Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường trung cấp nghề số 9, bộ quốc phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.38 KB, 111 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ HÙNG CƯỜNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRƯỜNG TRUNG CẤP NGHỀ SỐ 9, BỘ QUỐC PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghệ An, 2012


2

Më ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển của mọi quốc gia, giáo dục và đào tạo (GD-ĐT)
vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, là con đường quan trọng nhất
để phát huy nguồn lực con người. Chính vì vậy, sự đi lên bằng giáo dục đã trở
thành con đường tất yếu của thời đại. Trí tuệ của con người đã trở thành tài sản
quý giá của mỗi quốc gia. Nâng cao và phát triển dân trí là điều kiện kiên quyết
để đưa đất nước tiến lên trong xu thế hội nhập hiện nay. Từ xu thế tất yếu của
thời đại và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Phát triển giáo
dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản
để phát triển xã hội, tăng trưởng nhanh và bền vững”.


Nền giáo dục cách mạng đã tạo nên những nét đẹp của văn hoá dân tộc,
tạo nên bản sắc Việt Nam, sức mạnh Việt Nam, đó chính là tiền đề cho dân tộc
ta viết lên những trang sử chói lọi. Đề cao vai trò của giáo dục là đề cao tư
tưởng tiến bộ mang tính thời đại. Đây là tư tưởng chỉ đạo có tầm chiến lược của
Đảng ta, đang từng bước được thể chế hoá một cách thấu đáo, đồng bộ và kịp
thời trong cuộc sống. Giáo dục và đào tạo đã và đang đứng trước những cơ hội
phát triển mới, đồng thời cũng phải đối đầu với nhiều thách thức mới. Yêu cầu
phát triển quy mô, nhưng phải đảm bảo chất lượng, nâng cao hiệu quả giáo dục
và đào tạo ở tất cả các bậc học, cấp học, đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết
từ mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, cơ chế quản lý, hệ
thống chính sách, huy động các nguồn lực để phát triển giáo dục và đặc biệt là
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý – nhân tố quan trọng quyết định chất lượng
giáo dục và đào tạo.
Những thành tựu mà giáo dục đã đạt được là động lực to lớn, là cơ sở, là
điều kiện để thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước. Đảng ta khẳng định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng


3
nhân tài, giáo dục phải đi trước một bước làm tiền đề cho CNH, HĐH đất nước.
Trong sự nghiệp đổi mới GD và ĐT, đổi mới công tác quản lý giáo dục và đào
tạo, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đặt ra một yêu cầu cấp bách hàng đầu của
việc tiếp tục triển khai, điều chỉnh và nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay.
Hội nghị lần thứ II BCHTW Đảng khoá XIII đã chỉ rõ: “ Hiện nay, sự
nghiệp giáo dục và đào tạo đang đứng trước mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu cần
phải phát triển nhanh quy mô giáo dục và đào tạo, vừa phải gấp rút nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo trong khi khả năng và điều kiện đáp ứng yêu cầu
còn nhiều hạn chế, đó là mâu thuẫn trong q trình phát triển. Những thiếu sót
chủ quan nhất là những yếu kém về quản lý đã làm cho mâu thuẫn đó càng thêm

gay gắt”.
Để phát triển giáo dục và đào tạo góp phần “Nâng cao dân trí – Đào tạo
nhân lực – Bồi dưỡng nhân tài” chúng ta phải quan tâm xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên. Nghị quyết hội nghị TW III (Khoá XIII) bàn
về công tác cán bộ đã khẳng định “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
Cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của Đất nước, của chế độ”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng đã dạy “Có cán bộ tốt việc gì cũng xong, muốn việc
thành cơng hay thất bại đề do cán bộ tốt hoặc kém”. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt trực tiếp đề ra và thực hiện các mục tiêu
giáo dục. Vì vậy, xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là một
vấn đề cấp thiết.
Chỉ thị 40 CT/TW cũng đã nhấn mạnh: " Phải tăng cường xây dựng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện" với mục tiêu: " Xây
dựng đội ngũ nhà giáo và đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm
bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao
bản lĩnh chính trị, phẩm chất lối sống, lương tâm nhà giáo". (9, tr 2).
Điều đó khẳng định: Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc nâng
cao chất lượng giáo dục nói chung và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
nói riêng.


4
Nhà trường, các cấp quản lý giáo dục và toàn xã hội có trách nhiệm chăm lo
xây dựng, phát triển và quản lý đội ngũ giáo viên để đáp ứng yêu cầu và theo
kịp với sự thay đổi, phát triển của thực tiễn giáo dục. Đội ngũ giáo viên là bộ
phận quan trọng của nguồn nhân lực xã hội, là nguồn nhân lực cơ bản của ngành
giáo dục và đào tạo, của một nhà trường, thừa hưởng tất cả những ưu tiên của
quốc gia về phát triển nguồn nhân lực và cũng đòi hỏi phải được nghiên cứu đổi
mới theo những thay đổi của nền giáo dục.
Những năm gần đây, dưới ánh sáng của đường lối đổi mới, đặc biệt là sự

vận dụng đúng đắn và sáng tạo những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
Nước, Trường trung cấp nghề (TCN) số 9, Bộ Quốc phòng (QP) đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong quá trình đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào
tạo nghề, cung cấp nguồn nhân lực, nguồn lao động có tay nghề cao cho xã hội,
góp phần cho sự phát triển KT - XH của khu vực Đồng Bằng Sơng Cửu Long
nói riêng và cả nước nói chung. Đặc biệt, Trường TCN số 9, Bộ QP là đơn vị
nhiều năm liên tục đạt danh hiệu “Đơn vị xuất sắc trong phong trào thi đua
quyết thắng” cấp Quân khu, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long, Tỉnh Hậu Giang,
TP Cần Thơ trao tặng, đặc biệt là được Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tặng Huân Chương Bảo Vệ Tổ Quốc hạng nhì, với những thành
tích nổi bật về chất lượng đào tạo nghề, đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao
đáp ứng nhu cầu xã hội....
Tuy vậy, bên cạnh những thuận lợi và kết quả đạt được, Trường TCN số 9,
Bộ QP cịn gặp khơng ít những khó khăn và thách thức: Trên địa bàn khu vực
Đồng Bằng Sông Cửu Long hiện nay có gần 40 trường trung cấp nghề, Trung
cấp chuyên nghiệp, hơn 20 trường Cao đẳng có đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp
nghề, Đại học có đào tạo hệ trung cấp chuyên nghiệp do đó sự cạnh tranh trong
công tác tuyển sinh đầu vào là vô cùng khó khăn. Đây cũng là một trong những
mặt hạn chế trong công tác đào tạo nghề, đặc biệt là công tác đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao của trường. Bên cạnh đó đội ngũ giáo viên cịn thiếu sù
đồng bộ về cơ cấu bộ môn, một số giáo viên chun mơn cịn yếu, đội ngũ cán
bộ quản lý hoạt động chưa thực sự có hiệu quả, thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa
các bộ phận, một số bộ phận cán bộ quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới


5
giáo dục và đào tạo nghề. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học vẫn chưa đáp
ứng được với yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục nghề nghiệp hiện nay.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu ở trên thì việc nghiên cứu
xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý của Trường TCN số 9, Bộ QP có

một ý nghĩa quan trọng và vô cùng cần thiết. Bởi lẽ, muốn sự nghiệp giáo dục và
đào tạo nghề phát triển, muốn chất lượng giáo dục và đào tạo nghề ngày càng
được nâng lên đáp ứng được yêu cầu đổi mới và xây dựng chuẩn đầu ra đối với
giáo dục chuyên nghiệp hiện nay có nhiều yếu tố trong đó khơng thể thiếu yếu tố
quan trọng là đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý. Vì vậy tơi chọn đề tài: “Một
số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Trường trung cấp nghề số
9, Bộ Quốc phịng”.

2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên của Trường TCN số 9, Bộ QP.

3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu.
3.1. Khách thể nghiên cứu.
Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên của Trường TCN số 9, Bộ QP.
3.2. Đối tượng nghiên cứu.
Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Trường TCN số 9, Bộ QP.

4. Giả thuyết khoa học.
Nếu những giải pháp quản lý được đề xuất có tính khoa học, có tính khả
thi và áp dụng được trong thực tiễn thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên của Trường TCN số 9, Bộ QP.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận.
Về giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên của Trường TCN số 9, Bộ QP.
5.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài.
Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng quản lý và chất lượng đội ngũ
giáo viên Trường TCN số 9, Bộ QP.
5.3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên

Trường TCN số 9, Bộ QP.


6

6. Phƣơng pháp nghiên cứu.
6.1. Các phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết:
phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật và
các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
6.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn.
6.2.1. Quan sát: Quan sát hoạt động quản lý của đội ngũ giáo viên cña
Trường TCN số 9, Bộ QP trên địa bàn Đồng Bằng Sông Cửu Long nhằm đánh
giá thực trạng hiện nay.
6.2.2. Điều tra – Khảo sát: Sử dụng bộ công cụ để điều tra, khảo sát thực
trạng đội ngũ giáo viên của Trường TCN số 9, Bộ QP.
6.2.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Tham khảo ý kiến chuyên gia
về giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Trường TCN
số 9, Bộ QP.
6.3. Phƣơng pháp thống kê tóan học để xử lý các số liệu.

7. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được chia thành 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề ngiên cứu.
- Chương 2: Thực trạng đội ngũ giáo viên của trường TCN số 9, Bộ QP.
- Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
trường TCN số 9, Bộ QP.


7

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khái quát về việc nghiên cứu vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên Trường TCN số 9, Bộ QP.
Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đã được các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu và đều thống nhất có chung quan
điểm cho rằng đội ngũ nhà giáo đóng vai trị quan trọng trong sư nghiệp giáo
dục và phát triển giáo dục của mỗi quốc gia.
Các nước như Đức, nhật bản, hoa kỳ, Singapo..... luôn xem yếu tố nhà
giáo là điều kiện quyết định của sự nghiệp giáo dục và phát triển giáo dục. Vì
vậy khi quyết định đưa giáo dục Hoa kỳ lên hàng đầu thế giới trong thế kỷ XXI,
chính phủ Hoa kỳ đã lấy giải pháp nhà giáo làm then chốt. Đó là tiêu chuẩn hóa,
chuyên nghiệp hóa và nâng cao chất lượng nhà giáo trên các vị thế nghề nghiệp,
nhân cách và xã hội. Như vậy, các nước này xem việc đãi ngộ vật chất, điều kiện
làm việc và địa vị xã hội cho nhà giáo là giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng
đội ngũ nhà giáo.
Có nhiều cách thức khác nhau đã được đề xuất để nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên. Trong nhiều tác phẩm và cơng trình nghiên cứu của mình, các nhà
khoa học giáo dục, nhà sư phạm lớn trên thế giới như: R.R.Singh, V.A
Xukhomlinxki cho rằng muốn nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên thì phải dự
giờ và phân tích sư phạm tiết dạy. Theo họ, việc dự giờ và phân tích sư phạm bài
dạy là địn bẩy quan trọng nhất trong cơng tác quản lý chuyên môn nghiệp vụ
của đội ngũ giáo viên.
Trên cơ sở tiếp thu các tư tưởng quản lý trên thế giới và dựa trên các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hoạt động quản lý, chuyên ngành KHQL ở
Việt Nam còn rất non trẻ song đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần
làm sáng tỏ những đặc điểm quản lý xã hội, con người Việt Nam trong những



8
điều kiện riêng biệt tương ứng với tình hình phát triển KT - XH của đất nước qua
các giai đoạn phát triển.
Đứng ở góc độ nghiên cứu lý luận quản lý giáo dục, dựa trên cơ sở lý luận
của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà khoa học Việt
Nam đã tiếp cận quản lý giáo dục và quản lý trường học chủ yếu dựa trên nền
tảng lý luận giáo dục học. Hầu hết các cuốn giáo dục học của các tác giả Việt
Nam thường có một chương về quản lý trường học. Các cơng trình tiêu biểu có
đề cập đến chất lượng và phương thức nâng cao chất lượng CBQL và đội ngũ
giáo viên gồm: “ Phương pháp luận khoa học giáo dục” do tác giả Phạm Minh
Hạc làm tổng chủ biên, được ấn hành năm 1981; Trần Kiểm với tác phẩm “Khoa
học quản lý giáo dục. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Những tác phẩm
nghiên cứu đó đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giáo dục,
chất lượng quản lý giáo dục nói chung và chất lượng quản lý ở các nhà trường
của nước ta hiện nay. ở các trường Đại học và các Viện nghiên cứu đã có nhiều
đề tài luận văn nghiên cứu về các vấn đề như: Quản lý hoạt động dạy học, quản
lý đội ngũ giáo viên, quản lý các hoạt động trong Nhà trường. Tại Trường Đại
học Vinh, đã có các cơng trình nghiên cứu của các tác giả như PGS.TS. Nguyễn
Ngọc Hợi, PGS.TS. Phạm Minh Hùng, PGS.TS. Thái Văn Thành.
Trên cơ sở các nguyên tắc chung, các tác giả đã nhấn mạnh vai trị của quản
lý chun mơn trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Bởi do tính chất nghề
nghiệp mà hoạt động chun mơn của giáo viên có nội dung rất phong phú.
Ngồi giảng dạy và làm cơng tác chủ nhiệm lớp, hoạt động chun mơn cịn bao
gồm việc tự bồi dưỡng và bồi dưỡng, giáo dục học sinh ngồi giờ lên lớp, sinh
hoạt chun mơn, nghiên cứu khoa học giáo dục. Thực chất việc quản lý chuyên
môn của giáo viên là quản lý quá trình lao động sư phạm của người thầy.
Nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu những góc độ khác nhau của việc
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở các cấp học, bậc học, nhưng việc đề cập
đến nâng cao chất lượng đội ngũ ở các trường trung cấp nghề trực thuộc Bộ

quốc phòng; Đặc biệt là một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Trường TCN số 9, Bộ QP thì chưa có đề tài nào đề cấp đến.


9
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Giáo viên
a. Khái niệm
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “ Giáo viên được hiểu là người dạy học ở
các Nhà trường, các cơ sở giáo dục hoặc tương đương” [22, tr 380] để chỉ những
người dạy học ở các cấp, bậc học. Theo Điều 70 Luật Giáo dục Nước Cộng Hòa
XHCN Việt Nam ban hành 2005 và Điều lệ trường Trung cấp nghề: Nhà giáo là
người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong Nhà trường, cơ sở giáo dục khác.
Luật giáo dục Nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam cũng đã quy định cụ thể
tên gọi đối với từng đối tượng nhà giáo theo cấp bậc giảng dạy và cơng tác. Theo
đó, nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp gọi là giáo viên; nhà giáo giảng dạy và công tác ở các cơ sở giáo
dục đại học và sau đại học gọi là giảng viên.
b. Vai trò của ngƣời giáo viên
Trong sự nghiệp đổi mới giáo dục vị trí, vai trị của giáo viên phải nâng lên
một tầm cao mới.
Xu thế đổi mới giáo dục của thế kỷ 21 đang đặt ra những yêu cầu mới về
phẩm chất, năng lực và làm thay đổi vai trị, chức năng của người giáo viên.
Cơng nghệ thơng tin phát triển nhanh chóng, tạo ra những phương tiện,
phương pháp giao lưu mới, tạo cơ hội cho mỗi người có thể học tập dưới nhiều
hình thức theo khả năng và điều kiện cho phép; Giáo dục nhà trường khơng cịn
là kênh thơng tin duy nhất đem đến cho học sinh các tri thức mới mẻ của loài
người mà học sinh có thể tiếp nhận thơng tin khoa học từ các nguồn khác như:
Phần mềm dạy học, Internet, truyền hình... Tuy nhiên giáo dục nhà trường dưới
sự chủ đạo của giáo viên vẫn là con đường đáng tin cậy và hiệu quả nhất giúp

cho thế hệ trẻ tiếp thu có mục đích, có chọn lọc, có hệ thống những tinh hoa di
sản văn hoá, khoa học, nghệ thuật của loài người và của dân tộc.
Ngày nay khoa học, kỹ thuật, công nghệ đem lại sự biến đổi nhanh trong
đời sống kinh tế xã hội thì giáo viên khơng chỉ đóng vai trị truyền đạt mà cịn


10
phải phát triển những cảm xúc, thái độ, hành vi đảm bảo cho người học làm chủ
được và biết ứng dụng hợp lý những tri thức đó. Giáo dục phải quan tâm đến sự
phát triển ở người học ý thức về các giá trị đạo đức, tinh thần, thẩm mĩ tạo nên
bản sắc tốt đẹp của con người, vừa kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống,
vừa sáng tạo những giá trị mới, thích nghi với thời đại mới. Về mặt này khơng gì
có thể thay thế vai trị của người giáo viên.
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển nhanh và nước ta đang
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, người giáo viên phải được đào tạo
ở trình độ học vấn cao, khơng chỉ về khoa học tự nhiên, kỷ thuật, cơng nghệ
mà cịn phải đào tạo cả khoa học xã hội và nhân văn, khoa học giáo dục.
Người giáo viên phải có ý thức, nhu cầu và khả năng khơng ngừng tự h ồn
thiện, phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo trong hoạt động sư phạm
cũng như biết phối hợp nhịp nhàng với tập thể sư phạm nhà trường trong
việc thực hiện mục tiêu giáo dục.
Ngày nay phương pháp dạy học đã chuyển từ kiểu dạy học tập trung vào
vai trò của giáo viên sang kiểu dạy học tập trung vào vai trò của học sinh, từ
cách dạy học thông báo đồng loạt, học tập thụ động sang cách dạy học phân hoá,
học tập tích cực. Giáo viên khơng đóng vai trị là người truyền đạt kiến thức mà
là người gợi mở, hướng dẫn, tổ chức, cố vấn, trọng tài cho các hoạt động tìm tịi,
tranh luận của học sinh.
Vai trị chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh được phát huy nhưng vai
trị của gáo viên khơng hề giảm nhẹ mà ngược lại kinh nghiệm nghề nghiệp của
mỗi người trong chúng ta cho biết tiến hành một tiết dạy theo kiểu thuyết trình,

độc thoại thì dễ hơn dạy một tiết học theo phương pháp tích cực, trong đó giáo
viên tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm học sinh, thơng
qua đó các em tự giành lấy những kiến thức mới, đồng thời nắm bắt được
phương pháp đi tới kiến thức đó. Giáo viên phải được đào tạo cơng phu, có một
trình độ cao về chun mơn nghiệp vụ mới có thể đóng vai trị là người cố vấn,
người trọng tài ln ln giữ vai trị chủ đạo trong quá trình sư phạm, trong các
hoạt động đa dạng của học sinh.


11
Thế kỷ 21 là thời đại của công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin đã và
đang được áp dụng rộng rãi trong quá trình dạy học, đem lại những khả năng
mới, giúp giáo viên có thể mơ phỏng, minh họa những sự kiện, hiện tượng
xảy ra trong tự nhiên, xã hội mà mắt thường không thể thấy được, hoặc nguy
hiểm, độc hại, cho phép cung cấp một lượng thông tin lớn trong thời gian
ngắn và cập nhật thường xuyên. Do vậy người giáo viên phải được đào tạo,
phải tự nghiên cứu về cơng nghệ thơng tin để có thể ứng dụng những thành
tựu của nó trong dạy học nhằm khơng ngừng làm mới bản thân, hiện đại hố
nhà trường, đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh và sự địi hỏi của nhiệm vụ
giáo dục hiện đại, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của t ừng nhà trường
và của nền giáo dục nói chung.
c. Nhiệm vụ và quyền hạn của giáo viên:
+ Nhiệm vụ:
Theo Luật Giáo dục và Điều lệ nhà trường, giáo viên có những nhiệm vụ sau đây:
- Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý, chương trình giáo dục.
- Gương mẫu thực hiện nhiệm vụ công dân, các quy định của pháp luật và
điều lệ nhà trường.
- Giữ gìn phẩm chất uy tín, danh dự của nhà giáo , tơn trọng nhân cách
người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng
của người học.

- Khơng ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ
chun mơn, nghiệp vụ, nêu gương tốt cho người học.
- Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật [23, tr. 61].
+ Quyền hạn của giáo viên:
- Được giảng dạy theo chuyên ngành đào tạo
- Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chun mơn, nghiệp vụ


12
- Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở
giáo dục và nghiên cứu khác với điều kiện bảo đảm thực hiện đầy đủ chương
trình, kế hoạch do nhà trường giao cho.
- Được nghỉ hè, nghỉ tết âm lịch, nghỉ học kỳ theo quy định của Bộ Giáo
dục-Đào tạo.
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật [23, tr. 62].
d. Phẩm chất và năng lực của giáo viên
- Người giáo viên phải có lịng u nước, u chủ nghĩa xã hội, có phẩm
chất đạo đức mà nghề dạy học đòi hỏi. Trong quá trình dạy học và giáo dục học
sinh, người giáo viên hình thành ở các em lịng u nước, lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, những phẩm chất đạo đức cách mạng, những nét tính cách tốt đẹp. Cơng
tác giáo dục khơng thể chỉ tiến hành trong những giờ nhất định, mà ở bất cứ lúc
nào, trong mọi vấn đề, qua những hành vi của giáo viên. Nếu khơng có sự tu
dưỡng thường xun, khơng có sự trưởng thành về mặt tư tưởng chính trị, khơng
có sự hồn thiện về nhân cách, khơng có sự thống nhất giữa lời nói và việc làm
hàng ngày của giáo viên, thì cơng tác giáo dục không thể đem lại kết quả tốt,
giáo viên không thể có uy tín thực sự đối với học sinh.
- Người giáo viên phải có lịng u mến trẻ.
Chỉ những ai say sưa và yêu quý sự nghiệp giáo dục mới có thể thành cơng
trong cơng việc. Chính lịng u nghề, quý trẻ đó giúp giáo viên tiếp cận được
tâm hồn trẻ, thông cảm với các em, gần gũi các em, hiểu được nhu cầu, hứng thú

của các em, nhờ đó giáo dục được các em truyền thống nhân ái của dân tộc, kết
hợp với sự giác ngộ về nhiệm vụ cao cả của mình, sẽ làm cho người giáo viên
càng thêm yêu nghề, vì “ Càng yêu người bao nhiêu, càng yêu nghề bấy nhiêu”.
- Có quan hệ tốt với học sinh, tôn trọng học sinh, bảo vệ quyền lợi chính
đáng và sở thích của học sinh, đối xử cơng bằng với tất cả học sinh, có lối sống
lành mạnh, giản dị là tấm gương tốt cho học sinh.


13
- Thực hiện tốt chức trách của người giáo viên theo luật giáo dục, hiểu biết
và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, chính cách của Nhà nước và các chủ
trương của ngành.
- Có quan hệ tốt với đồng nghiệp trong công tác và đời sống, khiêm tốn học
hỏi đồng nghiệp.
- Tích cực tham gia các hoạt động của nhà trường và xã hội.
- Năng lực: Là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó [30, tr.639].
Năng lực của đội ngũ giáo viên gồm có: Năng lực giảng dạy, năng lực giáo
dục và năng lực tổ chức các hoạt động của học sinh.
1.2.2. Đội ngũ, đội ngũ giáo viên
1.2.2.1. Đội ngũ
Từ điển Bách khoa Việt Nam đã định nghĩa: “Đội ngũ là khối đông
người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp được tập hợp và tổ chức thành một
lực lượng” [21, tr 243] hoặc “Đội ngũ là tập hợp gồm một số đông người
cùng chức năng, nhiệm vụ hoặc nghề nghiệp hợp thành lực lượng hoạt động
trong hệ thống” [4, tr 1].
1.2.2.2. Đội ngũ giáo viên
“Đội ngũ giáo viên là những chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục, họ nắm
vững tri thức, hiểu biết dạy học và giáo dục như thế nào và có khả năng cống
hiến sức lực, tồn bộ tài năng của họ đối với giáo dục” [7, tr 10].

“Đội ngũ giáo viên trong ngành giáo dục là một tập thể người, bao gồm
cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên nếu chỉ để ý đến đặc điểm của ngành thì
đội ngũ đó chủ yếu là đội ngũ giáo viên và đội ngũ quản lý giáo dục” [7, tr 10].
Từ những quan niệm nêu trên của các tác giả, ta có thể hiểu đội ngũ giáo
viên như sau:
Đội ngũ giáo viên là một hợp những người là nghề dạy học – giáo dục,
được tổ chức thành một lực lượng, cùng chung một nhiệm vụ, có đầy đủ các tiêu


14
chuẩn của một nhà giáo cùng thực hiện các nhiệm vụ và được định hướng các
quyền lợi theo Luật giáo dục và các Luật khác được Nhà nước quy định.
1.2.3. Chất lƣợng, chất lƣợng đội ngũ giáo viên
1.2.3.1 Chất lƣợng
Theo Từ điển Tiếng Việt (1999 – Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin): Chất
lượng là phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ
nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật, phân biệt nó với sự vật khác, chất
lượng là đặc tính khách quan của sự vật, chất lượng biểu hiện ra bên ngồi, qua
các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một, gắn bó
với sự vật như một tổng thể bao qt tồn bộ sự vật và khơng tách khỏi sự vật.
Về căn bản chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn với quy định về số lượng của
nó và khơng thể tồn tại ngồi tính quy định ấy. Một sự vật là một thể thống nhất
giữa số lượng và chất lượng.
Khơng có sự vật nào lại khơng có tính quy định về chất lượng, khơng có
sự tồn tại nào lại thiếu tính quy định về chất lượng. Mỗi vật thể, sự vật khác
nhau đều có tính quy định chất lượng khác nhau.
Chất lượng của sự vật, hiện tượng được biểu hiện thơng qua các thuộc
tính của nó. Mỗi sự vật bao gồm nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính tham gia vào
việc quy định chất lượng của sự vật khơng giống nhau. Các thuộc tính bản chất
tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, giữ vai trị quyết định của sự vật

làm cho nó khác với cái khác, nếu thuộc tính cơ bản mất đi thì sự vật khơng cịn.
Các thuộc tính khơng bản chất khơng giữ vai trò như thế, để thể hiện sự vật.
Như vậy, khái niệm chất lượng phản ánh mặt vô cùng quan trọng của sự
vật, hiện tượng và quá trình của thế giới quan.
1.2.3.2. Chất lƣợng giáo viên
Trên cơ sở đánh giá rất cao vai trò rất quan trọng của đội ngũ thầy cô giáo
đối với sự nghiệp trồng người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra yêu cầu cao đối
với phẩm chất, năng lực của người thầy giáo. Về phẩm chất của người thầy giáo,
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu:


15
- “Phải thật thà yêu nghề mình”. Người căn dặn: “Thầy cũng như trò, cán bộ
cũng như nhân viên, phải thật thà u nghề mình. Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo
những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng CNXH và CNCS! Người thầy
giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất” [40, 331].
- “Phải có đạo đức cách mạng”. Vì vậy, người giáo viên nói chung và
người giáo viên dạy nghề nói riêng cần phải có những phẩm chất và năng lực
cần thiết nhất định để đáp ứng cho sự nghiệp trồng người.
a. Yêu cầu về phẩm chất đạo đức
Phẩm chất đầu tiên mà người giáo viên cần có là:
- Phải có lịng u nước, u chủ nghĩa xã hội, chấp hành luật pháp, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện nghĩa vụ công dân đối với
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giáo dục HS lịng u nước, u CNXH
thơng qua các hoạt động GD và DH, tham gia và hướng dẫn HS tham gia các
hoạt động liên quan đến nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Phải có lòng yêu nghề: Đây là phẩm chất quan trọng nhất của người thầy giáo.
Bởi lẽ, nghề thầy giáo là một nghề có đối tượng quan hệ trực tiếp là con người. Hơn
nữa, đây lại là đối tượng con người đã và đang trưởng thành, đang trong thời kỳ
chuẩn bị khẳng định mình. Mặt khác, cơng cụ chủ yếu mà người thầy giáo sử dụng

trong quá trình DH và GD là nhân cách của mình, như K.Đ.Usinxki đã từng khẳng
định: “dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”. Nghề thầy giáo là nghề lao động
nghiêm túc, không được phép tạo ra thứ phẩm hay phế phẩm như một số ngành nghề
khác. Có người từng nói: làm hỏng một đồ vàng, ta có thể nấu lại, một viên ngọc quý
ta có thể bỏ đi, làm hỏng một con người là một tội lớn, một lỗi lầm không thể chuộc
lại được. Vàng, ngọc, kim cương đều quý nhưng không thể sánh chúng với tâm hồn,
nhân cách của một con người, đặc biệt, đây lại là đối tượng con người đã và đang
trưởng thành, đang chuẩn bị bước vào đời. Vì lẽ đó, người giáo viên cần phải có lịng
u nghề, và cũng chỉ có lịng u nghề mới giúp cho người giáo viên cố gắng nỗ lực
để tìm tịi, học hỏi, chắt chiu kiến thức, kỹ năng để chuyển tải, truyền thụ, bồi đắp
cho thế hệ trẻ những tri thức, những kỹ năng cần thiết để hình thành và phát triển
nhân cách của mình. Chỉ có những người u nghề, mới có thái độ thân thiện với học


16
sinh, quan tâm đến tình hình chung của cả lớp học, đồng thời hiểu được đặc điểm,
điều kiện, hoàn cảnh, năng lực học tập của từng em học sinh để có những biện pháp
tác động phù hợp; chăm lo đến sự phát triển toàn diện của các em về đạo đức, tình
cảm, năng lực, sức khoẻ, hứng thú, sở thích, nguyện vọng, ước muốn..., để có những
định hướng đúng đắn trong học tập, trong sinh hoạt, trong việc lựa chọn nghề nghiệp
tương lai. Lòng yêu nghề còn giúp giáo viên nhiệt tình giảng dạy, khơng ép buộc học
sinh học thêm, tự giác giúp đỡ các học sinh nghèo, học sinh có hồn cảnh khó khăn,
học sinh có biểu hiện chậm tiến, tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của học sinh; khơng xúc phạm nhân phẩm, danh dự, thân thể học
sinh; thực hiện dân chủ trong quan hệ thầy trị, cơng bằng, khơng phân biệt đối xử
với học sinh.
Người giáo viên phải thực sự yêu nghề, tận tuỵ với nghề, có tinh thần trách
nhiệm trong cơng tác, có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành tốt các chủ trương của
ngành, thực hiện tốt các kỷ cương, nền nếp của nhà trường; giữ gìn phẩm chất, danh
dự của nhà giáo, uy tín của nhà trường; có tinh thần hợp tác, đồn kết giúp đỡ lẫn

nhau với các đồng nghiệp, với phụ huynh học sinh, với cộng đồng trong công tác
giảng dạy, giáo dục. Trong giai đoạn hiện nay, người giáo viên phải thực hiện tốt
cuộc vận động “Hai không”, cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương
sáng về đạo đức, tự học và sáng tạo” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động, thực sự
là người tiên phong đi đầu trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”.
Người giáo viên phải có tinh thần tự học, tham dự các chương trình, các lớp
tập huấn bồi dưỡng về tư tưởng chính trị, về chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao
phẩm chất và năng lực nghề nghiệp; xác định nhu cầu, xây dựng và thực hiện kế
hoạch tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ; có ý thức tìm hiểu những
vấn đề đổi mới trong giáo dục để vận dụng vào công tác giáo dục và dạy học; có
ý thức rèn luyện thân thể để đảm bảo công tác tốt.
b. Yêu cầu về năng lực
- Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó.


17
Nghề dạy học là một nghề đặc biệt, đã từng được tôn vinh là “nghề cao
quý”. Đây là nghề trực tiếp tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội, nghề địi
hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo cao, đồng thời cũng là một
nghề lao động trí óc chun nghiệp. Vì vậy bên cạnh phẩm chất, người giáo viên
nói chung và giáo viên dạy nghề nói riêng cần phải có những năng lực cần thiết,
bao gồm: năng lực chuyên môn; năng lực giảng dạy; năng lực sư phạm; năng lực
tổ chức các hoạt động giáo dục, cụ thể:
- Năng lực chuẩn đoán nhu cầu và đặc điểm của đối tượng dạy học, giáo dục;
- Năng lực thiết kế dạy học, giáo dục;
- Năng lực giám sát, đánh giá kết quả các hoạt động dạy học, giáo dục;
- Năng lực giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tế dạy học, giáo dục;
Để có những năng lực nói trên, người giáo viên dạy nghề cần phải có kiến

thức và kỹ năng cần thiết, cụ thể:
Về tri thức khoa học:
- Kiến thức về các môn học mà mình phụ trách: Người giáo viên phải đạt trình
độ đào tạo từ chuẩn trở lên đối với môn học mà mình trực tiếp giảng dạy theo quy
định của Luật Giáo dục, Luật dạy nghề Cụ thể, đối với giáo viên dạy nghề, phải đạt
trình độ đào tạo đại học sư phạm đúng chuyên ngành giảng dạy hoặc trình độ đại học
đúng chuyên ngành giảng dạy và có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm theo quy định của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng Cục dạy nghề.
- Kiến thức về đặc điểm tâm sinh lý đối tượng: giáo viên phải có kiến thức
cần thiết về tâm lý học sư phạm và tâm lý học lứa tuổi học sinh để vận dụng vào
công tác giảng dạy, giáo dục.
- Kiến thức về ngoại ngữ, tin học: giáo viên phải có trình độ tin học và
ngoại ngữ để có thể sử dụng các công cụ, phương tiện dạy học hiện đại để nâng
cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy, giáo dục.
- Kiến thức về xã hội:


18
+ Người GV phải hiểu biết về chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, của
ngành giáo dục, của địa phương và phương hướng, nhiệm vụ của nhà trường.
+ Có kiến thức phổ thông về những vấn đề xã hội, mơi trường, dân số, an ninh
quốc phịng, an tồn giao thơng, về chăm sóc sức khoẻ sinh sản vị thành niên, về
phòng chống ma tuý, tệ nạn xã hội...
Về kỹ năng sư phạm:
DH nói chung và dạy nghề nói riêng là một nghề mà bất cứ ai muốn hành
nghề đều cần được đào tạo một cách chuyên biệt trong các trường sư phạm. Tâm
lí học dạy học hiện đại đã chỉ ra rằng, muốn làm nghề dạy học với đúng nghĩa
của nó thì GV cần có những kĩ năng sư phạm, bao gồm:
- Kỹ năng dạy học: Kỹ năng dạy học liên quan đến việc tổ chức hoạt động
nhận thức của học sinh, các mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh trong giờ

học. Đây là là kỹ năng rất quan trọng của người giáo viên, có ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng, hiệu quả của bài dạy.
Để có bài dạy tốt, GV phải có khả năng thiết kế, chế biến tài liệu học tập.
Đây là kỹ năng quan trọng, là năng lực gia công về mặt sư phạm của GV đối với
tài liệu học tập, đảm bảo tính lôgic, đặc điểm nhận thức của học sinh:
+ Xác định rõ mục tiêu bài dạy.
+ Thiết kế bài dạy thể hiện được các bước lên lớp, các nội dung cơ bản của
bài dạy, các phương pháp, phương tiện dạy học.
+ Trên cơ sở kiến thức SGK, giáo viên chế biến, bổ sung vào bài giảng của
mình những tri thức từ các sách, báo khác và từ cuộc sống để bài giảng sinh
động, hấp dẫn, có cấu trúc lơgic chặt chẽ.
+ Xác định được các phương pháp, phương tiện dạy học phù hợp với nội
dung bài dạy:
Biết tổ chức hoạt động dạy học theo hướng phát huy tính tích cực nhận
thức của học sinh: bao quát được lớp học, biết sử dụng linh hoạt, sáng tạo các
phương pháp, phương tiện dạy học, trình bày bảng hợp lý, lời giảng rõ ràng,


19
mạch lạc. Tổ chức tốt các mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh
và tài liệu học tập, giữa học sinh với nhau trong giờ học.
Biết tổ chức quá trình kiểm tra, đánh giá để xác định mức độ chiếm lĩnh tri
thức, kỹ năng kỹ xảo hiện có ở học sinh.
- Kỹ năng giáo dục học sinh: Cùng với kỹ năng dạy học, kỹ năng giáo dục
học sinh là một yếu tố không thể thiếu được trong tay nghề của người giáo viên.
Kỹ năng giáo dục học sinh được đặc trưng bởi các hành động sau:
+ Xây dựng nội dung, kế hoạch giáo dục học sinh (kế hoạch tuần, tháng,
học kỳ, năm học, …).
+ Lựa chọn các con đường, biện pháp giáo dục phù hợp với đặc điểm lứa
tuổi học sinh và nội dung cần giáo dục.

+ Tổ chức các hoạt động giáo dục phong phú, đa dạng nhằm hình thành ở
học sinh các phẩm chất nhân cách đáp ứng yêu cầu của xã hội.
+ Biết cách giao tiếp, ứng xử với học sinh, cha mẹ HS, đồng nghiệp và
cộng đồng (lời nói, cử chỉ, ăn mặc phù hợp với môi trường giáo dục, khéo léo
thuyết phục, động viên, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong nhân cách của
HS, tiếp xúc với phụ huynh, với nhân dân đúng mực, lịch sự).
+ Đánh giá kết quả của quá trình giáo dục, căn cứ vào sự phát triển nhân
cách của học sinh.
- Kỹ năng vận động và phối hợp các lực lượng giáo dục gia đình, xã hội: Đây
cũng là kỹ năng không kém phần quan trọng của người giáo viên. Nhất là trong
điều kiện toàn xã hội và giáo dục như hiện nay. Kỹ năng này được đặc trưng bởi
các hành động sau:
+ Giúp cho mọi người nhận thức được đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ của
mình đối với sự nghiệp giáo dục.
+ Cung cấp cho các bậc cha mẹ những hiểu biết cần thiết để giúp đỡ con,
em học tập ở nhà.


20
+ Vận động các tổ chức, đoàn thể xã hội tích cực tham gia giáo dục học
sinh trên địa bàn dân cư.
+ Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, có ảnh hưởng tích cực đến sự
hình thành và phát triển nhân cách của học sinh, …
- Kỹ năng tự học, tự nâng cao trình độ: Bản thân lao động nghề nghiệp địi
hỏi người giáo viên phải khơng ngừng tự học, tự nâng cao trình độ. Khẩu hiệu:
“Sống là học, học tập là cơng việc suốt đời” có ý nghĩa rất thiết thực đối với
người giáo viên. Kỹ năng này được đặc trưng bởi các hành động sau:
+ Thường xuyên trang bị cho bản thân những kiến thức mới, những thơng tin mới;
+ Tiếp cận nhanh chóng với các phương pháp và xu thế dạy học mới, phát
huy cao độ tính tích cực, độc lập của người học;

+ Mở rộng phạm vi hiểu biết các vấn đề xã hội, các vấn đề có ý nghĩa quốc
gia, quốc tế (hồ bình, dân số, mơi trường, AIDS, ma t, nghèo đói, ..).
- Kỹ năng nghiên cứu khoa học: Người giáo viên còn cần phải có kỹ năng
nghiên cứu khoa học, kỹ năng này giúp người giáo viên giải quyết tốt các vấn đề
thường xuyên nảy sinh trong thực tiễn công tác giảng dạy - giáo dục của mình,
biết vận dụng những kinh nghiệm thành công của đồng nghiệp. Kỹ năng này
được đặc trưng bởi các hành động sau:
+ Xác định đề tài nghiên cứu;
+ Lập kế hoạch nghiên cứu;
+ Thực hiện công trình nghiên cứu;
+ Bảo vệ cơng trình nghiên cứu, …
- Kỹ năng giao tiếp với học sinh, phụ huynh và đồng nghiệp: Thể hiện khả
năng duy trì và phát triển mối quan hệ với đồng nghiệp, giữa giáo viên và học
sinh và giữa học sinh với nhau...
1.2.3.3. Chất lƣợng đội ngũ giáo viên
Chất lượng đội ngũ giáo viên được bao hàm nhiều yếu tố: Trình độ được
đào tạo của từng thành viên trong đội ngũ, thâm niêm công tác trong tổ chức,
nhận thức chính trị, thái độ cơng dân.vv...


21
Từ quan niệm về chất lượng đội ngũ đã nêu ở trên ta thấy chất lượng đội
ngũ giáo viên là tồn bộ thuộc tính, những đặc điểm của đội ngũ giáo viên. Những
thuộc tính, cấu trúc này gắn bó với nhau trong tổng thể thống nhất tạo nên giá trị
và sự tồn tại của đội ngũ, làm cho đội ngũ giáo viên khác với đội ngũ khác.
- Trong lĩnh vực giáo dục, chất lượng đội ngũ giáo viên với sản phẩm đặc
trưng là con người có thể hiểu là các phẩm chất, giá trị nhân cách, năng lực sống
và hoà nhập đời sống xã hội, giá trị sức lao động, năng lực hành nghề của người
giáo viên tương ứng với mục tiêu đào tạo của từng bậc học, ngành học trong hệ
thống giáo dục quốc dân.

Yêu cầu về chất lượng đội ngũ giáo viên xuất phát từ các tiêu chuẩn Nhà
giáo (Điều 70 Luật Giáo dục - 2005) gồm:
+ Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốtc thù địch ln tìm mọi cách thực hiện “diễn biến hịa bình” mua chuộc lôi
kéo... Môi trường xã hội rất phức tạp khiến cho một số giáo viên, Đảng viên bị
những lợi ích vật chất và các cám dỗ khác làm cho tha hóa. Vì vậy, phải có biện
pháp thường xun bảo vệ giáo viên.
Bảo vệ giáo viên còn bao gồm cả việc bảo vệ những giáo viên tốt bị
những phần tử, bộ phận xấu vun cáo, trù lập, loại trừ..., vì lợi ích cá nhân và phe
cánh. Muốn vậy, các tổ chức Đảng phải luôn được chỉnh đốn và đổi mới, nêu
cao đấu tranh tự phê bình và phê bình, khắc phục những biểu hiện như xa rời


91
quần chúng, quan liêu, khoe khoang, tự cao, tự đại, hẹp hịi... ln phấn đấu đạt
và giữ vững là những tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh.
e. Tiếp tục chỉ đạo và gương mẫu thực hiện phong trào thi đua “hai tốt”,
cuộc vận động “Dân chủ, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm” đánh giá, xếp
loại, khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh.
f. Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và vận
động, tập hợp được sự tham gia của toàn xã hội vào việc xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo nói chung, đội ngũ giáo viên Trường TCN số 9, Bộ
QP nói riêng theo tinh thần chỉ thị số 40/CT-TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư
TW Đảng.
g. Có những ý kiến tham mưu, đề xuất kịp thời nhằm góp phần kiện tồn
bộ máy tổ chức Đảng, xây dựng, quản lý, bảo vệ tốt đội ngũ cán bộ cũng là một
trong những biện pháp tốt nhất để góp phần đảm bảo việc thực hiện nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên Trường TCN số 9, Bộ QP.
Như vậy, Giáo dục tư tưởng chính trị, nâng cao nhân thức về trách nhiệm
của đội ngũ giáo viên trong bối cảnh hội nhập hiện nay có ý nghĩa và tầm quan
trọng rất lớn đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nhà trường. Đội ngũ giáo

viên có nhận thức đúng về chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước thì q trình cơng tác, giáo dục học sinh mới đem lại hiệu quả thiết thực.
Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Trường TCN số 9, Bộ QP chỉ thực
sự đạt chất lượng và hiệu quả thì các giải pháp đã nêu trên (ở mục 3.2) được
triển khai thực hiện một cách đồng bộ. Trong thực tiễn, các giải pháp có tác
động biện chứng lẫn nhau nhằm đạt kết quả nâng cao chất lượng từng giáo viên
cũng chính là nâng cao chất lượng của cả đội ngũ giáo viên của nhà trường.
Mối quan hệ mật thiết hữu cơ của 7 giải pháp. Các giải pháp trên được kết
nối với nhau một cách chặt chẽ cùng hướng tới mục tiêu chung là nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên của Nhà trường.


92
3.3. Thăm dị tính cấp thiết và khả thi các giải pháp
Để kiểm chứng tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đã nêu ở
trên, chúng tôi đã áp dụng phương pháp nghiên cứu điều tra, khảo sát chủ yếu
bằng phiếu thăm dò và phương pháp chuyên gia. Chúng tôi đã trưng cầu ý kiến
bằng phiếu với 145 người, bao gồm: Ban giám hiệu, các trưởng, phó phịng, ban,
khoa, tổ bộ mơn và giám đốc, phó giám đốc các trung tâm và một số giáo viên
để chứng kiến (về mặt nhận thức) với 7 tiêu chí nêu trên. Sau khi đã xử lý theo
các tiêu chí xác định, kết quả như sau:
Bảng 8: Đánh giá mức độ cần thiết và khả thi của các giải pháp đề xuất.

Tính cần thiết
Rất
Tên giải pháp

TT

cần

thiết
Số

Cần
thiết
Số

Tính khả thi

Khơng

Rất

cần

khả

thiết

thi

Số

Số

Số

Số

phiếu


phiếu

phiếu

phiếu phiếu phiếu

Khả
thi

Khơng
khả
thi

Đổi mới công tác xây
1

dựng quy hoạch đội
ngũ giáo viên Trường

145

0

0

141

4


0

145

0

0

138

7

0

141

4

0

140

5

0

TCN số 9, BQP
Đổi

mới


công tác

tuyển chọn, bổ nhiệm,
02

miễn nhiệm và luân
chuyển đội ngũ giáo
viên Trường TCN số
9, BQP
Đổi mới công tác đào

03

tạo, bồi dưỡng, tự bồi
dưỡng đội ngũ giáo


93
viên Trường TCN số
9, BQP
Hồn thiện chế độ,
04

chính sách đối với đội
ngũ giáo viên Trường

143

2


0

141

4

0

140

5

0

141

4

0

141

4

0

144

1


0

145

0

0

139

6

0

TCN số 9, BQP
Xây dựng hệ thống,
thông tin hỗ trợ công
05

tác quản lý

Tăng cường công tác
kiểm tra, đánh giá
06

chuyên môn, nghiệp
vụ của đội ngũ giáo
viên
Tăng cường sự chỉ đạo

của các cấp ủy Đảng

07

đối với việc nâng cao
chất lượng đội ngũ
giáo viên Trường TCN
số 9, BQP

Qua khảo sát thực tế với các đối tượng nêu trên, cho phép chúng tôi rút ra
một số nhận xét sau đây:
1. Việc đề xuất một số giải pháp như trên là hoàn toàn cần thiết (91.9%
người được hỏi ý kiến cho rằng các giải pháp đều cần thiết và rất cần thiết).
Trong đó giải pháp: Đổi mới cơng tác xây dựng quy hoạch đội ngũ giáo viên
trường TCN số 9, BQP; Đổi mới công tác tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm và
luân chuyển đội ngũ giáo viên; Hoàn thiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ


94
giáo viên trường TCN số 9; Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với
việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên quan trọng, cần thiết nhất.
2. Các giải pháp nêu trên đều có tính khả thi (89.8% người được hỏi ý
kiến cho rằng các giải pháp đều có tính khả thi và khả thi cao). Đặc biệt là giải
pháp về “Không ngừng tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá chuyên môn,
nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên”.
3. Thực hiện các giải pháp cần cụ thể hóa, phù hợp với đặc điểm tình hình
của Nhà trường, của Bộ QP để tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp
đạt ở mức độ cao.



×