Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh trong chương điên học vật lý 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.1 KB, 108 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đất nước ta đang bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá, phát triển kinh tế. Mọi ngành nghề đều có những bước thay đổi
đáng kể và vì thế ngành Giáo dục – Đào tạo cũng có những bước đổi mới
mạnh mẽ về mọi mặt nhằm đào tạo ra những con người có đủ kiến thức, năng
lực sáng tạo, trí tuệ và phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng được yêu cầu của cuộc
sống và nền kinh tế tri thức.
Trong cuộc hành trình vào thế kỷ mới, cần có những con người năng động,
thơng minh và sáng tạo. Vì vậy, vấn đề nhân lực và nhân tài là vấn đề chiến
lược của đất nước, mà việc chuẩn bị nguồn nhân lực và nhân tài cho tương lai
phải bắt đầu từ giáo dục. Chính những yêu cầu cấp thiết của thời đại đòi hỏi
giáo dục nhà trường phải thay đổi mục tiêu đào tạo và có những đổi mới thực
sự trong PP dạy học.
Hội nghị lần 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá
VIII đã nêu rõ “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng
những người có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm
chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng
thực hành giỏi…”. Để đạt mục tiêu đề ra, Hội nghị cũng đã chỉ rõ “…Đổi mới
mạnh mẽ PP Giáo dục – Đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các PP
tiên tiến và hiện đại vào quá trình dạy học…” [4].
Luật Giáo dục, điều 28.2 đã ghi “PP giáo dục phổ thơng phải phát huy tính
tích cực, tự giác, tự chủ, sáng tạo của HS, phù hợp với từng đặc điểm của lớp
học, môn học, bồi dưỡng PP tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
HS”[16].

-1-


Kho tàng tri thức là vô tận, mỗi ngày lại có những thành tựu mới được


phát minh. Do đó, dạy học bằng PP tiên tiến và hiện đại theo hướng tích cực
hố hoạt động học tập là khơng chỉ dạy cho HS nắm kiến thức mà cần phải
dạy cho HS cách tự lực chiếm lĩnh kiến thức, có tư duy sáng tạo và tích cực
trong hoạt động nhận thức để phù hợp với yêu cầu của thời đại.
Ngày nay việc nâng cao chất lượng giáo dục là một trong những vấn đề
được quan tâm hàng đầu trong xã hội. Trong bối cảnh toàn ngành Giáo Dục
và Đào Tạo đang nổ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực chủ động của học sinh trong họat động học tập, mà phương pháp
dạy học là cách thức hoạt động của giáo viên trong việc chỉ đạo, tổ chức hoạt
động học tập nhằm giúp học sinh chủ động đạt các mục tiêu dạy học.
Do đó, tơi chọn đề tài “Vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng
tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh trong chương Điện học -Vật lý
lớp 9” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn Thạc sỹ Giáo dục học, chuyên
ngành Lý luận và phương pháp dạy học Vật lý.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu, vận dụng các PP dạy học theo hướng tích cực hố hoạt động
học tập vào giảng dạy chương Điện học - Vật lý lớp 9 nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học ở trường THCS.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu:


Hoạt động dạy - học Vật lý của GV và HS ở THCS.

3.2. Phạm vi nghiên cứu


Các PP dạy học Vật lý theo hướng tích cực hố hoạt động học tập.




Chương Điện học - Vật lý lớp 9 trong chương trình Vật lý phổ thông.

-2-


4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Bằng việc phối hợp vận dụng các PP dạy học một cách hợp lý theo hướng
tích cực hố hoạt động học tập của HS thì sẽ nâng cao được chất lượng dạy
học phần Điện học -Vật lý lớp 9.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU


Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc phát huy tính tích cực hoạt động
học tập của HS.



Vận dụng các PP dạy học theo hướng tích cực hố hoạt động học tập
trong dạy học Vật lý.



Nghiên cứu chương trình SGK Vật lý 9



Vận dụng các PP dạy học vào giảng dạy, thiết kế phương án dạy học
cho chương Điện học - Vật lý 9.




Thực nghiệm sư phạm.

6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:


Nghiên cứu tài liệu liên quan từ sách chuyên ngành, lý thuyết dạy học.

6.2. Phương pháp nghiên cứu TN:


Tìm hiểu thực trạng trong dạy học ở trường THCS.



Nghiên cứu các PP dạy học theo hướng tích cực hố hoạt động học
tập của HS.



Sử dụng các PP dạy học vào thiết kế, soạn thảo phương án dạy học
các bài học cụ thể trong chương Điện học - Vật lý 9.



Giảng dạy theo giáo án thiết kế và tham khảo ý kiến đồng nghiệp đề
xuất sử dụng các PP dạy học thích hợp cho một số bài học.


6.3. Phương pháp thống kê toán học: sử dụng PP thống kê toán học để xử
lý các kết quả thực nghiệm sư phạm.

-3-


7. ĐĨNG GĨP CỦA ĐỀ TÀI
7.1.

Hệ thống hố cơ sở lý luận các PP dạy học theo hướng tích cực hố
hoạt động học tập của HS.

7.2.

Tìm hiểu được thực trạng, nguyên nhân khó khăn và hạn chế trong
việc dạy học phần Điện học -Vật lý 9.

7.3.

Thiết kế các phương án dạy học phù hợp theo hướng tích cực hố
hoạt động của HS.

7.4.

Phân tích, đánh giá kết quả nghiên cứu và đề xuất một số ý kiến của
bản thân.

8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn chia
thành 3 chương:

Chương 1: Các phương pháp dạy học và tích cực hố hoạt động học tập
của học sinh.
Chương 2: Vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa
hoạt động học tập của học sinh trong dạy học chương Điện học - Vật lý 9.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

-4-


CHƯƠNG 1
CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ TÍCH CỰC HĨA
HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
1.1. Cơ sở lý luận về tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh
Khi bàn về PP giáo dục J.Piaget đã rất nhấn mạnh đến vai trị hoạt động
của HS. Ơng nói: “Trẻ em được phú cho tính hoạt động thực sự và giáo dục
không thể thành công nếu không sử dụng và khơng thực sự kéo dài tính hoạt
động đó” [14]. Như vậy có thể nói, sự hoạt động của HS trong q trình giáo
dục và giáo dưỡng là yếu tố khơng thể thiếu được và để kéo dài hoạt động đó
thì việc tích cực hố được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất.
Điều này cũng cần phải được quán triệt trong tiến trình khắc phục quan niệm
của HS trong dạy học vật lý.
1.1.1. Dạy học và phát triển
Mục đích của dạy học là đem đến sự phát triển tồn diện cho HS. Điều
đó nói lên rằng giữa dạy học và phát triển có mối quan hệ với nhau. Đó là mối
quan hệ hai chiều, biện chứng: Trước hết phát triển là mục đích cuối cùng của
hoạt động dạy học, đồng thời khi tư duy HS phát triển thì việc thu nhận và
vận dụng kiến thức của HS sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn, q trình dạy
học diễn ra một cách thuận lợi hơn. Nghĩa là sự hoạt động và trí tuệ của con
người có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khơng có hoạt động thì trí tuệ
khơng thể phát triển tốt được, bởi vì “Trí tuệ có bản chất hoạt động, khơng

phải cái gì “nhất thành bất biến” trí tuệ được hình thành dần trong mỗi hoạt
động cá nhân”.[24]
Nhìn chung dạy học bằng cách này hay cách khác đều có thể góp phần
phát triển HS, nhưng dạy học được coi là đúng đắn nhất nêu nó đem lại sự
phát triển tốt nhất cho người học. Theo Vưgơtxki thì: “Dạy học được coi là tốt
nhất nếu nó đi trước sự phát triển và kéo theo sự phát triển”. Cơ sở của quan

-5-


điểm này là lý thuyết “vùng phát triển gần nhất” do ông đề xướng. Lý luận
dạy học đã chỉ ra rằng: “Dạy học phải có tác dụng thức đẩy sự phát triển trí
tuệ của người học”. Một mặt trí tuệ của HS chỉ có thể phát triển tốt trong q
trình dạy học khi thầy giáo phát huy tốt vai trò của người tổ chức, điều khiển
làm giảm nhẹ khó khăn cho HS trong q trình nhận thức, biết cách khuyến
khích HS tham gia vào hoạt động nhận thức tích cực trong dạy học. Mặt khác
đối với HS để phát triển trí tuệ của mình khơng có cách nào khác là phải tự
mình hành động, hành động một cách tích cực và tự giác. Đó chính là bản
chất của của mối quan hệ biện chứng giữa dạy và học, giữa hoạt động và phát
triển.
Thơng qua hoạt động trí tuệ HS phát triển dần từng bước từ thấp đến cao.
Bởi vậy các biện pháp giáo dục của thầy cũng phải thay đổi cho phù hợp với
từng bậc thang của sự phát triển. Theo lý thuyết của Vưgốtxki thì dạy học cần
đi trước sự phát triển, kéo sự phát triển theo mình. Để dạy học có thể đi trước
sự phát triển, GV cần phải xác định được mức độ phát triển hiện tại của người
học cũng như mức độ phát triển có thể đạt được thông qua hoạt động học
được tổ chức một cách phù hợp. [21],[23]
Vưgôtxki phân biệt vùng phát triển hiện tại và vùng phát triển gần nhất.
Theo ông, vùng phát triển hiện tại là mức độ phát triển mà ở đó người học có
thể tiếp thu, tự giải quyết vấn đề một cách độc lập không cần sự giúp đỡ của

GV hoặc của những HS khác có khả năng cao hơn. Còn vùng phát triển gần
nhất là mức độ phát triển cao hơn mà ở đó người học có thể giải quyết được
vấn đề khi có sự giúp đỡ của GV hoặc của những HS khác có khả năng cao
hơn. Như vậy, nhiệm vụ của GV không chỉ là xác định được vùng phát triển
hiện tại mà còn cần phải nhận thức được vùng phát triển gần nhất của HS. Từ
đó, quyết định khi nào thì tổ chức để HS hoạt động một cách độc lập và khi
nào thì cần cung cấp sự giúp đỡ, hướng dẫn. Ngoài ra, cần nắm vững mức độ

-6-


có thể phát triển được của mỗi HS để lựa chọn PP dạy học phù hợp.[18],[21],
[23]
1.1.2. Tích cực hố hoạt động học tập của học sinh
Tích cực hố là một hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người
học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể
tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập.
Tích cực hố hoạt động học tập của HS là một trong những nhiệm vụ của
thầy giáo trong nhà trường và cũng là một trong những biện pháp nâng cao
chất lượng dạy và học. Tuy không phải là vấn đề mới, nhưng trong xu hướng
đổi mới dạy học hiện nay thì việc tích cực hố hoạt động học tập của HS là
một vấn đề được đặc biệt quan tâm. Nhiều nhà vật lý học trên thế giới đang
hướng tới việc tìm kiếm con đường tối ưu nhằm tích cực hố hoạt động nhận
thức của HS, nhiều cơng trình nghiên cứu cũng đã và đang đề cập đến lĩnh
vực này. Tất cả đều hướng tới việc thay đổi vai trò người dạy và người học
nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học nhằm đáp ứng được yêu cầu
dạy học trong giai đoạn phát triển mới. Trong đó HS chuyển từ vai trị là
người thu nhận thơng tin sang vai trị chủ động, tích cực tham gia tìm kiếm
kiến thức. Cịn thầy giáo chuyển từ người truyền thơng tin sang vai trị người
tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ để HS tự mình khám phá kiến thức mới.

Q trình tích cực hóa hoạt động học tập của HS sẽ góp phần làm cho
mối quan hệ giữa dạy và học, giữa thầy và trò ngày càng gắn bó và hiệu quả
hơn. Tích cực hố vừa là biện pháp thực hiện nhiệm vụ dạy học, đồng thời nó
góp phần rèn luyện cho HS những phẩm chất của người lao động mới: tự chủ,
năng động, sáng tạo. Đó là một trong những mục tiêu mà nhà trường phải
hướng tới.
Tích cực hoá hoạt động học tập của HS là biện pháp phát hiện những
quan niệm sai lệch của HS qua đó thầy giáo có biện pháp để khắc phục những
quan niệm đó. Vì thế việc khắc phục những quan niệm của HS có vai trị quan

-7-


trọng trong nhà trường nhằm giúp HS phát triển một cách tồn diện hơn.[2],
[8],[21]
1.1.3. Các biện pháp tích cực hố hoạt động học tập của học sinh
Tích cực hố hoạt động học tập của HS có liên quan đến nhiều vấn đề,
trong đó các yếu tố như động cơ, hứng thú học tập, năng lực, ý chí của cá
nhân, khơng khí dạy học … đóng vai trị rất quan trọng. Các yếu tố liên quan
chặt chẽ với nhau và có ảnh hưởng tới việc tích cực hố hoạt động học tập của
HS trong q trình học tập. Trong đó có nhiều yếu tố là kết quả của một quá
trình hình thành lâu dài và thường xuyên, không phải là kết quả của một giờ
học mà là kết quả của cả một giai đoạn, là kết quả của sự phối hợp nhiều
người, nhiều lĩnh vực và cả xã hội.
Để có thể tích cực hố hoạt động nhận thức của HS trong quá trình học
tập chúng ta cần phải chú ý đến một số biện pháp chẳng hạn như:
 Tạo ra và duy trì khơng khí dạy học trong lớp; xây dựng động cơ hứng
thú học tập cho HS; giải phóng sự lo sợ HS…
 Tạo ra và duy trì khơng khí dạy học trong lớp nhằm tạo ra môi trường
thuận lợi cho việc học tập và phát triển của trẻ.

 Khởi động tư duy gây hứng thú học tập cho HS.
 Khai thác và phối hợp các PP dạy học một cách có hiệu quả, đặc biệt chú
trọng tới các PP dạy học tích cực. Trong tiến trình dạy học, thầy giáo cần
phải lựa chọn và sử dụng các PP dạy học hiệu quả, đặc biệt là các PP dạy
học tích cực như: PP nêu vấn đề; PP thảo luận; PP học tập nhóm tương tác
… có như vậy mới khuyến khích tính tích cực sáng tạo của HS trong học
tập.
 Tổ chức cho HS hoạt động, thầy giáo và HS là những chủ thể của quá
trình dạy học, vì thế tích cực hố hoạt động học tâp của HS phải do chính
những chủ thể này quyết định.

-8-


 Trong giờ học thầy giáo không được làm thay HS, mà phải đóng vai trị
là người tổ chức q trình học tập của HS, hướng dẫn HS đi tìm kiếm kiến
thức mới. Còn HS phải chuyển từ vai trò thụ động sang chủ động tham gia
tích cực và sáng tạo vào quá trình học tập tránh tình trạng ngồi chờ và ghi
chép một cách máy móc.[6],[8],[21],
1.2. Phương pháp dạy học và tích cực hóa hoạt động học tập
1.2.1. Cơ sở của phương pháp dạy học tích cực
1.2.1.1. Định hướng đổi mới PP dạy học:
Trong Luật Giáo dục, điều 28.2, đã ghi: "PP giáo dục phổ thơng phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng PP tự học, rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho HS".[16]
Có thể nói cốt lõi của đổi mới PP dạy và học là hướng HS tới hoạt động
học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động hiện nay.
1.2.1.2.Tính tích cực học tập

Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì để tồn tại và
phát triển con người ln phải chủ động, tích cực cải biến mơi trường tự
nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là
một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục.
Tính tích cực học tập - về thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc trưng
ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm
lĩnh tri thức. Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước
hết với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề
của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích
cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là nền tảng của sáng tạo.
Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác,
hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập.[14]

-9-


Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời
các câu hỏi của GV, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến
của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, địi hỏi giải thích cặn kẽ
những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức để nhận thức vấn đề
mới, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề
đang học; kiên trì hồn thành các BT, khơng nản trước những tình huống khó
khăn…
Tính tích cực học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như:
 Bắt chước: HS bắt chước hành động, thao tác của GV, của bạn bè.
Trong hành động cũng phải có sự cố gắng của thần kinh cơ bắp.
 Tìm tịi: HS độc lập, tự lực giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách
giải quyết khác nhau sao cho hợp lý nhất…
 Sáng tạo: HS tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu, đề xuất
những giải pháp có hiệu quả, có sáng kiến…[2],[7],[12],[21]

1.2.1.3. Phương pháp dạy học tích cực
PP dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để
chỉ những PP giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học.
"Tích cực" trong PP dạy học - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt
động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng
theo nghĩa trái với tiêu cực.
PP dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt
động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực
của người học chứ khơng phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của
người dạy, tuy nhiên để dạy học theo PP tích cực thì GV phải nỗ lực nhiều so
với dạy theo PP thụ động. [2]
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách
học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trị cũng ảnh hưởng tới cách dạy

- 10 -


của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp HS địi hỏi cách dạy tích cực hoạt động
nhưng GV chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp GV hăng hái áp dụng PP
dạy học tích cực nhưng khơng thành cơng vì HS chưa thích ứng, vẫn quen với
lối học tập thụ động. Vì vậy, GV phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần
dần xây dựng cho HS PP học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao.
Trong đổi mới PP dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp
nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành cơng. Như vậy,
việc dùng thuật ngữ "Dạy và học tích cực" để phân biệt với "Dạy và học thụ
động".[2],[5],[19]
1.2.1.4. Mối quan hệ giữa dạy và học tích cực với dạy học lấy học sinh
làm trung tâm
Từ thập kỉ cuối cùng của thế kỷ XX, các tài liệu giáo dục ở nước ngoài

và trong nước, một số văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thường nói tới
việc cần thiết phải chuyển dạy học lấy GV làm trung tâm sang dạy học lấy HS
làm trung tâm.
Dạy học lấy HS làm trung tâm cịn có một số thuật ngữ tương đương
như: dạy học tập trung vào người học, dạy học căn cứ vào người học, dạy học
hướng vào người học… Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn
mạnh hoạt động học và vai trị của HS trong qúa trình dạy học, khác với cách
tiếp cận truyền thống lâu nay là nhấn mạnh hoạt động dạy và vai trò của GV.
Lịch sử phát triển giáo dục cho thấy, trong nhà trường một thầy dạy cho
một lớp đơng học trị, cùng lứa tuổi và trình độ tương đối đồng đều thì GV
khó có điều kiện chăm lo cho từng HS nên đã hình thành kiểu dạy "thơng báo
- đồng loạt". GV quan tâm trước hết đến việc hoàn thành trách nhiệm của
mình là truyền đạt cho hết nội dung quy định trong chương trình và SGK, cố
gắng làm cho mọi HS hiểu và nhớ những điều GV giảng. Cách dạy này tạo ra
cách học tập thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ, cho nên đã hạn chế
chất lượng, hiệu quả dạy và học, không đáp ứng yêu cầu phát triển năng động

- 11 -


của xã hội hiện đại. Để khắc phục tình trạng này, các nhà sư phạm kêu gọi
phải phát huy tính tích cực chủ động của HS, thực hiện "dạy học phân hóa"
quan tâm đến nhu cầu, khả năng của mỗi cá nhân HS trong tập thể lớp. PP dạy
học tích cực, dạy học lấy HS làm trung tâm ra đời từ bối cảnh đó.[2]
Trên thực tế, trong q trình dạy học người học vừa là đối tượng của
hoạt động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động
học, dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động cải biến
chính mình về kiến thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, khơng ai làm
thay cho mình được. Vì vậy, nếu người học khơng tự giác chủ động, khơng
chịu học, khơng có PP học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế.

Như vậy, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trị của người học thì
đương nhiên phải phát huy tính tích cực chủ động của người học. Tuy nhiên,
dạy học lấy HS làm trung tâm không phải là một PP dạy học cụ thể. Đó là một
tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học chi phối tất
cả quá trình dạy học về mục tiêu, nội dung, PP, phương tiện, tổ chức, đánh
giá… chứ không phải chỉ liên quan đến PP dạy và học.[2],[6],[7]
1.2.2. Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực.
1.2.2.1. Dạy và học thơng qua tổ chức các hoạt động học tập của học
sinh.
Trong PP dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động "dạy",
đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động
học tập do GV tổ chức và chỉ đạo, thơng qua đó tự lực khám phá những điều
mình chưa rõ chứ khơng phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được GV
sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực
tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy
nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được PP "làm
ra" kiến thức, kĩ năng đó, khơng rập theo những khn mâu sẵn có, được bộc
lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. [2],[8]

- 12 -


Dạy theo cách này thì GV khơng chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn
hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng HS biết hành
động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
1.2.2.2. Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện PP học tập cho HS không chỉ
là biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu học. Trong
PP học thì cốt nỏi là PP tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được PP, kĩ
năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ có được lịng ham học, khơi

dậy nội lực vốn có của mỗi người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội.
Vì vậy, ngày nay, người ta nhấn mạnh hoạt động học trong quá trình dạy học,
nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt
vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ngay
trong trường phổ thông, không phải tự học ở nhà mà cả tự học cả trong tiết
học có sự hướng dẫn của GV.[2],[8]
1.2.2.3. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của HS khơng thể đồng
đều tuyệt đối thì khi áp dụng PP tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về
cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết
kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Áp dụng PP tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng lớn.
Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp
ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi
HS.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều
được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi
trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá
nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh
luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ,

- 13 -


qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được
vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người thầy giáo.
Trong nhà trường, PP học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp
hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong
nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là
lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuát hiện thực sự nhu cầu phối

hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo
nhóm nhỏ sẽ khơng thể có hiện tượng dựa dẫm; tính cách năng lực của mỗi
thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần
tương trợ. Mơ hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm
cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc
gia, liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà
nhà trường phải chuẩn bị cho HS.[2],[8],[18]
1.2.2.4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá HS khơng chỉ nhằm mục đích nhận định
thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện
nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây GV giữ độc quyền đánh giá HS. Trong PP tích cực, GV phải
hướng dẫn HS phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên
quan với điều này, GV cần tạo điều kiện thuận lợi để HS được tham gia đánh
giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực
rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho HS.
Theo hướng phát triển các PP tích cực để đào tạo những con người năng
động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không
thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà
phải khuyến khích trí thơng minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những
tình huống thực tế.

- 14 -


Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ khơng cịn
là một cơng việc nặng nhọc đối với GV, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời
hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, GV khơng cịn đóng

vai trị đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, GV trở thành người thiết kế,
tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để HS tự lực
chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng,
thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, HS hoạt động là chính, GV
có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, GV đã phải đầu tư công
sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện
bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài
trong các hoạt động tìm tịi hào hứng, tranh luận sơi nổi của HS. GV phải có
trình độ chun mơn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ
chức, hướng dẫn các hoạt động của HS mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự
kiến của GV. [2],[8],[15]
Có thể so sánh đặc trưng của dạy học truyền thống và dạy học tích
cực như sau:
Dạy học truyền thống
Các mơ hình dạy học tích cực
Học là q trình tiếp thu vàHọc là quá trình kiến tạo; HS tìm tịi,
Quan
niệm

lĩnh hội, qua đó hình thànhkhám phá, phát hiện, luyện tập, khai
kiến thức, kĩ năng, tư tưởng, thác và xử lý thơng tin,… tự hình
tình cảm.

thành hiểu biết, năng lực và phẩm

chất.
Truyền thụ tri thức, truyềnTổ chức hoạt động nhận thức cho HS.
Bản chất thụ và chứng minh chân lýDạy HS cách tìm ra chân lý.
của GV.
Mục tiêu Chú trọng cung cấp tri thức,Chú trọng hình thành các năng lực

kĩ năng, kĩ xảo. Học để đối(sáng tạo, hợp tác,…) dạy PP và kĩ
phó với thi cử. Sau khi thithuật lao động khoa học, dạy cách

- 15 -


xong những điều đã họchọc. Học để đáp ứng những yêu cầu
thường bị bỏ quên hoặc ítcủa cuộc sống hiện tại và tương lai.
dùng đến.

Những điều đã học cần thiết, bổ ích
cho bản thân HS và cho sự phát triển
xã hội.
Từ nhiều nguồn khác nhau: SGK,
GV, các tài liệu khoa học phù hợp, thí
nghiệm, bảo tàng, thực tế…: gắn với:
- Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và nhu
cầu của HS.
- Tình huống thực tế, bối cảnh và mơi

PP

Hình

trường địa phương
- Những vấn đề HS quan tâm.
Các PP diễn giảng, truyền thụCác PP tìm tịi, điều tra, giải quyết
kiến thức một chiều.
vấn đề; dạy học tương tác.
Cố định: Giới hạn trong 4Cơ động, linh hoạt: Học ở lớp, ở

bức tường của lớp học, GVphịng thí nghiệm, ở hiện trường,

thức tổ đối diện với cả lớp.
chức

trong thực tế…, học cá nhân, học đôi
bạn, học theo cả nhóm, cả lớp đối
diện với GV.

1.2.3. Điều kiện áp dụng phương pháp dạy học tích cực
1.2.3.1. Giáo viên: GV phải được đào tạo chu đáo để thích ứng với
những thay đổi về chức năng, nhiệm vụ rất đa dạng và phức tạp của mình,
nhiệt tình với cơng cuộc đổi mới giáo dục. GV vừa phải có kiến thức chun
mơn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề, biết ứng xử tinh tế, biết sử
dụng các công nghệ tin vào dạy học, biết định hướng phát triển của HS theo
mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của HS trong hoạt động
nhận thức.[2]

- 16 -


1.2.3.2. Học sinh: Dưới sự chỉ đạo của GV, HS phải dần dần có được
những phẩm chất và năng lực thích ứng với PP dạy học tích cực như: giác ngộ
mục đích học tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách nhiệm về kết quả học
tập của mình và kết quả chung của lớp, biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi,
mọi lúc, bằng mọi cách, phát triển các loại hình tư duy biện chứng, lơgíc, hình
tượng, tư duy kĩ thuật, tư duy kinh tế…[2]
1.2.3.3. Chương trình và sách giáo khoa: Phải giảm bớt khối lượng kiến
thức nhồi nhét, tạo điều kiện cho thầy trò tổ chức những hoạt động học tập
tích cực; giảm bớt những thông tin buộc HS phải thừa nhận và ghi nhớ máy

móc, tăng cường các bài tốn nhận thức để HS tập giải; giảm bớt những câu
hỏi tái hiện, tăng cường loại câu hỏi phát triển trí thơng minh; giảm bớt những
kết luận áp đặt, tăng cường những gợi ý để HS tự nghiên cứu phát triển bài
học.[2],[18]
1.2.3.4. Thiết bị dạy học
Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được cho việc triển khai
chương trình, SGK nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới PP dạy
học hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của HS. Đáp ứng yêu cầu này
phương tiện thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi cho HS thực hiện các
hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm.
Cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần hỗ trợ đắc lực cho việc tổ chức
dạy học được thay đổi dễ dàng, linh hoạt, phù hợp với dạy học cá thể, dạy học
hợp tác.
Trong quá trình biên soạn SGK, sách GV, các tác giả đã chú ý lựa chọn
danh mục thiết bị và chuẩn bị các thiết bị dạy học theo một số u cầu để có
thể phát huy vai trị của thiết bị dạy học. Những yêu cầu này rất cần được các
cán bộ chỉ đạo quản lý quán triệt và triển khai trong phạm vi mình phụ trách.
Cụ thể như sau:

- 17 -


 Đảm bảo tính đồng bộ, hệ thống, thực tế và đạt chất lượng cao, tạo điều

kiện đẩy mạnh hoạt động của HS trên cơ sở tự giác, tự khám phá kiến
thức thông qua hoạt động thực hành, thâm nhập thực tế trong quá trình
học tập.
 Đảm bảo để nhà trường có thể đạt được thiết bị dạy học ở mức tối

thiểu, đó là những thiết bị thực sự cần thiết không thể thiếu được. Các

nhà thiết kế và sản xuất thiết bị dạy học sẽ quan tâm để có giá thành
hợp lý với chất lượng đảm bảo.
 Chú trọng thiết bị thực hành giúp HS tự tiến hành các bài thực hành thí

nghiệm. Những thiết bị đơn giản có thể được GV, HS tự làm góp phần
làm phong phú thêm thiết bị dạy học của nhà trường. Công việc này rất
cần được quan tâm và chỉ đạo của lãnh đạo trường, sở.
 Đối với những thiết bị dạy học đắt tiền sẽ được sử dụng chung. Nhà

trường cần lưu ý tới các hướng dẫn sử dụng, bảo quản và căn cứ vào
điều kiện cụ thể của trường đề ra các quy định để thiết bị được GV, HS
sử dụng tối đa.
Cần tính tới việc thiết kế đối với trường mới và bổ sung đối với trường
cũ phòng học bộ mơn, phịng học đa năng và kho chứa thiết bị bên cạnh các
phịng học bộ mơn.[2],[10],[11]
1.2.3.5. Đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh
Đánh giá là một khâu quan trọng khơng thể thiếu được trong qúa trình
giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo
dục và sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu
cầu cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một qúa trình giáo dục.
Đánh giá kết quả học tập là q trình thu thập và xử lý thơng tin về trình
độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của HS về tác động và ngun nhân
của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của GV và
nhà trường cho bản thân HS để HS học tập ngày một tiến bộ hơn.

- 18 -


Đổi mới PP dạy học được chú trọng để đáp ứng những yêu cầu mới của
mục tiêu nên việc kiểm tra, đánh giá phải chuyển biến mạnh theo hướng phát

triển trí thơng minh sáng tạo của HS, khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến
thức kĩ năng đã học vào những tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc,
thái độ của HS trước những vấn đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và
cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra, đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo học tập
thụ động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực.
Thống nhất với quan điểm đổi mới đánh giá như trên việc kiểm tra, đánh
giá sẽ hướng vào việc bám sát mục tiêu của từng bài, từng chương và mục
tiêu giáo dục của môn học ở từng lớp cấp. Các câu hỏi BT sẽ đo được mức độ
thực hiện các mục tiêu được xác định.
- Hướng tới yêu cầu kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan kết quả
học tập của HS, bộ công cụ đánh giá sẽ được bổ sung các hình thức đánh giá
khác như đưa thêm dạng câu hỏi, BT trắc nghiệm; chú ý hơn tới đánh giá cả
quá trình lĩnh hội tri thức của HS, quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực,
chủ động của HS trong từng tiết học, kể cả ở tiết tiếp thu tri thức mới lẫn tiết
thực hành, thí nghiệm. Điều này địi hỏi GV bộ mơn đầu tư nhiều công sức
hơn cũng như công tâm hơn. Lãnh đạo nhà trường cần quan tâm và giám sát
hoạt động này.
- Hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá cũng cần thể hiện sự phân hóa, đảm
bảo 70% câu hỏi BT đo được mức độ đạt trình độ chuẩn - mặt bằng về nội
dung học vấn dành cho mọi HS và 30% còn lại phản ánh mức độ nâng cao,
dành cho HS có năng lực trí tuệ và thực hành cao hơn.
1.2.3.6. Trách nhiệm quản lý: Hiệu trưởng chịu trách nhiệm trực tiếp về
việc đổi mới PP dạy học ở trường mình, đặt vấn đề này ở tầm quan trọng
đúng mức trong sự phối hợp các hoạt động toàn diện của nhà trường. Hiệu
trưởng cần trân trọng, ủng hộ, khuyến khích mỗi sáng kiến, cải tiến dù nhỏ
của GV, đồng thời cũng cần biết hướng dẫn, giúp đỡ GV vận dụng các PP dạy

- 19 -



học tích cực thích hợp với mơn học, đặc điểm HS, điều kiện dạy và học ở địa
phương, làm cho phong trào đổi mới PP dạy học ngày càng rộng rãi, thường
xuyên và có hiệu quả hơn.
Hãy phấn đấu để trong mỗi tiết học ở trường phổ thông, HS được hoạt
động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là
được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. [2],
[10],[24],[25]
1.3. Một số phương pháp dạy học tích cực ở trường trung học phổ thông
Như chúng ta đã biết, mỗi một PP dạy học dù cổ điển hay hiện đại đều
nhấn mạnh lên một khía cạnh nào đó của cơ chế dạy - học hoặc nhấn mạnh
lên mặt nào đó thuộc về vai trò của người thầy. Nhưng cho dù các PP thể hiện
hiệu quả như thế nào thì nó vẫn tồn tại một vài khía cạnh mà người học và
người dạy chưa khai thác hết. Chính vì thế mà khơng có một PP dạy học nào
được cho là lý tưởng. Mỗi một PP đều có ưu điểm của nó do vậy người thầy
nên xây dựng cho mình một PP riêng phù hợp với mục tiêu, bản chất của vấn
đề cần trao đổi, phù hợp với thành phần nhóm lớp học, các nguồn lực, cơng
cụ dạy-học sẵn có và cuối cùng là phù hợp với sở thích của mình.
1.3.1. Phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề.
1.3.1.1. Bản chất
PP dạy học nêu và giải quyết vấn đề là PP dạy học mà GV đặt ra trước HS
một (hay hệ thống) vấn đề nhận thức, sau đó GV phối hợp cùng HS, hoặc
hướng dẫn, điều khiển HS giải quyết vấn đề và đi đến những kết luận. GV lôi
cuốn HS một cách có hệ thống vào q trình tìm tịi giải quyết có chứng minh
những vấn đề mới với các em, nhờ đó mà HS học được cách tự lực giành lấy
kiến thức, áp dụng kiến thức đã lĩnh hội và nắm vững tri thức.[12],[21]
1.3.1.2. Cấu trúc

- 20 -



Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo PP nêu và giải quyết
vấn đề:
1. Nêu vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức: GV trao cho HS một nhiệm
vụ học tập có tiềm ẩn vấn đề. HS phát hiện, nhận dạng và có nhu cầu,
hứng thú giải quyết vấn đề đó. Vấn đề được GV đưa ra phải chứa đựng
yếu tố bất ngờ, nhằm kích thích tính tị mị, gây sự ngạc nhiên vốn có ở
HS. Ngồi ra, những khó khăn trong tình huống phải vừa sức, nhằm tạo
cho HS sự căng thẳng nhưng đồng thời cũng gây cho các em niềm tin
có thể giải quyết được.
2. Giải quyết vấn đề đặt ra: GV dẫn dắt HS vào con đường tự lực tìm
kiếm kiến thức, HS phải độc lập làm việc để vượt qua khó khăn, khi
cần thiết thì GV có sự giúp đỡ hợp lý. Trong đó, dưới sự tổ chức,
hướng dẫn của GV, HS cùng thực hiện hai nhiệm vụ: đề xuất giả thuyết
và kiểm tra giả thuyết. Việc đề xuất giả thuyết có thể dựa trên những
suy luận logic qua những quá trình đã ghi nhận kết hợp với những kinh
nghiệm của bản thân. Cịn việc kiểm tra giả thuyết nhất định phải thơng
qua thí nghiệm hoặc qua thực tiễn. Trước một vấn đề có thể HS sẽ nêu
ra nhiều giả thuyết khác nhau, vì vậy GV cần phân tích và cùng HS
thảo luận để lựa chọn các giả thuyết một cách logic và hợp lý nhất.
3. Kết luận và vận dụng tri thức: GV và HS cùng thảo luận, đánh giá kết
quả thu được qua việc giải quyết vấn đề. Vai trò của GV là bổ sung,
chính xác hóa và thể chế hóa tri thức mới, cịn HS chính thức ghi nhận
tri thức mới và vận dụng chúng. Ở đây GV cần tổ chức cho HS vận
dụng tri thức thu nhận vào những tình huống mới, nêu vấn đề mới có
liên quan đến tri thức vừa mới xây dựng nhằm phát huy tính sáng tạo,
tinh thần tìm tịi của HS.[15],[21],[26]

- 21 -



1.3.1.3 Chu trình - cách thức tổ chức dạy học nêu và giải quyết vấn đề.
Trong chu trình học tập theo PP này, thời gian làm việc độc lập (cá nhân)
ln ln phiên với thời gian làm việc trong nhóm, có sự giúp đỡ GV.
Cơng việc cần thảo luận theo nhóm thường xuất hiện vào hai thời điểm
đặc biệt được miêu tả trong chu trình dưới đây:

Thảo luận
trong nhóm

1

2
Làm việc
độc lập

Làm việc
độc lập

4

2

Thảo luận
trong nhóm

3

Hình 2.1 : Chu trình tổ chức dạy học nêu và giải quyết vấn đề
Như vậy chu trình của PP dạy học nêu và giải quyết vấn đề gồm 4 giai đoạn:
Sau khi kết thúc giai đoạn 1 (Giới thiệu vấn đề, chuẩn bị các hoạt động

và nguồn lực cần thiết), HS bắt đầu nhóm họp theo các nhóm nhỏ - giai
đoạn 2 (có hoặc khơng sự trợ giúp của GV) nhằm phân tích vấn đề, đưa ra
các câu hỏi và giả thiết đầu tiên, phân chia nhiệm vụ cho các thành viên
nhóm. Tiếp theo đó các thành viên làm việc độc lập theo nhiệm vụ đã được
phân chia (giai đoạn 3). Kết thúc giai đoạn 3, từng cá nhân sẽ giới thiệu
thành quả làm việc trong nhóm. Cuối cùng mỗi cá nhân tự viết một bản báo
cáo (giai đoạn 4). Kèm theo các giai đoạn này thường là các hoạt động thực
tế hay tiến hành thí nghiệm. Có thể kết thúc q trình tại giai đoạn này hoặc
tiếp tục quá trình nếu một vấn đề mới được nêu ra.[26]

- 22 -


Việc thảo luận trong nhóm là bắt buộc đối với tất cả các cá nhân, nó
khơng những giúp HS phát triển được khả năng giao tiếp và các kỹ năng xã
hội mà cịn phát triển được q trình nhận thức (đọc hiểu, phân tích, đánh
giá,…)
1.3.1.4. Các mức độ của phương pháp nêu và giải quyết vấn đề
Có thể phân biệt bốn mức trình độ nêu và giải quyết vấn đề:
 Mức 1: GV nêu vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. HS thực hiện cách

giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của GV. GV đánh giá kết quả làm việc
của HS.
 Mức 2: GV nêu vấn đề, gợi ý để HS tìm ra cách giải quyết vấn đề. HS

thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của GV khi cần. GV và
HS cùng đánh giá.
 Mức 3: GV cung cấp thơng tin tạo tình huống có vấn đề. HS phát hiện và

xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp.

HS thực hiện cách giải quyết vấn đề. GV và HS cùng đánh giá.
 Mức 4 : HS tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình

hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. HS giải quyết vấn đề, tự
đánh giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của GV khi kết thúc.
[12],[15],[21]
Bảng 2.1 : Các mức độ của phương pháp nêu và giải quyết vấn đề

Các
mức
độ

Nêu vấn đề

Nêu giả
thuyết

Lập kế
hoạch

1
2
3
4

GV
GV
GV + HS
HS


GV
GV
HS
HS

GV
HS
HS
HS

- 23 -

Giải quyết
Kết luận, đánh giá
vấn đề
HS
HS
HS
HS

GV
GV + HS
GV + HS
GV + HS


1.3.1.5. Các kiểu tình huống nêu vấn đề
PP dạy học nêu và giải quyết vấn đề thực sự có hiệu quả trước tiên GV
cần đưa ra cho HS tình huống nêu vấn đề, làm cho HS nhận ra vấn đề và có
nhu cầu, hứng thú muốn giải quyết vấn đề đó. Từ đó, HS sẽ cố gắng, nỗ lực

trong học tập và nhận thức.
a. Tình huống nghịch lý và tình huống không phù hợp: GV đưa ra một
vấn đề ngược với dự đốn của HS, ngược với quan niện thơng thường
trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của HS. Tình huống trái với những
kiến thức đã học, HS sẽ thấy vô lý là không thể tin được, lúc này sẽ
xuất hiện trạng thái xung đột tâm lý, gây thắc mắc nhận thức. Do đó,
rất muốn giải đáp, tìm ngun nhân và hứng thú trong học tập.
b. Tình huống lựa chọn và tình huống bác bỏ: GV làm xuất hiện tình
huống chứa đựng nhiều giải pháp hoặc nhiều đáp án, yêu cầu HS phải
bác bỏ một hoặc một số đáp án, chỉ được chọn một hoặc một số cái còn
lại. Do đó, địi hỏi HS phải cân nhắc lựa chọn để giải quyết được vấn
đề được đặt ra.
c. Tình huống gây ra sự xung đột: GV đưa ra vấn đề mà sẽ xuất hiện và
được chấp nhận khi có những kết quả hoặc những sự giải thích trái
ngược nhau, đối lập nhau về cùng một sự kiện, một hiện tượng nào đó.
HS tham gia nghiên cứu và bằng những luận cứ xác đáng để công nhận
một kết quả, một lý thuyết đúng đắn phản ánh sự việc trên.
d. Tình huống ứng dụng kiến thức vào thực tiễn: Tình huống nêu vấn đề
theo dạng này được tạo nên khi gặp những sự kiện, hiện tượng trong
thực tiễn liên quan đến việc vận dụng tri thức. Những sự vật hiện tượng
mà HS quan sát đượng hàng ngày, HS đã có kinh nghiệm nhưng chưa
hiểu thấu đáo.[12],[25]

- 24 -


1.3.1.6. Ưu điểm và nhược điểm của PP nêu và giải quyết vấn đề
a) Ưu điểm
- HS có thể thu được những kiến thức tốt nhất, cập nhật nhất.
- Có thể bao phủ được trên một diện rộng các trường hợp và các bối cảnh

thường gặp. Tính chủ động, tinh thần tự giác của HS được nâng cao.
Gây cho HS hứng thú trong học tập. Động cơ học tập và tinh thần trách
nhiệm của HS được nâng cao.
-

Việc nghiên cứu và giải quyết vấn đề ngày càng được bảo đảm. Có khả
năng giúp cho HS thu được kinh nghiệm sáng tạo, phát huy được năng
lực tư duy độc lập ở mức độ đáng kể, bồi dưỡng được tiềm lực thích
ứng với nghề nghiệp tương lai.

- Giúp HS nắm tri thức và hành động trí tuệ một cách vững chắc, sâu
sắc. Bồi dưỡng được phẩm chất và tác phong làm việc của nhà nghiên
cứu khoa học
b) Nhược điểm
- Đòi hỏi nhiều thời gian và không phải lúc nào cũng áp dụng được.
- Có thể dẫn đến tình trạng lạm dụng cũng như tình trạng khơng đảm
bảo cho mọi HS cùng vươn lên tương đối đồng đều, do có sự phân hố
trình độ mà khơng có sự cá biệt hố.
- Thích hợp với một số nội dung dạy học nhất định, tốn nhiều thời gian
và cơng sức.
Tóm lại, trong dạy học theo PP nêu và giải quyết vấn đề, HS vừa nắm
được tri thức mới, vừa nắm được PP lĩnh hội tri thức đó, phát triển tư duy tích
cực, sáng tạo, được chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống xã hội, phát
hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh.
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh
gay gắt và khoa học cơng nghệ ngày càng phát triển thì phát hiện sớm và giải
quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo

- 25 -



×