Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 63 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
----------

PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ HÌNH THÀNH
TÍN HIỆU CỦA BÁO CÁO ADR TỪ CÁC
DOANH NGHIỆP KINH DOANH DƯỢC
PHẨM TRONG GIAI ĐOẠN 2010 – 2019

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ

Hà Nội - 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
----------

NGUYỄN ĐĂNG THÁI HỒNG

PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ HÌNH THÀNH
TÍN HIỆU CỦA BÁO CÁO ADR TỪ CÁC
DOANH NGHIỆP KINH DOANH DƯỢC
PHẨM TRONG GIAI ĐOẠN 2010 - 2019
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ
(NGÀNH DƯỢC HỌC)

Khóa: QH.2016.Y
Người hướng dẫn: PGS.TS. Hà Văn Thúy
ThS. Cao Thị Thu Huyền


Hà Nội - 2021


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn đến ThS. Cao Thị Thu Huyền, người đã luôn
sát cánh cùng tôi, giúp đỡ và định hướng cho tôi trong suốt quá trình làm việc tại
Trung tâm DI & ADR Quốc gia.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS. Hà Văn Thúy và ThS. Bùi Thị
Xuân – Giảng viên Bộ môn Quản lý & Kinh tế Dược – Trường Đại học Y dược đã
giúp tôi giải quyết những khó khăn trong q trình thực hiện khóa luận.
Tơi xin trân trọng cảm ơn ThS. Vũ Đức Hoàn và ThS. Nguyễn Vĩnh Nam, đã
tận tình giải đáp những thắc mắc, khó khăn của tơi để tơi có thể hồn thiện khóa luận
của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh – Giám đốc Trung
tâm DI & ADR Quốc gia đã cho tơi nhiều góp ý q báu giúp tơi hồn thành khóa
luận.
Tơi xin trân trọng cảm ơn DS. Nguyễn Hoàng Anh, DS. Nguyễn Thị Vân Anh
– Chuyên viên Trung tâm DI & ADR Quốc gia và các cán bộ nhân viên tại Trung tâm
DI & ADR Quốc gia, tơi sẽ khơng thể hồn thành khóa luận này nếu khơng có sự
giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị ngay từ những bước đầu tiên thực hiện đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến tập thể các thầy cô giáo ở Trường Đại học Y Dược
– Đại học Quốc gia Hà Nội, những người đã tâm huyết dạy dỗ, truyền đạt cho tôi
những kiến thức, kỹ năng trong học tập và nghiên cứu.
Sau cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè và người thân
đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình làm khóa luận, là chỗ dựa để tơi tiếp
tục phấn đấu trong công việc và học tập.
Hà Nội, ngày 21 tháng 5 năm 2021
Sinh viên

Nguyễn Đăng Thái Hoàng



MỤC LỤC
DANH SÁCH BẢNG ...................................................................................................
DANH SÁCH HÌNH.....................................................................................................
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT .....................................................................
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................. 1
PHẦN 1. TỔNG QUAN ............................................................................................. 3
I. Khái quát về Cảnh giác Dược: ............................................................................. 3
1.1. Một số thuật ngữ về Cảnh giác Dược: ........................................................... 3
1.2. Tầm quan trọng của hoạt động theo dõi và giám sát phản ứng có hại của
thuốc (ADR): ........................................................................................................... 4
1.3. Hoạt động cảnh giác dược ở Việt Nam: ........................................................ 5
II. Ví trí, vai trị của Doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong hệ thống Cảnh
giác Dược: ................................................................................................................... 8
2.1. Doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm: .......................................................... 8
2.2. Trách nhiệm của DNKDDP trong hệ thống Cảnh giác dược: ....................... 8
III. Các quy định hiện hành liên quan đến hoạt động báo cáo ADR của các
DNDKDP tại Việt Nam: ............................................................................................. 9
3.1. Báo cáo an toàn thuốc đơn lẻ xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam: ....................... 9
3.2. Báo cáo an toàn thuốc định kỳ: ................................................................... 11
IV. Phát hiện tín hiệu thuốc – ADR và điểm thay đổi về số lượng trong cơ sở dữ
liệu DNKDDP: .......................................................................................................... 11
4.1. Định nghĩa quản lý tín hiệu an tồn thuốc:.................................................. 11
4.2. Các phương pháp phát hiện tín hiệu thuốc ADR: ....................................... 13
V. Hoạt động nghiên cứu đã tiến hành trên dữ liệu báo cáo ADR từ DNKDDP trên
thế giới và tại Việt Nam: ........................................................................................... 14
PHẦN 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............................. 17
I. Đối tượng nghiên cứu: ........................................................................................ 17
II. Địa điểm nghiên cứu: ......................................................................................... 17

III. Phương pháp nghiên cứu: ................................................................................... 17
3.1. Thiết kế nghiên cứu: .................................................................................... 17
3.2. Thu thập số liệu: .......................................................................................... 17
3.3. Tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ: ................................................ 17
3.4. Phương pháp nghiên cứu: ............................................................................ 17
3.5. Xử lí số liệu: ................................................................................................ 18
IV. Nội dung nghiên cứu và các chỉ số nghiên cứu: ............................................. 18
4.1. Mục tiêu 1: Mô tả đặc điểm và xu hướng của báo cáo ADR của các Doanh


nghiệp Kinh doanh Dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019: ............................. 18
4.2. Mục tiêu 2: Phân tích sự hình thành tín hiệu trong dữ liệu về báo cáo ADR
của các Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019: ..... 20
PHẦN 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................................... 21
I. Mô tả đặc điểm và xu hướng của báo cáo ADR của các Doanh nghiệp Kinh
doanh Dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019: ...................................................... 21
1. Số lượng và xu hướng báo cáo ADR của DNKDDP trong giai đoạn 2010 –
2019: ...................................................................................................................... 21
2. Cơ cấu báo cáo ADR của DNKDDP giai đoạn 2010 – 2019: ........................ 23
II. Phân tích sự hình thành tín hiệu trong dữ liệu về báo cáo ADR của các Doanh
nghiệp Kinh doanh Dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019: ................................. 31
1. Tín hiệu ROR của cặp thuốc - AE trong giai đoạn 2010 – 2019: ................... 31
2. Tín hiệu ROR của cặp thuốc – sử dụng thuốc ngoài chỉ định được phê duyệt
trong giai đoạn 2010 – 2019: ................................................................................. 33
PHẦN 4. BÀN LUẬN .............................................................................................. 34
I. Đặc điểm và xu hướng của hệ thống báo cáo ADR của DNKDDP: .................. 34
1. Số lượng và tỷ trọng báo cáo ADR: ................................................................ 34
2. Điểm thay đổi trong số lượng báo cáo: ........................................................... 35
II. Cơ cấu của hệ thống báo cáo ADR của DNKDDP: ........................................... 36
1. Cơ cấu doanh nghiệp tham gia báo cáo: ......................................................... 36

2. Cơ cấu về mức độ nghiêm trọng của báo cáo: ................................................ 37
III. Đóng góp của hệ thống báo cáo ADR của DNKDDP: ...................................... 38
1. Tỷ trọng thuốc nghi ngờ: ................................................................................ 38
2. Tỷ trọng AE được báo cáo: ............................................................................. 39
3. Tín hiệu phát hiện trong dữ liệu về cặp thuốc – AE: ...................................... 40
IV. Ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu: .............................................................. 43
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ...................................................................... 44
I. Kết luận: ............................................................................................................. 44
1. Mô tả đặc điểm và xu hướng của báo cáo ADR của các Doanh nghiệp Kinh
doanh Dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019 ................................................... 44
2. Phân tích sự hình thành tín hiệu trong dữ liệu về báo cáo ADR của các Doanh
nghiệp Kinh doanh Dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019. ............................. 45
II. Đề xuất: .............................................................................................................. 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 46


DANH SÁCH BẢNG
Bảng 3.1: Số lượng và tỷ trọng báo cáo ADR hàng năm của DNKDDP trong tổng
số báo cáo giai đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.2: Các Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm có số lượng báo cáo nhiều
nhất trong giai đoạn 2010 - 2019
Bảng 3.3: Mức độ nghiêm trọng của các biến cố bất lợi được ghi nhận trong giai
đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.4: Các nhóm dược lý được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 - 2019
Bảng 3.5: Các họ dược lý (ATC bậc 4) được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn
2010 – 2019
Bảng 3.6: Các hoạt chất được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.7: Số lượng ADR phân loại theo hệ cơ quan chịu ảnh hưởng (Mã SOC) giai
đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.8: Cặp thuốc – Biến cố bất lợi có số lượng báo cáo nhiều nhất trong giai

đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.9: ROR của các cặp Thuốc – AE được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn
2014 – 2019
Bảng 3.10: ROR của các cặp Thuốc – dùng thuốc ngoài chỉ định được phê duyệt
trong giai đoạn 2010 – 2019


DANH SÁCH HÌNH
Hình 1.1: Cơ cấu hệ thống cảnh giác dược tại Việt Nam.
Hình 3.1: Số lượng Doanh nghiệp Dược phẩm tham gia báo cáo và số lượng báo
cáo theo từng năm trong giai đoạn 2010 – 2019
Hình 3.2: Điểm thay đổi về số lượng trong hệ thống báo cáo giai đoạn 2010 – 2019
Hình 3.3. Số lượng và tỷ lệ thuốc được báo cáo bởi nhà sản xuất/phân phối của
thuốc đó trong giai đoạn 2010 – 2019
Hình 3.4: Các biến cố được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 – 2019


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Danh mục viết tắt thơng thường
ADR
AE

Phản ứng có hại của thuốc (Adverse drug reaction)
Biến cố bất lợi (Adverse event)

APEC

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (AsiaPacific Economic Cooperation)

ATC


Hệ thống phân loại giải phẫu – điều trị - hóa học (Anatomical
Therapeutic Chemical)

CIOMS

Hội đồng các tổ chức quốc tế về khoa học y học (The Council
for International Organizations of Medical Sciences)

CSKCB

Cơ sở khám chữa bệnh

DAV
DKKDDP

Cục quản lí Dược (Drug administration of Vietnam)
Doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm

DRPs

Các vấn đề liên quan đến sử dụng thuốc (Drug related problems)

ICH

Hội nghị hòa hợp Quốc tế (International Conference on
Harmonisation)

FDA


Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (Food and Drug
Administration

KNT

Khơng nghiêm trọng

KTT

Khơng có thông tin

MedDRA
NSX

Medical Dictionary for Regulatory Activities
Nhà sản xuất

OLDU

Sử dụng thuốc ngoài nhãn (Off-label drug use)

PBRER

Báo cáo đánh giá định kỳ về hiệu quả và tính an tồn của thuốc
(Periodic Benefit Risk Evaluation Report)

PRR

Proportional Reporting Ratio


PSUR

Báo cáo định kỳ về tính an toàn của thuốc (Periodic Safety
Update Report)

PT

Preferred terms

ROR

Reporting Odds Ratio

SIDA

Dự án hỗ trợ hệ thống quản lý Dược (Swedish International
Development Cooperation Agency)

SOC

System organ class


STT

Số thứ tự

TEC

Ủy ban chuyên gia kỹ thuật (Technical Expert Committee)


TT

Trung tâm

UMC

Trung tâm giám sát thuốc toàn cầu Uppsala (Uppsala
Monitoring Centre) của Tổ chức Y tế Thế giới

WHO

Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization)

Danh mục viết tắt mã ATC
A

Thuốc dùng cho đường tiêu hóa và chuyển hóa (Alimentary
tract & metabolism)

B

Thuốc dùng cho máu và cơ quan tạo máu (Blood & blood
forming organs)

C

Thuốc tim mạch (Cardiovascular system)

D


Chế phẩm dùng cho da (Dermatologicals)

G

Thuốc trên hệ sinh dục tiết niệu và các hormon sinh dục (Genito
urinary system & sex hormones)

H

Các chế phẩm hormon dùng đường toàn thân, trừ hormon sinh
dục và insulin (Systemic hormonal preparations)

J

Kháng khuẩn dùng toàn thân (Anti-infectives for systemic use)

L

Thuốc chống ung thư và điều hòa miễn dịch (Antineoplastic &
immunomudolating agents)

M

Thuốc dùng cho hệ cơ - xương (Musculo-sketal system)

N

Thuốc trên hệ thần kinh (Nervous system)


P

Thuốc kháng ký sinh trùng và côn trùng (Antiparasitic products)

R

Thuốc dùng trên hệ hô hấp (Respiratory system)

S

Thuốc tác động lên cơ quan cảm thụ (Sensory organs)

u

Không rõ (Unknown)

V

Các thuốc khác (Various)


ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các tiến bộ khoa học công nghệ, ngành
công nghiệp dược phẩm đã và đang không ngừng cho ra đời rất nhiều thuốc mới nhằm
nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Theo nghiên cứu của J.P. Morgan trong hai
thập kỷ vừa qua, trung bình Cơ quan quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ
(FDA) đã phê duyệt 20 loại thuốc mới mỗi năm [54]. Bên cạnh những hiệu quả điều
trị của thuốc mới, phản ứng có hại của thuốc (ADR) là một vấn đề cần thời gian dài
để phân tích, đánh giá. Khoảng 5% tổng số ca nhập viện là hậu quả của ADR và
khoảng 10% - 20% bệnh nhân nội trú được ghi nhận gặp ít nhất một ADR trong thời

gian nằm viện. Mặc dù đa số ADR ở mức độ nhẹ, khơng cần can thiệp y khoa, nhưng
có một tỷ lệ nhất định (0,1% - 0,3% bệnh nhân nhập viện) xảy ra ở mức độ nghiêm
trọng thậm chí có thể gây tử vong cho người bệnh [14]. Trong lĩnh vực Cảnh giác
Dược, có nhiều phương pháp khác nhau để thu thập thơng tin về an tồn thuốc, hướng
tới quản lý và phịng tránh các ADR, trong đó, báo cáo ADR là cách tiếp cận cơ bản
nhất, góp phần phát hiện, phân tích và đánh giá kịp thời các tín hiệu an tồn thuốc,
đảm bảo sử dụng thuốc an toàn, hợp lý [53], [56].
Trong các thử nghiệm lâm sàng thuốc trước khi đưa ra thị trường, số lượng bệnh
nhân được tuyển chọn thường rất nhỏ so với lượng bệnh nhân sẽ sử dụng thuốc sau
khi thuốc được phép lưu hành. Mặt khác các thử nghiệm lâm sàng với tiêu chuẩn lựa
chọn và loại trừ chặt chẽ thường không đánh giá trên các đối tượng bệnh nhân đặc
biệt như người già, trẻ em, phụ nữ có thai, bệnh nhân suy gan, suy thận [21]. Điều đó
cho thấy những thơng tin về độ an toàn của một thuốc thu được từ các thử nghiệm
lâm sàng là rất hạn chế, đặc biệt là thông tin về các phản ứng hiếm gặp. Do vậy, thơng
tin giám sát an tồn sau khi thuốc được cấp phép lưu hành về các phản ứng có hại của
thuốc sẽ vơ cùng hữu ích để tiếp tục đánh giá một cách toàn diện hơn về các nguy cơ
tiềm ẩn, từ đó cân bằng lợi ích/nguy cơ của thuốc.
Trong hệ thống Cảnh giác Dược, các đối tác chính tham gia báo cáo ADR gồm
có các cơ sở khám, chữa bệnh, doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm và người bệnh
[57]. Tại Việt Nam, do chưa có cơ sở pháp lý để người bệnh báo cáo các ADR, đối
tượng báo cáo chính vẫn là nhân viên y tế tại các cơ sở khám, chữa bệnh và các doanh
nghiệp kinh doanh dược phẩm. Mặc dù vậy, số lượng báo cáo ADR giữa cơ sở khám
chữa bệnh và doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm vẫn có sự chênh lệch đáng kể.
Thống kê của Trung tâm Quốc gia về thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của

1


thuốc tháng 1/2020, cho thấy số lượng báo cáo ADR gửi từ các đơn vị kinh doanh
thuốc thấp hơn rất nhiều so với từ cơ sở khám, chữa bệnh. Trong giai đoạn 2012 –

2015, số lượng báo cáo từ các DNKDDP là 1777 báo cáo, chỉ chiếm 6,57% trong đó
tổng số lượng báo cáo được gửi đến Trung tâm [4].
Kể từ khi Trung tâm Quốc gia về thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại
của thuốc (Trung tâm DI & ADR Quốc gia) được thành lập vào năm 2009, một số
nghiên cứu về hoạt động báo cáo ADR của cơ sở khám, chữa bệnh đã được thực hiện
[6, 7]. Trong khi đó, các nghiên cứu phân tích hoạt động báo cáo ADR của các doanh
nghiệp kinh doanh dược phẩm (DNKDDP) còn rất hạn chế. Ngày 01/6/2015, Hướng
dẫn Quốc gia về Cảnh giác dược được Bộ Y tế được ban hành kèm Quyết định số
2111/QĐ-BYT là dấu mốc quan trọng đối với thực hành Cảnh giác Dược tại Việt
Nam. Đặc biệt, trong hướng dẫn này, vị trí, vai trị và chức năng của doanh nghiệp
kinh doanh dược phẩm trong hệ thống đã được mô tả rõ ràng [9].
Trong bối cảnh đó, đề tài “Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của
báo cáo ADR từ doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 2019” được thực hiện với mục tiêu:
Mục tiêu 1: Mô tả đặc điểm và xu hướng của báo cáo ADR của các Doanh
nghiệp Kinh doanh Dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019.
Mục tiêu 2: Phân tích sự hình thành tín hiệu trong dữ liệu về báo cáo ADR của
các Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019.

2


PHẦN 1. TỔNG QUAN
I. Khái quát về Cảnh giác Dược:
1.1. Một số thuật ngữ về Cảnh giác Dược:
1.1.1. Cảnh giác Dược:
Theo định nghĩa của Tổ chức y tế thế giới (WHO), Cảnh giác Dược
(Pharmacovigilance) là: “Môn khoa học và những hoạt động liên quan đến việc phát
hiện, đánh giá, hiểu và phịng tránh tác dụng có hại hoặc bất kỳ một vấn đề nào khác
liên quan đến thuốc” [30, 37].
Nhìn chung, hoạt động Cảnh giác Dược tập trung vào các mục tiêu chính sau

đây [45]:
➢ Cải thiện sự an tồn của bệnh nhân và tăng cường sự chăm sóc trong việc sử
dụng thuốc, bao gồm các can thiệp y tế.
➢ Cải thiện sức khỏe cộng đồng và an toàn liên quan đến việc sử dụng thuốc.
➢ Hỗ trợ các chương trình y tế cơng cộng thơng qua cung cấp thơng tin đáng
tin cậy để đánh giá hiệu quả hồ sơ lợi ích rủi ro của thuốc.
➢ Góp phần đánh giá lợi ích, cơng dụng, tác dụng khơng mong muốn, hiệu quả
và nguy cơ của thuốc.
➢ Khuyến khích sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả (bao gồm cả chi phí
hiệu quả).
➢ Thúc đẩy giáo dục, hiểu biết và đào tạo lâm sàng về Cảnh giác Dược.
1.1.2. Biến cố bất lợi (AE) và phản ứng có hại của thuốc (ADR):
Biến cố bất lợi là sự việc hoặc tình trạng y khoa bao gồm bất kỳ dấu hiệu, triệu
chứng, tình trạng bệnh tật hoặc kết quả xét nghiệm có chiều hướng xấu xảy ra trong
quá trình, thời gian thử thuốc trên lâm sàng ảnh hưởng đến người tham gia thử thuốc
trên lâm sàng, có hoặc khơng có liên quan đến thuốc thử lâm sàng [3].
Theo Luật Dược (2016), phản ứng có hại của thuốc (ADR) là những phản ứng
khơng mong muốn có hại đến sức khỏe, có thể xuất hiện ở liều dùng bình thường.
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), “ADR là một phản ứng độc hại,
không được định trước và xuất hiện ở liều thường dùng cho người để phịng bệnh,
chẩn đốn bệnh hoặc chữa bệnh, hoặc làm thay đổi một chức năng sinh lý”. Định
nghĩa này không bao gồm những phản ứng do dùng sai thuốc, dùng sai liều, dùng liều

3


cao, có chủ định hoặc vơ tình [16].
Phân loại: Có thể phân loại ADR theo nhiều cách nhưng 2 cách sau đây hay
được sử dụng nhất:
➢ Theo tần suất gặp: Theo cách phân loại này, một phản ứng có hại có thể xếp

vào một trong các mục sau: Rất thường gặp: ADR >1/10; Thường gặp: ADR
> 1/100; Ít gặp: 1/1 000 < ADR < 1/100; Hiếm gặp: ADR < 1/1 000; Rất
hiếm gặp: ADR < 1/10 000.
➢ Theo typ: Có 2 typ chính là A và B
Typ A: Typ A có đặc tính phụ thuộc liều dùng, thường gặp đối với các thuốc
có phạm vi điều trị hẹp và các biểu hiện của ADR có liên quan đến tác dụng dược lý
của thuốc nhưng cường độ vượt quá mức cần thiết.
Typ B: Typ B có đặc tính khơng phụ thuộc liều, khơng liên quan đến các đặc
tính dược lý đã biết của thuốc mà liên quan tới các yếu tố di truyền hoặc miễn dịch,
có tính chất đặc ứng và thường khơng tiên đốn được. [2]
1.2. Tầm quan trọng của hoạt động theo dõi và giám sát phản ứng có hại của thuốc
(ADR):
ADR đã và đang được nhìn nhận là một vấn đề nghiêm trọng, gây ảnh hưởng
tới chất lượng chăm sóc sức khỏe của người bệnh. Ước tính cho thấy ADR là nguyên
nhân gây tử vong thứ tư ở Hoa Kỳ và Canada sau các bệnh lý tim mạch, ung thư và
đột quỵ. Phân tích tổng hợp gần đây ước tính rằng hơn 180.000 người Mỹ có khả
năng tử vong do ADR và hơn một triệu người có khả năng tổn thương liên quan đến
ADR [35], tác động đến khoảng 2,4-30% người bệnh trong thời gian điều trị nội trú
[48]. Trung bình, ADR gây kéo dài thời gian nằm viện thêm 1,74 ngày và làm tăng
chi phí điều trị thêm khoảng 2013 US$ [13]. Mặc dù gây ra các gánh nặng nghiêm
trọng về sức khỏe và kinh tế cho người bệnh cũng như hệ thống y tế, thống kê cho
thấy có tới 70% các ADR có thể phịng tránh được [15].
Trong thực hành, để phát hiện các ADR mới và hiếm gặp, báo cáo ADR là
cách tiếp cận cơ bản nhất. Hệ thống báo cáo ADR được xem là nền tảng của thực
hành Cảnh giác dược của mỗi quốc gia. Trung tâm Uppsala Monitoring Centre được
thành lập và đặt tại Uppsala, Thụy Điển vào năm 1978 với tư cách là Trung tâm Hợp
tác của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về Giám sát Thuốc tồn cầu. UMC có nhiệm
vụ triển khai các khía cạnh kỹ thuật và khoa học của mạng lưới Cảnh giác Dược trên
toàn thế giới của WHO..


4


Việc báo cáo đầy đủ tất cả các ADR xuất hiện trong quá trình điều trị là rất
quan trọng. Tuy nhiên, trong các trường hợp sau, báo cáo ADR được xem là tối cần
thiết:
➢ ADR không định trước (unexpected): Bất kỳ một ADR nào, kể cả có thể dự
đốn được bằng kinh nghiệm y khoa hoặc đã được quan sát trước đó trong
một thuốc thuộc cùng nhóm tác dụng dược lý hoặc có cấu trúc hóa học
tương tự, nhưng chưa được chỉ ra trên tờ tóm tắt thơng tin sản phẩm, đều
được phân loại là không định trước [36].
➢ ADR nghiêm trọng (serious adverse drug reaction): Theo Hội nghị đồng
thuận quốc tế chuẩn hoá các yêu cầu đánh giá thuốc trên người ICH, một
ADR sẽ được phân loại là nghiêm trọng nếu thỏa mãn ít nhất một trong
những trường hợp sau đây [36]:


Gây tử vong.



Đe dọa tính mạng.



Địi hỏi người bệnh phải nhập viện hoặc kéo dài thời gian nằm viện.



Gây tàn phế hoặc mất khả năng vĩnh viễn, hoặc những trường hợp tạm

thời nhưng ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống người bệnh .



Gây dị tật hoặc khuyết tật bẩm sinh.



Là một biến cố y khoa quan trọng gây ra nguy hiểm cho người bệnh, có
thể cần can thiệp y khoa để phòng ngừa một trong các hậu quả nêu trên.

1.3. Hoạt động Cảnh giác Dược ở Việt Nam:
Hoạt động liên quan đến Cảnh giác Dược và giám sát tính an tồn của thuốc
đã được triển khai tại Việt Nam từ năm 1994 trong khuôn khổ dự án SIDA “Hỗ trợ
hệ thống quản lý Dược” do Chính phủ Thụy Điển tài trợ. Năm 1999, Việt Nam bắt
đầu gia nhập mạng lưới giám sát thuốc toàn cầu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO
Program for International Drug Monitoring - WHO PIDM) với đầu mối đặt tại Trung
tâm UMC [3].
Năm 2009, sự ra đời của Trung tâm Quốc gia về Thơng tin thuốc và Theo dõi
phản ứng có hại của thuốc đã đánh dấu bước thay đổi quan trọng trong hoạt động
Cảnh giác Dược tại Việt Nam. Năm 2011, Trung tâm khu vực về Thông tin thuốc và
Theo dõi phản ứng có hại của thuốc thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Bệnh viện
Chợ Rẫy đã được thành lập. Những đơn vị chuyên môn này cùng với Cục Quản lý

5


Dược, Cục Quản lý Khám, chữa bệnh, Cục Y tế dự phòng, Cục Quản lý Y, Dược cổ
truyền, Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo và các cơ quan quản lý khác trong ngành


Quốc tế

y tế là đầu mối chính trong hoạt động Thơng tin thuốc và Cảnh giác Dược tại Việt
Nam [3].

Trung tâm WHO – UMC
Phản hồi

Bộ Y Tế

Báo cáo

Quản lý rủi ro
Giao tiếp rủi ro

Quốc gia

Cục quản lý dược Việt Nam

Thẩm định

Tập trung hóa

Khu vực

TT DI & ADR
khu vực

Quản lý cơ sở dữ
liệu khu vực

Báo cáo

Cộng đồng

Cơ sở khám
chữa bệnh

Doanh nghiệp
kinh doanh

Hoạt động quản lý

Đánh giá rủi ro
Phát hiện tín hiệu
Quản lý cơ sở dữ liệu

TT DI & ADR Quốc gia

Báo cáo

Thơng báo an tồn thuốc
Phát hiện chất lượng
Biến cố bất lợi của thuốc
Sai sót trong điều trị

Bệnh nhân

Hình 1.1: Cơ cấu hệ thống cảnh giác dược tại Việt Nam. [55]

1.3.1. Tầm nhìn, sứ mệnh, mục tiêu:

Tầm nhìn:
Phát triển mạng lưới Thơng tin thuốc và Cảnh giác Dược toàn diện, hiệu quả
đáp ứng nhiệm vụ tăng cường an toàn người bệnh và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Sứ mệnh:
Đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý, hiệu quả, an tồn thơng qua giám sát an tồn
thuốc và truyền thông về can thiệp giảm thiểu nguy cơ liên quan đến thuốc trong giai

6


đoạn nghiên cứu phát triển, phê duyệt cấp giấy phép lưu hành cũng như trong giai
đoạn hậu mại của tất cả các thuốc.
Mục tiêu:
➢ Phát hiện và cảnh báo kịp thời những vấn đề bất cập trong sử dụng thuốc.
➢ Góp phần đánh giá hiệu quả, an tồn, lợi ích, nguy cơ liên quan đến thuốc để
đảm bảo lợi ích luôn vượt trội so với nguy cơ khi sử dụng thuốc.
➢ Tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu nguy cơ trong sử dụng thuốc, góp phần tăng
cường sử dụng thuốc hợp lý, hiệu quả, an toàn.
➢ Nâng cao nhận thức của nhân viên y tế và cộng đồng về Thông tin thuốc và
Cảnh giác Dược thông qua giáo dục và truyền thông. [3]
1.3.2. Phạm vi hoạt động và nhiệm vụ:
Phạm vi hoạt động:
Hoạt động Cảnh giác Dược tại Việt Nam hiện nay tập trung vào việc theo dõi
các vấn đề liên quan đến tính an tồn của thuốc, bao gồm thuốc hóa dược, vắc xin,
sinh phẩm dùng trực tiếp trên người, thuốc y học cổ truyền và thuốc có nguồn gốc
dược liệu.
Các vấn đề liên quan đến tính an tồn của thuốc bao gồm phản ứng có hại của
thuốc, sai sót liên quan đến thuốc, nghi ngờ thuốc giả, thuốc không đạt tiêu chuẩn
chất lượng và thông tin liên quan đến thuốc khơng có hoặc khơng đạt hiệu quả điều
trị. Một số vấn đề khác liên quan đến thuốc như tính an tồn khi sử dụng thực phẩm

bảo vệ sức khỏe và thiết bị y tế không nằm trong phạm vi của hướng dẫn này. [3]
Nhiệm vụ:
(1) Thu thập và quản lý các báo cáo về các vấn đề liên quan đến tính an tồn
của thuốc bao gồm: báo cáo phản ứng có hại của thuốc, báo cáo về sai sót liên quan
đến thuốc và báo cáo nghi ngờ thuốc giả, thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng và
thông tin liên quan đến thuốc khơng có hoặc khơng đạt hiệu quả điều trị.
(2) Phối hợp các hoạt động khác liên quan đến thu thập báo cáo về các biến cố
bất lợi của thuốc (từ các thử nghiệm lâm sàng, chương trình tiêm chủng và các chương
trình y tế mục tiêu quốc gia khác) và các hoạt động giám sát chủ động về biến cố bất
lợi của thuốc.
(3) Phát hiện, thơng báo kịp thời và xử lý tín hiệu về tính an tồn của thuốc

7


(những biến cố bất lợi chưa biết hoặc chưa được mô tả đầy đủ liên quan đến một
thuốc hoặc nhiều thuốc phối hợp).
(4) Cung cấp thông tin về các biến cố bất lợi xảy ra liên quan tới chất lượng
thuốc và hỗ trợ công tác quản lý chất lượng thuốc.
(5) Phát hiện và góp phần giảm thiểu các sai sót trong kê đơn, sao chép y lệnh,
cấp phát và sử dụng thuốc.
(6) Đánh giá nguy cơ và quản lý nguy cơ liên quan đến thuốc.
(7) Truyền thơng có hiệu quả các vấn đề an toàn thuốc bao gồm cả việc bác bỏ
những thơng tin sai lệch về tính an tồn của thuốc.
(8) Củng cố và phát triển hoạt động Thông tin thuốc; Cập nhật thơng tin có
được từ mạng lưới Cảnh giác Dược vào các chính sách quốc gia liên quan đến dược
phẩm và các văn bản quy phạm pháp luật, các hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật của
ngành y tế để mang lại lợi ích cho người bệnh và cộng đồng. [3]
II. Ví trí, vai trị của Doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong hệ thống Cảnh
giác Dược:

2.1. Doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm:
DNKDDP bao gồm cơ sở sản xuất và/hoặc xuất khẩu nhập khẩu thuốc, nguyên
liệu làm thuốc; cơ sở kinh doanh dịch vụ bảo quản thuốc, nguyên liệu làm thuốc; cơ
sở bán thuốc, nguyên liệu làm thuốc; cơ sở bán lẻ thuốc bao gồm nhà thuốc, quầy
thuốc, tủ thuốc trạm y tế xã, cơ sở chuyên bán lẻ dược liệu, thuốc dược liệu, thuốc cổ
truyền; cơ sở kinh doanh dịch vụ kiểm nghiệm thuốc, nguyên liệu làm thuốc; cơ sở
kinh doanh dịch vụ thử thuốc trên lâm sàng; cơ sở kinh doanh dịch vụ thử tương
đương sinh học của thuốc; các công ty đăng ký, sản xuất, xuất nhập khẩu, phân phối
thuốc lưu hành tại Việt Nam và các cơng ty nước ngồi có giấy phép hoạt động về
thuốc và nguyên liệu làm thuốc tại Việt Nam [3].
2.2. Trách nhiệm của Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm trong hệ thống Cảnh
giác dược:
Doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm (DNKDDP) có vai trị rất quan trọng
trong hệ thống Cảnh giác dược, thơng qua thực hiện các vai trị [3]:
➢ Tổ chức theo dõi về chất lượng, an toàn, hiệu quả của thuốc khi đưa thuốc ra
lưu hành trên thị trường.

8


➢ Báo cáo và cập nhật thông tin về biến cố bất lợi (và/hoặc phản ứng sau tiêm
chủng) liên quan đến thuốc/sinh phẩm do cơ sở mình sản xuất, đăng ký lưu
hành, pha chế, chế biến và kinh doanh cho Trung tâm Quốc gia và Trung
tâm khu vực về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc theo
quy định hiện hành.
➢ Cập nhật thông tin về chất lượng, an toàn và hiệu quả của thuốc do cơ sở
mình sản xuất, đăng ký lưu hành, pha chế, chế biến và kinh doanh cho Cục
Quản lý Dược trong trường hợp các thông tin này chưa được cập nhật vào
hồ sơ đăng ký thuốc khi thuốc còn đang lưu hành trên thị trường theo quy
định hiện hành.

➢ Trong trường hợp thuốc có Giấy đăng ký lưu hành tại Việt Nam cũng được
lưu hành ở các nước khác, cần cập nhật các thay đổi mới về quản lý thuốc
liên quan đến vấn đề an tồn như thơng tin trên nhãn, giới hạn tiếp cận
thuốc, rút giấy đăng ký lưu hành và thu hồi sản phẩm của cơ quan quản lý
dược phẩm nước ngoài cho Cục Quản lý Dược theo quy định hiện hành.
➢ Xây dựng và triển khai kế hoạch quản lý nguy cơ và giảm thiểu nguy cơ đối
với các thuốc có nguy cơ cao do cơ sở mình sản xuất, đăng ký lưu hành, pha
chế, chế biến và kinh doanh theo các quy định pháp luật hiện hành
➢ Thực hiện các trách nhiệm quy định tại Điều 76, 77, 78 của Luật Dược [5].
III. Các quy định hiện hành liên quan đến hoạt động báo cáo ADR của các Doanh
nghiệp Kinh doanh Dược phẩm tại Việt Nam:
3.1. Báo cáo an toàn thuốc đơn lẻ xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam:
➢ Các trường hợp phải báo cáo [3]:
Tất cả các trường hợp phản ứng có hại của thuốc, sai sót liên quan đến thuốc,
nghi ngờ thuốc giả hoặc thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng, và thuốc không có
hoặc khơng đạt hiệu quả điều trị, xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam liên quan đến thuốc
do cơ sở sản xuất, đăng ký hoặc phân phối.
Yêu cầu của báo cáo [3]:


Báo cáo cần được gửi trong thời gian sớm nhất có thể sau ngày số khơng,
ngay cả khi thơng tin thu được chưa đầy đủ (báo cáo ban đầu). Cần gửi
bổ sung báo cáo nếu thu thập được thêm thơng tin (báo cáo bổ sung).



Báo cáo ban đầu: bao gồm tối đa các thơng tin hiện có, trong đó cần có

9



các thông tin tối thiểu đủ để xác định rõ người bệnh, người báo cáo, phản
ứng xảy ra và thuốc nghi ngờ.


Báo cáo bổ sung: cập nhật, chỉnh sửa các thơng tin chưa có, chưa đầy đủ
hoặc chưa chính xác trong báo cáo ban đầu liên quan đến người bệnh,
phản ứng xảy ra, thuốc nghi ngờ, người báo cáo, thuốc dùng đồng thời,
cách xử trí phản ứng, đánh giá của bác sĩ điều trị hoặc người báo cáo.

➢ Biểu mẫu báo cáo: sử dụng một trong các mẫu báo cáo sau [3]:


Mẫu báo cáo phản ứng có hại của Bộ Y tế dành cho các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh (Phụ lục 1).



Mẫu báo cáo của Hội đồng các tổ chức quốc tế về khoa học y học (mẫu
báo cáo CIOMS I) (Phụ lục 2).



Mẫu báo cáo bất thường về chất lượng thuốc (chỉ áp dụng cho trường
hợp nghi ngờ thuốc giả hoặc thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng
nhưng khơng gây ra biến cố bất lợi trên bệnh nhân).



Mẫu báo cáo tai biến nặng sau tiêm chủng (chỉ áp dụng cho trường hợp

biến cố bất lợi liên quan đến vắc xin hoặc tiêm chủng).

➢ Thời hạn báo cáo [3]:


ADR nghiêm trọng gây tử vong hoặc đe dọa tính mạng người bệnh: báo
cáo ban đầu gửi trong thời gian sớm nhất có thể nhưng khơng muộn hơn
7 ngày làm việc kể từ ngày số không; báo cáo bổ sung trong thời gian
sớm nhất có thể nhưng khơng muộn hơn 15 ngày làm việc kể từ ngày
nhận được thông tin bổ sung.



ADR nghiêm trọng khơng thuộc loại gây tử vong hoặc đe dọa tính mạng
người bệnh: báo cáo ban đầu gửi trong thời gian sớm nhất có thể nhưng
khơng muộn hơn 15 ngày làm việc kể từ ngày số không; báo cáo bổ sung
gửi trong thời gian sớm nhất có thể nhưng không muộn hơn 15 ngày làm
việc kể từ ngày nhận được thơng tin bổ sung.



ADR khơng nghiêm trọng: báo cáo ban đầu gửi trong thời gian sớm nhất
có thể nhưng không muộn hơn 30 ngày theo lịch kể từ ngày số không;
báo cáo bổ sung gửi trong thời gian sớm nhất có thể nhưng khơng muộn
hơn 30 ngày theo lịch kể từ ngày nhận được thơng tin bổ sung.



Trường hợp sai sót liên quan đến thuốc dẫn đến xảy ra biến cố bất lợi


10


trên bệnh nhân, trường hợp nghi ngờ thuốc giả hoặc thuốc không đạt tiêu
chuẩn chất lượng dẫn đến xảy ra biến cố bất lợi trên bệnh nhân, trường
hợp thuốc không có hoặc khơng đạt hiệu quả điều trị: thời hạn báo cáo
được áp dụng như đối với báo cáo ADR và được quyết định theo mức độ
nghiêm trọng của biến cố.


Trường hợp sai sót liên quan đến thuốc nhưng khơng gây ra biến cố bất
lợi trên bệnh nhân, trường hợp nghi ngờ thuốc giả hoặc thuốc không đạt
tiêu chuẩn chất lượng nhưng không gây ra biến cố bất lợi trên bệnh nhân:
thời hạn báo cáo được áp dụng như đối với báo cáo ADR khơng nghiêm
trọng.

3.2. Báo cáo an tồn thuốc định kỳ:
➢ Các trường hợp phải báo cáo: tất cả các trường hợp nghi ngờ xảy ra ADR
trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, liên quan đến mỗi thuốc mà cơ sở sản
xuất, đăng ký hoặc phân phối ở Việt Nam.
➢ Biểu mẫu báo cáo: cơ sở cần sử dụng một trong các mẫu báo cáo sau [3]:


Báo cáo định kỳ về tính an tồn của thuốc (PSUR) hoặc Báo cáo đánh
giá định kỳ về hiệu quả và tính an toàn của thuốc (PBRER) theo Hướng
dẫn E2C của Hội nghị hịa hợp quốc tế (ICH) (báo cáo có thể được viết
bằng ngôn ngữ tiếng Anh hoặc tiếng Việt). Báo cáo này cần nộp kèm báo
cáo tóm tắt về hiệu quả và tính an tồn của thuốc bằng tiếng Việt.




Báo cáo an toàn, hiệu quả của thuốc sau khi lưu hành theo quy định hiện
hành về đăng ký thuốc.

➢ Thời hạn báo cáo: gửi báo cáo trong thời gian sớm nhất có thể nhưng khơng
muộn hơn 90 ngày theo lịch sau khoảng thời gian mà báo cáo bao phủ.
Thông tin trong báo cáo được tổng hợp theo chu kỳ đối với từng sản phẩm.
Chu kỳ này do cơ sở kinh doanh Dược lựa chọn và đăng ký khi nộp báo cáo
ADR định kỳ lần đầu. Hướng dẫn này khuyến khích báo cáo theo chu kỳ
hàng năm kể từ ngày sinh quốc tế của thuốc.
IV. Phát hiện tín hiệu an tồn thuốc trong cơ sở dữ liệu báo cáo từ Doanh nghiệp
Kinh doanh Dược phẩm:
4.1. Định nghĩa quản lý tín hiệu an tồn thuốc:
Phát hiện tín hiệu và đánh giá các tín hiệu này là hoạt động quan trọng nhất

11


của Cảnh giác Dược [41]. WHO định nghĩa một tín hiệu là: "Thông tin được báo cáo
về mối quan hệ nhân quả có thể xảy ra giữa một tác dụng phụ và một loại thuốc, trong
đó mối quan hệ chưa được biết hoặc được ghi chép không đầy đủ trước đây". Thông
thường, một số báo cáo nhất định sẽ thể hiện một tín hiệu [51]. Các tín hiệu này được
báo cáo cho các trung tâm Cảnh giác Dược vùng, sau đó là các trung tâm Quốc gia.
Cuối cùng, tất cả các báo cáo trường hợp được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu tại các
Trung tâm Quốc gia cũng như được gửi đến Trung tâm Hợp tác của WHO về Giám
sát Thuốc Quốc tế (Trung tâm Giám sát Upsala) [51] [47].
Tín hiệu: Là thơng tin ghi nhận từ một hoặc nhiều nguồn khác nhau, gợi ý đến
những phản ứng có hại mới liên quan đến thuốc, hoặc những khía cạnh mới của một
phản ứng có hại liên quan đến thuốc đã biết trước đó. Những khía cạnh mới của mối
liên quan giữa các cặp thuốc và biến cố đã biết có thể bao gồm những thay đổi về tần

suất, phân bố (ví dụ: tuổi, giới tính, quốc gia), thời gian xuất hiện, mức độ nặng hoặc
hậu quả của phản ứng có hại.
Đánh giá tín hiệu: Là q trình đánh giá tín hiệu dựa trên những dữ liệu hiện
có để xác định mối quan hệ nhân quả giữa thuốc và biến cố mới xuất hiện hoặc xác
định những thay đổi của nguy cơ đã biết. Q trình đánh giá có thể sử dụng cả dữ liệu
lâm sàng và phi lâm sàng và cần đảm bảo đánh giá toàn diện tất cả các nguồn thơng
tin.
Quản lý tín hiệu: Là chuỗi các hoạt động đánh giá dựa trên dữ liệu hiện có,
bao gồm từ các ca báo cáo đơn lẻ, các nghiên cứu hoặc chương trình giám sát chủ
động, thơng tin từ y văn và các nguồn dữ liệu khác, từ đó đánh giá liệu có thực sự
xuất hiện các nguy cơ mới hoặc có sự thay đổi đối với các nguy cơ đã biết hay khơng,
cùng với đó là việc đưa ra các khuyến cáo, đề xuất biện pháp truyền thông và theo
dõi phù hợp. Quy trình quản lý tín hiệu thường bao gồm các bước: phát hiện tín hiệu,
đánh giá tín hiệu và thực hiện các biện pháp truyền thông, quản lý nguy cơ.
Phát hiện tín hiệu là một bước rất quan trọng trong tiến trình Cảnh giác Dược
nhằm tìm ra những nguy cơ tiềm ẩn của thuốc và các sản phẩm y tế từ các nguồn dữ
liệu khác nhau, đặc biệt khi nguy cơ đó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe
cộng đồng, để có biện pháp can thiệp thích hợp.
Một mạng lưới Cảnh giác Dược tồn diện không thể thiếu các hoạt động đánh
giá thường xuyên, định kỳ dữ liệu an toàn thuốc, bao gồm báo cáo ADR tự nguyện
(hệ thống theo dõi thụ động) và các hoạt động nghiên cứu, giám sát chủ động những
vấn đề an toàn thuốc nghiêm trọng, đặc thù. Hệ thống theo dõi thụ động thông qua

12


các báo cáo ADR tự nguyện có thể giúp phát hiện và đánh giá các tín hiệu về an tồn
thuốc một cách định tính (khơng xác định được tần suất xảy ra) khi mối quan hệ nhân
quả với thuốc được xác lập trong mỗi báo cáo cụ thể, đồng thời có sự lặp lại thể hiện
ở số lượng và chất lượng báo cáo. Ngược lại, hệ thống giám sát chủ động cho phép

định lượng được tỷ lệ (tần suất) gặp phải các biến cố bất lợi thông qua nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau như: theo dõi biến cố thuần tập (cohort event monitoring
- CEM), hệ thống đăng ký (registry), nghiên cứu thuần tập ở các cơ sở điều trị trọng
điểm (sentinel-site cohort study), các nghiên cứu lâm sàng, nghiên cứu bệnh chứng,
nghiên cứu quan sát được tiến hành trong giai đoạn hậu mại (pha IV). Giám sát chủ
động đặc biệt có ý nghĩa trong các chương trình y tế quốc gia như các chương trình
phịng chống HIV/AIDS, lao, sốt rét và chương trình tiêm chủng mở rộng, giúp cung
cấp bằng chứng trong việc lựa chọn những thuốc mới, vắc xin mới, phác đồ điều trị
mới hoặc sửa đổi hướng dẫn điều trị [3].
4.2. Các phương pháp phát hiện tín hiệu thuốc ADR:
Đối với cơ sở dữ liệu báo cáo tự nguyện, một số phương pháp phát hiện tín
hiệu được sử dụng hiện nay là:
➢ Phương pháp chuyên gia: các báo cáo ADR được gửi tới các chuyên gia, sau
đó được đánh giá cho từng ca hoặc chuỗi các ca.
➢ Phương pháp khai phá dữ liệu: là các kỹ thuật phát hiện tín hiệu ADR bằng
việc sử dụng lợi thế của việc tính tốn, phân tích trên một tập dữ liệu lớn.
Các phương pháp khai phá dữ liệu dùng để phát hiện tín hiệu đều dựa trên
bảng 2x2 sau:
Biến cố bất lợi Y

Không biến cố bất lợi Y

Sử dụng thuốc X

a

b

Không sử dụng thuốc X


c

d

4.2.1. PRR (Proportional Reporting Ratio) [49]:
PRR được tính theo cơng thức sau:
𝑃𝑅𝑅 =

a ⁄ (a + b)
c ⁄ (c + d)

Kiểm định khi bình phương:

13


χ2 =

(a ∗ d − b ∗ c) 2 (a + b + c + d)
(a + b)(c + d)(a + c)(b + d)

Tín hiệu được gọi là hình thành đối với một thuốc trong khoảng thời gian nhất
định khi thỏa mãn 3 điều kiện sau [49]:
o Có ít nhất 3 báo cáo liên quan tới thuốc đó trong khoảng thời gian đánh

giá.
o Kiểm định khi bình phương lớn hơn hoặc bằng 4 (𝜒 2 ≥ 4)
o Giá trị PRR lớn hơn hoặc bằng 2 (𝑃𝑅𝑅 ≥ 2)

4.2.2. ROR (Reporting Odds Ratio) [46]:

ROR được tính theo cơng thức sau:
ROR =

𝑎/𝑏
𝑐/𝑑

Khoảng tin cậy 95% của ROR được tính theo cơng thức:
ROR(IC95%) = 𝑒

1 1 1 1
𝑎 𝑏 𝑐 𝑑

ln(𝑅𝑂𝑅)±1,96√( + + + )

Tín hiệu được hình thành khi thỏa mãn 2 điều kiện là số báo cáo của cặp thuốcAE lớn hơn 3 và cận dưới khoảng tin cậy 95% của ROR lớn hơn 1 [46].
Trong tần suất phương pháp có hai thuật toán được sử dụng là PRR và ROR.
Về mặt lý thuyết, ROR có thể được ưu tiên hơn PRR bởi dễ áp dụng và cho phép hiệu
chỉnh theo các biến số khác nhau thơng qua phân tích hồi quy logistic. Một điểm ưu
tiên khác của việc sử dụng ROR là hiện tượng báo cáo thấp hơn thực tế (báo cáo dưới
mức) về thuốc hoặc ADR không ảnh hưởng đến giá trị của ROR [23], [43].
V. Hoạt động nghiên cứu đã tiến hành trên dữ liệu báo cáo ADR từ Doanh nghiệp
Kinh doanh Dược phẩm trên thế giới và tại Việt Nam:
Trên thế giới, các nghiên cứu về báo cáo ADR của DNKDDP được thực hiện
đa dạng ở cả quy mô cơ sở dữ liệu và phương pháp nghiên cứu, phân tích. Trong đó,
một nghiên cứu thực hiện tại Hàn Quốc tiến hành so sánh cơ sở dữ liệu báo cáo giữa
bệnh viện, DNKDDP, dược sĩ và người sử dụng thuốc trong năm 2016. Nghiên cứu
thực hiện trên 228,939 báo cáo, so sánh tỷ trọng báo cáo trên 4 cơ sở dữ liệu trên.
Nghiên cứu tiến hành khảo sát cơ cấu nhân chủng học liên quan đến giới tính, tuổi,
đánh giá mối quan hệ nhân quả giữa AE và thuốc. Chất lượng báo cáo cũng được tính


14


tốn dựa trên sự hồn thiện của báo cáo. Báo cáo ADR cũng được tính tốn theo từng
tháng trong nghiên cứu này [24]. Một nghiên khác cứu so sánh hệ thống Cảnh giác
dược của 3 quốc gia (Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan) để mô tả đặc điểm của hệ
thống báo cáo nguyện, phương pháp phát hiện tín hiệu và cơ sở dữ liệu quan sát ở các
quốc gia này. Những chỉ tiêu được nghiên cứu là số lượng báo cáo trong 3 năm (2007,
2008, 2009), tỷ trọng báo cáo phân loại theo người gửi báo cáo (DNDP, CSKCB,
dược sĩ, người sử dụng thuốc), cơ sở và phương pháp phát hiện tín hiệu [38]. Nghiên
cứu ở Hàn Quốc đánh giá vai trò của các cơ sở dữ liệu trong hệ thống Cảnh giác Dược
trong cùng một quốc gia. Mặt khác nghiên cứu so sánh trên 3 quốc gia lại cho thấy
được ưu điểm trong việc so sánh hệ thống Cảnh giác Dược, qua đó chỉ ra được nhưng
hạn chế ở mức độ vĩ mô mà nghiên cứu ở Hàn Quốc không thực hiện được. Hai
nghiên cứu trên mô tả đặc điểm của hệ thống Cảnh giác Dược, trong khi đó một số
nghiên cứu khác tiến hành đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố đến xu hướng của báo
cáo. Nghiên cứu ở Nhật Bản về xu hướng trong dữ liệu báo cáo ADR của nhà sản
xuất cho 5 thuốc trong giai đoạn mới được tung ra thị trường. Qua đó đánh giá sự ảnh
hưởng của việc một thuốc mới được tung ra thị trường đến số lượng báo cáo ADR
liên quan đến thuốc đó trong vịng 2 năm. Nghiên cứu thực hiện khảo sát trên số lượng
báo cáo trong vòng 2 năm, tỷ lệ mức độ nghiêm trọng của các báo cáo [19].
Tại Việt Nam, hai nghiên cứu tiêu biểu tập trung phân tích về báo cáo ADR
của DNKDDP tại Việt Nam, là đề tài “Khảo sát thực trạng báo cáo ADR của đơn vị
kinh doanh thuốc giai đoạn 2014 – 2015” [4] và đề tài “Khảo sát thực trạng báo cáo
phản ứng có hại (ADR) của đơn vị kinh doanh thuốc tại Trung tâm DI & ADR Việt
Nam trong giai đoạn 2010-2017” [1]. Hai nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu xu
hướng và cơ cấu của cơ sở dữ liệu báo cáo của DNKDDP, thông qua những chỉ số
như số lượng báo cáo, cơ cấu báo cáo phân loại theo mức độ nghiêm trọng, công ty
gửi báo cáo, thuốc và nhóm thuốc được báo cáo, ADR được báo cáo. Nghiên cứu tiến
hành đánh giá chất lượng báo cáo thông qua khuyến cáo năm 2013 của Trung tâm

WHO-UMC (Phương pháp vigiGrade). Ngồi ra, 2 nghiên cứu cịn tiến hành so sánh
cơ sở dữ liệu của DNKDDP và CSKCB để chỉ ra được vị trí và vai trị của các cơ sở
dữ liệu trong hệ thống báo cáo ADR.
Nghiên cứu “Khảo sát thực trạng báo cáo phản ứng có hại (ADR) của đơn vị
kinh doanh thuốc tại Trung tâm DI & ADR Việt Nam trong giai đoạn 20102017”cũng đã phân tích tín hiệu của cặp thuốc ADR dựa trên chỉ số ROR. Đề tài
“Khảo sát thực trạng báo cáo ADR của đơn vị kinh doanh thuốc giai đoạn 2014 –

15


2015” tiến hành nghiên cứu tác động của truyền thông nguy cơ với vaccin 5 trong 1
(Quivnaxem). Đây là hai đề tài nghiên cứu một cách toàn diện về hệ thống báo cáo
của DNKDDP. Đồng thời cũng chỉ ra được vai trị và đóng góp của cơ sở dữ liệu
DNKDDP cho hệ thống Cảnh giác Dược quốc gia.
Tiếp nối hai nghiên cứu trước đây, nghiên cứu này tập trung phân tích về cơ
sở dữ liệu của DNKDDP trong giai đoạn 2010 – 2019. Tiến hành xác định xu hướng
báo cáo và cơ cấu của trong giai đoạn 10 năm với lượng cơ sở dữ lớn để khái quát
được đặc điểm của hệ thống báo cáo của DNKDDP. Ngoài ra, nghiên cứu cũng tiến
hành khảo sát xu hướng của báo cáo trong một giai đoạn này, nhằm thấy được sự phát
triển của cơ sở dữ liệu cũng như vai trò của Hướng dẫn Cảnh giác dược, Trung tâm
DI & ADR Quốc gia trong hệ thống báo cáo tự nguyện. Tín hiệu ROR được tính tốn
để thấy được sự thay đổi theo thời gian để quan sát được quá trình xuất hiện tín hiệu
ADR trong giai đoạn 2010 – 2019. Nhìn chung, nghiên cứu này hướng tới phân tích
trong một giai đoạn dài hơn và một góc nhìn tổng quan hơn những nghiên cứu được
thực hiện tại Việt Nam trước đó. Từ đó có thể đưa ra được những kiến nghị và giải
pháp phù hợp nhằm cải thiện hoạt động báo cáo ADR tại Việt Nam.

16



×