khai thác ODA
II- NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ODA
83
1. Quy hoạch và phân bổ ODA
2. Về thu hút và sử dụng vốn
ODA
ODA 89
3. Cơ chế, chính sách
4. Tổ chức điều hành quản lý
5. Nhân sự 100
6. Thông tin, đánh giá

Kết luận 102
Tài liệu tham khảo 104
CHƯƠNG MỘT
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUỒN VỐN
HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA)
I- KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI ODA
1. Lịch sử hình thành ODA
Thời nguyên thủy, xã hội chưa hình thành nên nhà nước, giữa các
bộ lạc đã có sự hỗ trợ nhau về mặt vật chất. Khi một bộ lạc thiếu thốn sẽ
được bộ lạc khác dư dả hơn giúp đỡ. Đầu tiên sự giúp đỡ này còn vô tư,
về sau nó mang sắc tháI “vay trả”, bên cho vay đặt ra một số điều kiện
buộc bên đI vay phảI tuân theo.
Thời nay, xã hội ngày càng phát triển làm hố sâu ngăn cách giữa
các quốc gia ngày càng lớn. Các nước nghèo bên cạnh việc huy động
nguồn vốn tích lũy trong nước vẫn cần phảI có sự hỗ trợ từ phía bên
ngoài.Chính vì thế mà nhu cầu vay mượn giữa các quốc gia ngày càng
tăng lên, phức tạp hơn.
Trên thế giới, việc cung cấp ODA thực chất đã được tiến hành từ

nhiều thập kỉ trước đây, bắt đầu từ kế hoạch Masan của Mĩ viện trợ cho
các nước Tây Âu nhằm khôI phục kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ 2.
Thời gian này, các nước công nghiệp phát triển đã thỏa thuận trợ giúp các
nước đang phát triển dưới dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với
điều kiện ưu đãi. Tiếp đó hội nghị Côlômbô năm 1955 hình thành những
ý tưởng và nguyên tắc đầu tiên về hợp tác phát triển.
Ngày 14/12/1960, tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển ra đời tại
Paris bao gồm 20 thành viên ban đầu tập hợp lại cùng hợp tác phát triển.
Tổ chức này đã đóng góp phần quan trọng nhất trong việc trợ giúp các
nước đang và chậm phát triển. Trong khuôn khổ hợp tác và phát triển, các
nước thành viên OECD đã lập ra ủy ban chuyên môn, trong đó có ủy ban
hỗ trợ phát triển chuyên trách giúp đỡ các nước đang và chậm phát triển
kinh tế, nâng cao hiệu quả đầu tư, thành viên ban đầu của DAC gồm 18
nước: ÁO, Bỉ, Hà lan, Nauy.... các nước trong ủy ban này theo thường kỳ
thông báo các khoản đóng góp của họ cho chương trình viện trợ phát triển
để DAC biết và trao đổi các vấn đề liên quan với chính sách viện trợ phát
triển. Lần đầu tiên DAC đưa ra kháI niệm về ODA năm 1969.
Năm 1970, Đại hội đồng liên hợp quốc đã chính thức thông qua chỉ
tiêu ODA bằng 0,7% GNP của các nước phát triển vào năm 1985 và bằng
1% vào đầu năm 2000
Năm 1994, ngân hàng thế giới được thành lập tại hội nghị quốc tế
về tàI chính- tiền tệ tổ chức vào tháng 7/1994 tại Breton Woods thuộc
bang New Harmpshire. Mục tiêu chính của ngân hàng thế giới là thúc đẩy
sự tiến bộ kinh tế- xã hội và tăng trưởng phúc lợi của các nước thành viên
đang phát triển với tư cách như một trung gian tàI chính. Ngày nay, ngân
hàng thế giới góp phần quan trọng trong việc dảI ngân ODA cho các
nước đang và kém phát triển, trong đó có Việt Nam.

2. Khái niệm
Theo khái niệm của Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC) thuộc Tổ chức

Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) thì hỗ trợ phát triển chính thức
(Offical Development Assistance - ODA) là các khoản viện trợ không
hoàn lại, các khoản viện trợ có hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi của
các Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống
Liên hiệp quốc, các tổ chức tài chính quốc tế dành cho Chính phủ và nhân
dân các nước đang và chậm phát triển, đảm bảo 2 nguyên tắc sau:
(1) ODA được cấp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và công bằng của
các nước đang phát triển và đây phải là mục đích chính của ODA.
(2) ODA phải thể hiện sự ưu đãi, cụ thể phải bao hàm ít nhất 25% viện
trợ không hoàn lại.
Chính phủ Nhật Bản đưa ra khaựi nieọm “ Một loại viện trợ muốn là
ODA phảI có đủ 3 yếu tố cấu thành:
+ Do chính phủ cơ quan đại diện cấp
+ Có mục đích góp phần phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi
cho nước tiếp nhận
+ Ưu đãI phảI đạt trên 25% trong đó ưu đãI là một chỉ số hợp từ 3
yếu tố: lãI suất, thời hạn trả nợ, thời gian aõn haùn trong tương quan so
sánh với các yếu tố tương tự của ngân hàng thương mại
Chính phủ Việt Nam quy định tại điều I quy chế quản lý và sử
dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức- ban hành kèm theo nghị định số
17/2001/NĐ-CP ngày 04-05/2000: “ Hỗ trợ phát triển chính thức (sau đây
gọi tắt là ODA) trong quy chế này được hiểu là hoạt động hợp tác phát
triển giưa nhà nước hoặc chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam với nhà tàI trợ, bao gồm:
A, Chính phủ nước ngồi
B, Các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia
Hình thức cung cấp ODA bao gồm:
A, ODA khơng hồn lại
B, ODA vay ưu đãI có yếu tố khơng hồn lại ít nhất 25%
Phương thức cung cấp ODA bao gồm:

A, Hỗ trợ cán cân thanh tốn
B, Hỗ trợ chương trình
C, Hỗ trợ dự án
WB đưa ra kháI niệm ODA bao gồm cả viện trợ đa phương và
song phương, nhấn mạnh tới khía cạnh tàI chính của ODA mà khơng đề
cập tới mục đích của ODA là gì.
NgồI ra ODA còn có các điều kiện ưu đãI có thể là: lãI suất thấp
( dưới 3%/năm), thời gian ân hạn dàI hoặc thời gian trả nợ (30-40 năm).
Nghị định 87CP của chính phủ việt nam quy định về nguồn vốn ODA là
sự hợp tác phát triển giữa nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam với
một hay nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế. Hình thức của sự hợp tác có thể
là hỗ trợ cán cân thanh tốn, hỗ trợ theo chương trình, hỗ trợ theo kỹ
thuật hoặc theo dự án.
3. Đặc điểm
Trửụực tiẽn ủãy laứ nguồn voỏn cuỷa chớnh phuỷ phãn boồ cho
mói maởt cuỷa xaừ hoọi nhaốm thuực ủaồy nền kinh teỏ nhửng bẽn
cánh ủoự laứ keứm theo caực ủiều kieọn ủeồ coự theồ vay ủửụùc
nguồn voỏn naứy.
ODA ln bị rằng buộc trực tiếp hoặc gián tiếp, đI kèm với ODA
bao giờ cũng có những rằng buộc nhất định về chính trị kinh tế hoặc khu
vực địa lý. Nước nhận viện trợ còn phảI đáp ứng những u cầu của bên
cấp viện trợ như thay đổi chính sách đối ngoại, chính sách kinh tế, thay
đổi chế độ chính trị.... cho phù hợp với mục đích của bên tàI trợ. Trong
giai đoạn hiện nay đã xuất hiện một số đặc điểm quan trọng sau:
Thứ nhất, tỉ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa
phương có xu thế giảm đi. Quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới
và xu thế hội nhập đã tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế, chính trị....
giữa các quốc gia ngày càng được đẩy mạnh và tăng cường. Hoạt động
của một số tổ chức phương tỏ ra kém hiệu quả làm cho một số nhà tàI trợ
ngần ngại đóng góp cho các tổ chức này. Điều đó là nguyên nhân chính

tạo nên sự chuyển dịch, tỉ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên,
ODA đa phương có xu thế giảm đI điều đó được chứng minh trên thực tế
là trong các năm từ 1980-1994 trong tổng số ODA của thế giới, tỉ trọng
ODA song phương từ 67% tăng lên69% trong khi đó tỉ trọng ODA đa
phương giảm từ 33% xuống còn 31% (nguồn của bộ kế hoạch và đầu tư)
Thứ hai, sự cạnh tranh ngày càng tăng trong quá trình thu hút vốn
ODA. Trên thế giới một số nước mới giành được độc lập, hoặc mới tách
ra từ các nước liên bang tăng lên đáng kể và có nhu cầu lớn vế ODA.Một
số nước cộng hòa từ Nam Tư cũ và một số nước Châu Phi bị tàn phá nặng
nề trong chiến tranh sắc tộc đang cần đến sự hỗ trợ của các tổ chức quốc
tế. Ở Châu á, Trung Quốc, các nước Đông Dương... cũng đang cần đến
nguồn ODA lớn để xây dựng kinh tế, phát triển xã hội. Số nước có nhu
cầu tiếp nhận ODA là rất lớn vì vậy sự cạnh tranh giữa các nước ngày
càng trở nên gay gắt. Các vấn đề mà các nước cung cấp ODA quan tâm
đến tạo nên sự cạnh tranh giữa các nước tiếp nhận là năng lực kinh tế của
các quốc gia tiếp nhận, các triển vọng phát triển, ngoàI ra còn chịu nhiều
sự tác động của các yếu tố khác như: Nhãn quan chính trị, quan điểm
cộng đồng rộng rãI, dựa trên sự quan tâm nhân đạo và hiểu biết về sự cần
thiết đóng góp vào ổn định kinh tế xã hội quốc tế.Cùng mối quan hệ
truyền thống với các nước thứ 3 của các nước phát triển, hay tầm quan
trọng của các nước đang phát triển với tư cách là bạn hàng( thị trường,
nơI cung cấp nguyên liệu, lao động). Mặt khác, chính sách đối ngoại, an
ninh và lợi ích chiến lược trách nhiệm toàn cầu hay cá biệt.... cũng là
nhân tố tạo nên xu hướng phân bổ ODA theo vùng. NgoàI ra còn có thêm
lý do đó là sự chuẩn bị đáp ứng nhu cầu về thủ tục, quy chế, chiến lược,
viện trợ... khác nhau của các nhà tàI trợ trên thế giới cũng tạo nên sự
chênh lệch trong quá trình thu hút và sử dụng ODA giữa các quốc gia hấp
thụ nguồn vốn này. Chính sự cạnh tranh gay gắt đã tạo nên sự tăng giảm
trong tiếp nhận viện trợ của các nước đang phát triển.
Thứ ba, sự phân bố ODA theo khu vực nghèo của thế giới không

đồng đều. Nguyên nhân tạo nên sự khác biệt như vậy có thể có rất nhiều
lý giảI khác nhau, có thể là do những mong muốn của các quốc gia đI
viện trợ như mở rộng quan hệ hợp tác về chính trị hay kinh tế, mục đích
xã hội, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào ý muốn chủ quan của nhà tàI trợ.
Lúc đầu họ chỉ quan tâm đến việc thiết lập các mối quan hệ với các nước
láng giềng của mình, nhưng sau đó họ lại nhận thấy rằng cần thiết lập
quan hệ với các nước khác trên thế giới để tìm kiếm thị trường trao đổi
buôn bán hay đầu tư mà việc đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao bằng
cách viện trợ ODA. Mặt khác chính những yếu tố trong nội bộ của quốc
gia cũng tạo nên những khác biệt lớn trong quá trình nhận viện trợ như
các mối quan hệ với các nước phát triển
Thứ tư, triển vọng gia tăng nguồn vốn ODA ít lạc quan.
Mặc dù Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã khuyến nghị dành 1% GNP của
các nước phát triển để cung cấp ODA cho các nước nghèo. Nhưng nước
có khối lượng ODA lớn như Nhật Bản, Mỹ... thì tỷ lệ này mới chỉ đạt ở
mức trên dưới 0,3% trong nhiều năm qua. Tuy có một số nước như Thụy
Điển, Na uy, Phần Lan, Đan Mạch... đã có tỷ lệ ODA chiếm hơn 1%
GNP, song khối lượng ODA tuyệt đối của các nước này không lớn. Thêm
vào đó tình hình kinh tế phục hồi chậm chạp ở các nước đang phát triển
cũng là một trở ngại gia tăng ODA. Ngoài ra, hàng năm các nước cung
cấp ODA dựa vào kết quả hoạt động của nền kinh tế của mình để xem xét
khối lượng ODA có thể cung cấp được. Nhưng hiện nay các nước phát
triển đang có những dấu hiệu đáng lo ngại trong nền kinh tế của mình như
khủng hoảng kinh tế hay hàng loạt các vấn đề xã hội trong nước, chịu sức
ép của dư luận đòi giảm viện trợ để tập trung giải quyết các vấn đề trong
nước.
Tuy nhiên, ở các nước phát triển, kinh tế tăng bình quân 6%/năm trong
các năm 1991 - 1994 (4%/năm trong thập kỷ 80). Đời sống nhân dân
đang được cải thiện rõ rệt. Do sự phục hồi kinh tế ở các nước phát triển,
nguồn vốn chuyển dịch vào các nước đang phát triển có thể sẽ giảm sút

trong các năm tới, ODA là một khoản vốn mà các nước phát triển hỗ trợ
cho các nước đang phát triển nó được thực hiện từ rất lâu, qua các giai
đoạn nhất định, có những xu thế vận động riêng, nhìn chung lại, xu
hướng vận động hiện nay hàm chứa cả các yếu tố thuận lợi lẫn khó khăn
cho một số nước đang phát triển như nước ta đang tìm kiếm nguồn hỗ trợ
phát triển chính thức, tuy nhiên các yếu tố thuận lợi là cơ bản. Xét trên
phạm vi quốc tế, ODA có thể huy động được lại tuỳ thuộc voà chính sách
đối ngoại khôn khéo và khả năng hấp thụ vốn nước ngoài của chính nền
kinh tế nước đó. Qua đó ta có thể thấy rõ được những đặc điểm riêng biệt
của ODA so với các nguồn vốn khác.
Thực tiễn nói trên đã phản ánh khá rõ tính hai mặt của nguồn vốn
ODA.
3.1. Ưu điểm
Các dự án sử dụng vốn vay ODA thường đòi hỏi áp dụng công nghệ
tiên tiến, chất lượng cao của thế giới và phương thức quản lý tiên tiến.
Từ năm 1993, khi vốn ODA bắt đầu vào Việt Nam đến nay, rất nhiều cán
bộ Việt Nam có điều kiện tiếp cận và hiểu biết các quy trình công nghệ
mới trong các lĩnh vực cầu, đường, điện..., nhiều công ty Việt Nam đã
vươn lên đủ sức cạnh tranh với các công ty nước ngoài và đã thắng thầu
trong các cuộc đấu thầu quốc tế. Các cán bộ quản lý dự án, các cán bộ
công chức của Chính phủ làm quen dần và ngày càng hiểu rõ hơn các quy
tắc tổ chức đấu thầu quốc tế, giải ngân và quản lý thực hiện dự án. Có thể
nói các dự án phát triển là các cơ sở thử nghiệm cho các ý tưởng hay khái
niệm mới đối với một số nước, chứng minh cho Chính phủ hoặc nhân dân
của các nước đó thấy được tác dụng của những công việc như thầu khoán
các dịch vụ công cộng, vận động các nhóm những người hưởng lợi từ dự
án tham gia vào công tác quản lý... Dự án ODA cũng có thể giúp phá vỡ
những quan điểm trói buộc khu vực công cộng vào những cơ chế không
hiệu quả. Chính phủ dù có tư tưởng đổi mới cũng thấy khó thực hiện các
ý tưởng mới, nhất là khi các ý tưởng đó lại ảnh hưởng đến quyền lợi của

người dân. Ví dụ, khi dân cư đã quen với việc sử dụng các dịch vụ công
cộng (đường,điện, nước,...) không phải trả tiền hoặc trả rất ít, nếu Chính
phủ thay đổi chính sách yêu cầu người dân phải trả tiền cho các dịch vụ
công cộng này để có nguồn đầu tư cho các dự án mới thì chắc chắn Chính
phủ sẽ gặp phải sự phản đối từ phía dân cư và chính sách mới sẽ khó
được thông qua. Trong khi đó, các nhà tài trợ có thể tài trợ cho các dự án
đường, thuỷ lợi, nước sạch đồng thời yêu cầu nước tiếp nhận có chính
sách thu phí thích hợp để duy tu bảo dưỡng công trình, đảm bảo tính bền
vững của dự án. Việc thay đổi chính sách để đáp ứng yêu cầu của nhà tài
trợ sẽ được nhân dân dễ dàng chấp thuận hơn như là điều kiện để tiếp
nhận vốn mới. Như vậy, dự án ODA đã góp phần đổi mới chính sách tại
nước tiếp nhận vốn và đổi mới nếp nghĩ của người dân được trực tiếp thụ
hưởng.
3.2. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên thì nguồn vốn ODA cũng hàm chứa
các mặt trái của nó.
(1) Trong một số trường hợp vốn ODA thường đi liền với yếu tố kinh
tế-chính trị tiêu cực (do bên cung cấp vốn áp đặt) hơn là hiệu quả kinh
tế. Các nước phát triển mà điển hình là Mỹ thường sử dụng ODA như
một công cụ chính trị, xác định vị trí và ảnh hưởng của mình tại các nước
và khu vực tiếp nhận ODA, buộc các nước này phải chấp nhận một lập
trường nào đó của mình trong ngoại giao hay tác động, can thiệp vào sự
phát triển chính trị. Vì vậy khi tiếp nhận nguồn vốn ODA các nước đang
và chậm phát triển cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài
trợ.
(2) Vay vốn ODA làm tăng gánh nợ quốc gia. Vốn vay ODA dù vay
với thời gian dài 30-40 năm vẫn không phải là vốn viện trợ, đến một lúc
nào đó nước tiếp nhận phải dùng tiền của mình để trả nợ. Hơn thế nữa rủi
ro tỷ giá là một trong những nguy cơ đáng quan tâm nhất. Thực tế nhiều
năm qua trên thế giới đã chỉ rõ: cái được coi là lợi ích của các khoản

ODA cho vay với lãi suất thấp và thời hạn dài ngày hôm nay có thể
không bù lại được cho những thiệt hại to lớn do sự thay đổi bất lợi về tỷ
giá hối đoái trong tương lai. Vì vậy, nếu như nước tiếp nhận không có
chính sách quản lý nợ thận trọng sẽ dẫn đến mất khả năng trả nợ. Bài học
kinh nghiệm từ các nước châu Phi cho thấy từ những năm 1960 các nước
này chủ yếu là vay vốn ODA và đến cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 các
nước nghèo ở châu Phi lâm vào khủng hoảng mất khả năng trả nợ. Cho
đến nay cộng đồng quốc tế vẫn tiếp tục tìm kiếm các biện pháp hữu hiệu
giải quyết nợ hoặc xoá nợ (như sáng kiến giãn nợ cho các nước nghèo
mắc nợ nặng nề do IMF và WB khởi xướng).
(3) Các khoản vay ODA gắn với chính sách hỗ trợ cho các doanh
nghiệp của nước tài trợ. Vì vậy thông thường có sự ràng buộc của nhà tài
trợ trong việc lựa chọn dự án, thuê tư vấn, chọn nhà thầu, nhà cung ứng
hàng hoá thiết bị cho dự án. Do đó giá cả trong các hợp đồng sử dụng vốn
ODA thường cao hơn các hợp đồng cùng loại theo hình thức thương mại
thông thường. Cá biệt có trường hợp mức chênh lệch giá nói trên đến
30%. Hơn nữa vốn ODA khi đã được chỉ định cho một số dự án nhất định
thì việc thay đổi quy mô dự án hoặc điều chuyển vốn từ dự án này sang
dự án khác là rất khó khăn hoặc không thể thực hiện được, đặt nước đi
vay vào tình thế hoặc chấp nhận dự án hoặc không được vay.
(4) Thủ tục để sử dụng được vốn vay ODA thường là phức tạp và mất
nhiều thời gian để dự án được chấp thuận. Vì vậy các dự án chuẩn bị để
sử dụng vốn ODA thường phải thay đổi Nghiên cứu khả thi do thời gian
từ khi xây dựng Nghiên cứu khả thi ban đầu đến khi được nhà tài trợ
thẩm định cách nhau khá xa. Ngoài ra, các chi phí khác như chi quản lý
dự án, giải phóng mặt bằng của các dự án ODA cũng cao hơn các dự án
cùng loại sử dụng vốn trong nước do nhà tài trợ can thiệp trực tiếp vào
các quy trình này
4. Coự nhieàu tieõu chớ khaực nhau ủeồ phaõn loaùi nguoàn voỏn
ODA:

4.1. Theo tính chất
- Viện trợ không hoàn lại: các khoản cho không, không phải trả lại
- Viện trợ có hoàn lại: các khoản cho vay ưu đãi (vay tín dụng với
điều kiện ”mềm”).
- Viện trợ hỗn hợp: gồm một phần cho không, phần còn lại thực hiện
theo hình thức vay tín dụng (có thể ưu đãi hoặc thương mại).
4.2. Theo mục đích
- Hỗ trợ cơ bản: là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội và môi trường. Đây thường là những
khoản cho vay ưu đãi.
- Hỗ trợ kỹ thuật: là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức,
công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên
cứu tiền đầu tư phát triển thể chế và nguồn nhân lực v.v.. loại hỗ trợ này
chủ yếu là viện trợ không hoàn lại.
4.3. Theo điều kiện
- ODA không ràng buộc: việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng
buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.
- ODA có ràng buộc:
 Bởi nguồn sử dụng: có nghĩa là việc mua sắm hàng hoá, trang
thiết bị hay dịch vụ bằng nguồn ODA chỉ giới hạn cho một số
công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ
song phương), hoặc các công ty của các nước thành viên (đối với
viện trợ đa phương).
 Bởi mục đích sử dụng: chỉ được sử dụng cho một số lĩnh vực
nhất định hoặc một số dự án cụ thể.
- ODA có thể ràng buộc một phần: một phần chi ở nước viện trợ, phần
còn lại chi ở bất cứ nơi nào.
4.4. Theo hình thức
- Hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án
cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho

không hoặc cho vay ưu đãi.
- Hỗ trợ phi dự án bao gồm các loại hình như sau:
 Hỗ trợ cán cân thanh toán thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp
(chuyển giao tiền tệ), hỗ trợ hàng hoá hay là hỗ trợ nhập khẩu.
Ngoại tệ hoặc hàng hoá được chuyển vào qua hình thức này có
thể được sử dụng để hỗ trợ cho ngân sách.
 Hỗ trợ trả nợ
 Viện trợ chương trình: là khoản ODA dành cho một mục đích
tổng với thời gian nhất định và không phải xác định một cách
chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.
4.5. Theo tính chất đối tác
- ODA song phương: là khoản tài trợ của một quốc gia cho Chính phủ
của một nước một cách trực tiếp thông qua việc ký kết các hiệp định tín
dụng.
- ODA đa phương: khoản tài trợ của các tổ chức quốc tế đa quốc gia
như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), các
tổ chức thuộc Liên hiệp quốc như UNDP, FAO... cho Chính phủ của một
nước.
II- VAI TRÒ CỦA ODA ĐỐI VỚI CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT
TRIỂN
Vai trò của ODA
Cho đến nay, mặc dù bối cảnh quốc tế đã có nhiều biến đổi, song mục
tiêu và lợi ích của các nước cấp vốn theo đuổi hầu như không thay đổi so
với trước đây: tập trung cho an ninh của hệ thống TBCN, tuyên truyền
dân chủ kiểu phương tây, trói buộc sự phát triển kinh tế của các quốc gia
phụ thuộc thế giới thứ ba vào trong một trật tự tự do mà các trung tâm tự
bản đã sắp đặt khuyến khích tự do hoá kinh tế để mở đường cho tư bản
nước ngoài tràn vào...
Caực khoaỷn vay ODA coự thụứi gian traỷ nụù raỏt daứi vaứ coự
mửực laừi suaỏt ửu ủaừi. Thaứnh toỏ vieọn trụù khoõng hoaứn laùi trong

caực khoỷan vay ODA toỏi thieồu laứ 25% theo quy ủũnh cuỷa caực
nửụực OECD. Theo soỏ lieọu cuỷa boọ taứi chớnh tửứ 1993 ủeỏn naờm
1999 Vieọt Nam ủaừ kyự vay cuỷa ODA 11.627 trieọu USD trong ủoự
coự 9.632 USD laứ vay vụựi thụứi haùn 30-40 naờm vaứ laừi suaỏt tửứ
0,75% ủeỏn 2%/naờm. Thaứnh toỏ vieọn trụù khoõng hoaứn laùi cuỷa
caực khoaỷn vay naứy ủaùt tửứ 25% ủeỏn 80%. Chổ coự nguoàn voỏn
lụựn vụựi ủieàu kieọn vay ửu ủaừi nhử vaọy Chớnh Phuỷ mụựi coự theồ
taọp trung ủầu tử cho caực dửù aựn há tầng kinh teỏ lụựn nhử ủửụứng
xaự, ủieọn, nửụực, thuỷy lụùi, caỷng vaứ caực dửù aựn há tầng xaừ
hoọi khaực nhử giaựo dúc y teỏ, coự thụứi gian hoaứn voỏn lãu vaứ
tyỷ leọ hoứan voỏn thaỏp. Bụỷi neỏu nhử chuựng ta sửỷ dúng nguồn
voỏn ngaộn hán ủeồ ủầu tử daứi hán thỡ nguy cụ dn ủeỏn khuỷng
hoaỷng về khaỷ naờng thanh toaựn laứ khoự traựnh khoỷi. Vỡ vaọy ủoỏi
vụựi Vieọt Nam hieọn nay vaứ trong tửụng lai gần thỡ vieọc tranh thuỷ
caực nguồn voỏn ODA vay daứi hán ủeồ ủầu tử cho caực cõng trỡnh
há tầng laứ raỏt cần thieỏt.
Ngoaứi ra ODA coứn boồ xung nguồn ngoái teọ cho ủaỏt nửụực
vaứ buứ ủaộp caựn cãn thanh toaựn. Hieọn nay ụỷ moọt soỏ nửụực
ASEAN coự tyỷ leọ tieỏt kieọm noọi ủũa khaự cao 30-40% GDP, song
tái caực nửụực naứy vn coự thãm hút caựn cãn vaừng lai. Voỏn
ODA vaứo caực nửụực naứy laứ nguồn buứ ủaộp quan tróng cho caựn
cãn vaừng lai. Trong ủiều kieọn ủồng noọi teọ khõng coự khaỷ
naờng tửù do chuyeồn ủoồi maứ moọt dửù aựn neỏu ủaừ chuaồn bũ
100% voỏn ủầu tử baống nguồn voỏn trong nửụực nhửng neỏu nhu
cầu chuyeồn ủoồi tiền noọi teọ sang ngoái teọ ủeồ nhaọp khaồu trang
thieỏt bũ cho dửù aựn khõng ủửụùc ủaựp ửựng ủầy ủuỷ thỡ chaộc
chaộn dửù aựn khõng khaỷ thi, nhử vaọy soỏ tiền tieỏt kieọm noọi teọ
khõng theồ chuyeồn thaứnh ủầu tử. Vaọy noự ủoựng vai troứ heỏt sửực
quan tróng vụựi nhửừng tiẽu chớ sau:
1. ODA là nguồn vốn quan trọng đối với các quốc gia đang phát

triển.
Vốn đầu tư cùng với tài ngun thiên nhiên, lao động và kỹ thuật tạo
thành 4 yếu tố của q trình sản xuất vật chất, xã hội. Tất cả các nước khi
tiến hành chương trình cơng nghiệp hố đều cần vốn đầu tư lớn. Đó chính
là trở ngại lớn nhất để thực hiện chương trình Cơng nghiệp hố đối với
nước nghèo. Trong điều kiện hiện nay, với những thành tựu mới của khoa
học và công nghệ, các nước có thể tiến nhanh không chỉ bằng khả năng
tích luỹ trong nước mà còn kết hợp với tận dụng khả năng của thời đại.
Bên cạnh nguồn vốn trong nước còn có thể huy động nguồn vốn từ bên
ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp hoặc vay nợ/viện trợ. Tuy nhiên, ở
đây chúng ta sẽ đề cập đến vốn ODA trong tổng thể các nguồn vốn bên
ngoài chuyển vào các nước đang phát triển.
Đối với các nước đang phát triển khoản viện trợ và cho vay theo điều
kiện ODA là nguồn tài chính quan trọng. ODA được tiếp nhận như một
nguồn lực hữu hiệu từ bên ngoài, kéo các quốc gia đang và chậm phát
triển ra khỏi vòng tuần hoàn luẩn quẩn: Thiếu vốn - đầu tư thấp - năng
suất lao động thấp - thu nhập thấp - thiếu vốn... và thu nhập ngày càng
thấp hơn. Nhiều nước đã tiếp thu một lượng vốn ODA khá lớn như một
bổ sung quan trọng cho phát triển kinh tế. Năm 1993 bình quân đầu người
ở các nước thu nhập thấp nhận được 9,2 USD/người. Nếu không kể
Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước lớn thì mức ODA bình quân đầu người
của các nước có thu nhập thấp đạt tới 23,7 USD/người, chiếm tới 6,4%
GNP bình quân đầu người của các nước này. Trong thời kỳ đầu của
chương trình công nghiệp hoá ở các nước NICs, các nước ASEAN và
Trung Quốc, viện trợ nước ngoài đã có tầm quan trọng đáng kể. Đài
Loan, trong thời kỳ đầu thực hiện công nghiệp hoá, đã dùng viện trợ và
nguồn vốn nước ngoài để thoả mãn gần 50% tổng khối lượng vốn đầu tư
trong nước. Sau khi nguồn tiết kiệm trong nước tăng lên, Đài Loan mới
giảm dần sự lệ thuộc vào viện trợ. Từ năm 1950 đến năm 1965 Mỹ đã
viện trợ cho Đài Loan theo kiểu cho vay ưu đãi và cho không mỗi năm

108 triệu USD (theo thời giá). Khoản viện trợ này đến năm 1968 mới
chấm dứt hẳn. Còn Hàn Quốc, nhờ có mối quan hệ đặc biệt với Mỹ nên
có được nguồn viện trợ rất lớn, chiếm 81,2% tổng số viện trợ của nước
này trong những năm 1970-1972. Nhờ đó mà giảm được sự căng thẳng về
nhu cầu vốn đầu tư và đã có điều kiện thuận lợi để thực hiện được các
mục tiêu kinh tế.
Do tính chất ưu đãi, nguồn vốn ODA thường dành cho đầu tư vào cơ
sở hạ tầng kinh tế-xã hội như đầu tư vào đường xá, cầu cảng, công trình
điện, công trình cấp thoát nước và các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá,
phát triển nguồn nhân lực... Vào đầu những năm 1970, cơ sở hạ tầng kinh
tế xã hội của các nước Đông Nam Á sau khi giành được độc lập rất nghèo
nàn và lạc hậu. Các quốc gia đã sớm nhận thấy vai trò quan trọng của
việc phát triển các hoạt động giao thông vận tải, thông tin liên lạc và bưu
chính viễn thông... Theo báo cáo của WB, từ năm 1971 đến năm 1974, tại
Philipin vốn chi cho phát triển giao thông vận tải chiếm tới 50% tổng số
vốn dành cho xây dựng cơ bản và 60% tổng vốn vay ODA được chi cho
phát triển cơ cở hạ tầng. Kết quả là đến cuối năm 1994, Philipin đã có
811 cảng lớn nhỏ đạt tiêu chuẩn quốc gia, 329 cảng cấp tỉnh và vận tải
thuỷ đã đảm bảo được 85% lượng hàng hóa chuyên chở nội địa... tạo điều
kiện cho giao lưu kinh tế quốc tế thực hiện nhanh chóng, thuận tiện.
Nhiều công trình hạ tầng kinh tế và xã hội như sân bay, bến cảng,
đường cao tốc, trường học, bệnh viện, trung tâm nghiên cứu khoa học
mang tầm cỡ quốc gia ở Thái Lan, Singapore, Indonesia đã được xây
dựng bằng nguồn ODA của Nhật Bản, Mỹ, WB, ADB và một số nhà tài
trợ khác. Một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc trước đây cũng đã dựa
vào nguồn vốn ODA của Mỹ, WB, ADB để hiện đại hoá hệ thống giao
thông vận tải của mình.
Tuy nhiên cũng vì tính chất ưu đãi của nguồn vốn ODA mà gánh nặng
nợ thường không thấy rõ ngay. Nhưng đó chỉ là nỗi lo sợ đối với các
nước không biết sử dụng và quản lý ODA. Gánh nặng nợ nần sẽ được

giảm thiểu rất nhiều nếu biết quản lý để đem lại hiệu quả sử dụng ODA
cao.
2. ODA giúp các nước nghèo tiếp thu những thành tựu khoa học,
công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực.
Những lợi ích quan trọng mà hỗ trợ phát triển chính thức mang lại cho
các nước nhận tài trợ là công nghệ, kỹ thuật hiện đại, nghiệp vụ chuyên
môn và trình độ quản lý tiên tiến. Các nhà tài trợ còn ưu tiên đầu tư cho
phát triển nguồn nhân lực vì họ tin rằng việc phát triển của một quốc gia
quan hệ mật thiết với việc phát triển nguồn nhân lực. Đây mới chính là
những lợi ích căn bản, lâu dài đối với nước nhận tài trợ. Có điều là những
lợi ích này thật khó có thể lượng hoá được. Vì vậy để hiểu rõ những lợi
ích này chúng ta sẽ xem xét loại hình hợp tác kỹ thuật của Nhật Bản-
quốc gia đứng đầu thế giới về cung cấp ODA hiện nay.
Hợp tác kỹ thuật là một bộ phận lớn trong hỗ trợ phát triển chính thức
của Nhật Bản và được Chính phủ Nhật Bản đặc biệt coi trọng. Hợp tác kỹ
thuật bao gồm hàng loạt các hoạt động rộng rãi từ việc xuất bản và cung
cấp sách, tài liệu kỹ thuật bằng nhiều thứ tiếng. Các chương trình hợp tác
kỹ thuật do Chính phủ Nhật Bản thực hiện được tiến hành dưới các hình
thức: nhận người sang học ở Nhật Bản; gửi các chuyên gia Nhật và cung
cấp các trang thiết bị, vật liệu, cử các nhân viên tình nguyện từ tổ chức
những người tình nguyện hợp tác hải ngoại Nhật Bản (JOCV). Cơ quan
hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) được thành lập tháng 8 năm 1974, là tổ
chức duy nhất thực hiện các chương trình hợp tác kỹ thuật do Chính phủ
Nhật bảo trợ.
Việc huấn luyện, đào tạo là một phần của hợp tác kỹ thuật do Chính
phủ Nhật đảm nhận. Dạng hợp tác này nhằm đào tạo chuyên môn để đóng
góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội của các nước có người được huấn
luyện, đào tạo. Bởi vì việc đào tạo được thực hiện ở Nhật Bản, các học
viên có cơ hội tìm hiểu về văn hoá, xã hội và nền kinh tế Nhật Bản. Nhờ
đó, họ trở lại đất nước mình cùng với những tri thức, kỹ năng thu được

qua quá trình đào tạo và sự hiểu biết rộng về Nhật Bản. Nhật Bản còn
thực hiện một chương trình đào tạo gọi là chương trình đào tạo ở nước
thứ ba. Chương trình đào tạo ở nước thứ ba cơ bản giống với hợp tác kỹ
thuật theo kiểu dự án, việc quản lý do nước thứ ba đó tiến hành dựa trên
việc ký một văn bản về nghiên cứu và phát triển ... Còn Nhật Bản cung
cấp viện trợ hoặc cử chuyên gia, chịu phí tổn về đào tạo và các phương
tiện khác. Hệ thống này nhằm thúc đẩy hợp tác kỹ thuật giữa các nước
đang phát triển và chuyển giao đầy đủ công nghệ. Từ tháng 3/1975 Nhật
Bản đã liên tục thực hiện một chương trình đào tạo ở nước thứ ba, từ năm
này sang năm khác tại trung tâm nghiên cứu và đào tạo Korat (Thái Lan)
về dâu tằm tơ...
Việc cử chuyên gia là một hình thức hợp tác kỹ thuật đã có lịch sử lâu
dài. Việc này được tiến hành theo các ký kết quốc tế giữa Nhật với các
nước đang phát triển hoặc theo yêu cầu của các tổ chức đa phương. Việc
cử chuyên gia được tiến hành theo các cách khác nhau. Trong mỗi trường
hợp, mục đích chính là chuyển giao hiểu biết, công nghệ cho các nước
đang phát triển thông qua định hướng, điều tra và nghiên cứu, góp ý...
Việc cải tiến trình độ công nghệ của các nước đang phát triển cuối cùng
sẽ góp phần vào sự phát triển kinh tế-xã hội của họ. Kể từ khi Nhật Bản
bắt đầu chương trình hợp tác kỹ thuật sau khi chiến tranh thế giới thứ II
kết thúc, việc cử chuyên gia chủ yếu hướng về các nước châu Á. Tuy
nhiên gần đây các khu vực khác cũng có yêu cầu ngày càng gia tăng.
Trong năm tài chính 1982 châu Á nhận được 59,5% tổng số chuyên gia
Nhật, Trung Cận Đông 6,3%, châu Phi 5,9% và châu Mỹ La-tinh 19,7%.
Trong các năm tài chính 1954-1990, tổng số chuyên gia Nhật Bản được
cử là 32.034 người, phân theo khu vực địa lý như sau: châu Á 18.947,
châu Phi 2.564, Trung Cận Đông 2.702, châu Mỹ La-tinh 5.766, châu Âu
216, châu Đại Dương 477, những nơi khác 1.362.
Nhật Bản còn thực hiện hợp tác kỹ thuật theo thể loại từng dự án. Các
chương trình hợp tác kỹ thuật do Chính phủ Nhật giao cho JICA thực

hiện gồm 3 loại: đào tạo kỹ thuật tại Nhật, cử chuyên gia sang các nước,
cung cấp thiết bị và vật liệu. 3 thể loại hợp tác kỹ thuật này có thể được
thực hiện một cách độc lập, nhưng để có sự phối hợp tốt hơn và có hiệu
quả hơn đôi khi 3 thể loại này được kết hợp lại thành một thể loại mới về
hợp tác kỹ thuật được gọi là ”hợp tác kỹ thuật theo thể loại từng dự án”.
Mục tiêu của hợp tác kỹ thuật theo thể loại từng dự án là chuyển giao
công nghệ cho các kỹ sư, kỹ thuật viên, nhân viên y tế... của nước nhận
viện trợ bằng cách cho họ tham gia vào các dự án phát triển thuộc các
lĩnh vực cụ thể như nông nghiệp, lâm nghiệp, đánh cá, y tế, nghiên cứu về
dân số và kế hoạch hoá gia đình, dạy nghề và các hoạt động nghiên cứu
liên quan đến các lĩnh vực đó. Việc thực hiện hợp tác kỹ thuật theo thể
loại từng dự án được tiến hành một cách có hệ thống và toàn diện trong
một số năm liền tại một địa điểm cụ thể - được gọi là cơ sở vận hành -
của nước nhận viện trợ (ví dụ: một trung tâm thực nghiệm nông nghiệp
hoặc một phòng thí nghiệm, một khu vực phát triển nông nghiệp cụ
thể...). Hợp tác kỹ thuật theo thể loại từng dự án đã trực tiếp góp phần vào
việc chuyển giao công nghệ bằng một chuỗi hoạt động tổng hợp tiến hành
trong một thời gian dài và trên một quy mô rộng lớn. Gần đây, các nước
đang phát triển đã nêu ngày càng nhiều yêu cầu hợp tác theo thể loại này,
và tính chất của các yêu cầu đó có xu hướng trở nên toàn diện hơn, lớn
hơn về quy mô so với trước đây.
Việc cử các đoàn khảo sát về phát triển sang các nước đang phát triển
cũng là một phần của sự hợp tác kỹ thuật của Nhật Bản. Khảo sát và phát
triển được sử dụng để cung cấp cho Chính phủ một nước đang phát triển
các dữ kiện cơ bản và thông tin cần thiết để đi tới những quyết định quan
trọng về chính sách. Các chuyên đề nghiên cứu khả thi chiếm một phần
lớn các khảo sát về phát triển và được tiến hành nhằm kiểm tra lại khả
năng thành công của các dự án từ khía cạnh kỹ thuật, kinh tế và tài chính.
Khảo sát về phát triển cũng góp phần vào việc cải tiến trình độ công nghệ
của các nước đang phát triển. Chuyển giao công nghệ được thực hiện

thông qua các cuộc khảo sát với sự hợp tác của các kỹ sư nước sở tại,
hoặc đưa các kỹ sư đó sang Nhật để huấn luyện về phân tích dữ kiện và
thông tin thu được trong khảo sát. Ở đây, chuyển giao công nghệ không
có nghĩa là chuyển giao từng mục, từng phần công nghệ mà là chuyển
giao toàn bộ tri thức về các mặt kinh tế, kỹ thuật, tài chính và xã hội để
chuẩn bị cho một dự án phát triển có thể thành công được.
3. ODA giuựp hoaứn thieọn cụ caỏu kinh teỏ.
Do dân số tăng nhanh, sản xuất chậm và cung cách quản lý kinh tế, tài
chính kém hiệu quả, các nước đang phát triển đặc biệt là các nước châu
Phi, đang vấp phải nhiều khó khăn kinh tế như nợ nước ngoài và thâm hụt
cán cân thanh toán quốc tế ngày càng gia tăng. Để giải quyết các vấn đề
này, các quốc gia đang cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối
hợp với WB, IMF và các tổ chức quốc tế khác tiến hành chính sách điều
chỉnh cơ cấu. Chính sách này dự định chuyển chính sách kinh tế Nhà
nước đóng vai trò trung tâm sang chính sách khuyến khích nền kinh tế
phát triển theo định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Thế giới đã thừa nhận sự cần thiết của loại hình viện trợ này đối với
các nước đang phát triển. Hiện nay Nhật Bản - quốc gia đứng đầu về cung
cấp ODA cũng rất chú trọng tới loại hình này. Từ năm 1988 đến năm
1990, Nhật Bản đã dành khoảng 52.000 triệu Yên để cấp viện trợ không
hoàn lại dưới dạng đồng tài trợ với các tổ chức quốc tế. Nhật Bản cũng đã
cấp viện trợ không hoàn lại nhằm hỗ trợ cho việc hoàn thiện cơ cấu kinh
tế ở châu Phi và các nước khác. Trong 3 năm từ 1987 đến 1989, Nhật đã
cấp 61.700 triệu Yên để hỗ trợ hoàn thiện cơ cấu kinh tế cho 26 nước
châu Phi, từ năm 1990 đến năm 1992 đã cấp 600 triệu USD cho Mông
Cổ, Pêru và các nước khác ở châu Á, Trung và Nam Mỹ. Trong giai đoạn
3 năm từ 1993 đến 1995 Nhật Bản đã dành một khoản viện trợ tổng cộng
khoảng gần 700 triệu USD để hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở các nước
đang phát triển.
Giúp cảI thiện thể chế và chính sách kinh tế

CảI thiện thể chế và chính sách kinh tế ở những nước đang phát triển là
chìa khóa để tạo nên những bước nhảy vọt về lượng trong thúc đẩy tăng
trưởng, tức là góp phần làm giảm đói nghèo. Mặt khác viện trợ có thể
nuôI dưỡng cảI cách. Khi các nước mong muốn cảI cách thì viện trợ nước
ngoàI có thể đóng góp những nỗ lực cần thiết như hỗ trợ thử nghiệm cảI
cách, trình diễn thí nghiệm, tạo đà và phổ biến các bàI học kinh nghiệm.
Những nước mà ở đó chính phủ thực hiện chính sách vững chắc, phân bổ
hợp lý các khoản chi tiêu và cung cấp các dịch vụ có hiệu quả cao thì hiệu
quả chung của viện trợ là lớn. Ngược lại, ở những nước mà nhà tàI trợ và
chính phủ không đồng nhất quan điểm trong việc chi tiêu, hiệu quả lại
thấp thì nhà tàI trợ cho rằng cách tốt nhất là giảm viện trợ và tăng cường
việc hỗ trợ cho việc hoạch định chính sách và xây dựng thể chế cho đến
khi các nhà tàI trợ thấy rằng viện trợ của họ sẽ đóng góp cho sự phát
triển. Qua đây ta cũng nhận thấy rằng, giá trị thực của các dự án là ở chỗ
các thể chế và chính sách được củng cố, cảI thiện việc cung cấp dịch vụ
xã hội. Việc tạo ra được kiến thức với sự trợ giúp của viện trợ sẽ dẫn tới
sự cảI thiện trong một số nghành cụ thể trong khi một phần tàI chính của
viện trợ sẽ mở rộng các dịch vụ nói chung.
Tóm lại, viện trợ đã và đang có hiệu quả. Tuy nhiên nguồn vốn
ODA chỉ phát huy hêt vai trò của nó khi có một cơ chế quản lý tốt, một
thể chế lành mạnh và một môI trường chính trị hoàn thiện. Nếu không
ODA chẳng những không phát huy vai trò của nó mà còn đem lại gánh
nặng nợ nần cho đất nước.
Việt Nam là một đất nước đang phát triển, hiện đang mong muốn
nhân được nhiều ODA và quản lý sử dụng ODA thật hiệu quả phục vụ
cho phát triển đất nước. Việt Nam cần nhận thức rõ được vai trò của
ODA, các điều kiện để ODA phát huy vai trò của nó để từng bước hoàn
thiện công tác thu hút quản lý và sử dụng ODA
4. ODA tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu
tư phát triển trong nước

Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài khi quyết định bỏ vốn vào một
nước luôn quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó. Họ
cảnh giác với những nguy cơ làm tăng các phí tổn của đầu tư. Một cơ sở
hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện
thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng
(điện, nhiên liệu) không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư,
bởi vì những phí tổn mà họ phải trả cho việc sử dụng những tiện nghi hạ
tầng sẽ lên cao, chưa kể đến thiệt hại như hoạt động của nhà máy, xí
nghiệp phải dừng vì mất điện, công trình xây dựng bỏ dở vì không có
nước. Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng là lý do làm cho các nhà đầu
tư e ngại vì những chậm trễ, ách tắc trong hệ thống thanh toán và sự thiếu
thốn các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho đầu tư sẽ làm phí tổn đầu tư gia
tăng, dẫn tới hiệu quả đầu tư giảm sút. Như vậy, đầu tư của Nhà nước vào
việc nâng cấp , cải thiện và xây dựng mới các cơ sở hạ tầng, hệ thống tài
chính ngân hàng đều hết sức cần thiết nhằm làm cho môi trường đầu tư
trở nên hấp dẫn hơn. Vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng rất lớn,
trong nhiều trường hợp các nước đang phát triển cần phải dựa vào nguồn
vốn ODA để bổ sung cho vốn đầu tư hạn hẹp từ ngân sách của nhà nước.
Một khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ tăng sức hút dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Mặt khác, việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải

×