Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Một số giải pháp nâng cao chât lượng đội ngũ giáo viên trường trung cấp bách nghệ hà nội luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.8 KB, 115 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển của mọi quốc gia, giáo dục và đào tạo vừa là mục
tiêu vừa là động lực của sự phát triển, là con đường quan trọng nhất để phát huy
nguồn lực con người. Chính vì vậy, sự đi lên bằng giáo dục đã trở thành con đường
tất yếu của thời đại. Trí tuệ của con người đã trở thành tài sản quý giá của mỗi
Quốc gia. Nâng cao và phát triển dân trí là điều kiện kiên quyết để đưa đất nước
tiến lên trong xu thế hội nhập hiện nay. Từ xu thế tất yếu của thời đại và yêu cầu
phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hố, hiện đại hố, Đại hội
Đảng tồn quốc lần thứ IX khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy cơng nghiệp hố, hiện đại hố, là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
nhanh và bền vững”.
Nền giáo dục cách mạng đã tạo nên những nét đẹp của văn hoá dân tộc, tạo
nên bản sắc Việt Nam, sức mạnh Việt Nam, đó chính là tiền đề cho dân tộc ta viết
lên những trang sử chói lọi. Đề cao vai trò của giáo dục là đề cao tư tưởng tiến bộ
mang tính thời đại. Đây là tư tưởng chỉ đạo có tầm chiến lược của Đảng ta, đang
từng bước được thể chế hoá một cách thấu đáo, đồng bộ và kịp thời trong cuộc
sống. Giáo dục và đào tạo đã và đang đứng trước những cơ hội phát triển mới,
đồng thời cũng phải đối đầu với nhiều thách thức mới. Yêu cầu phát triển quy mô,
nhưng phải đảm bảo chất lượng, nâng cao hiệu quả giáo dục và đào tạo ở tất cả các
bậc học, cấp học, đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết từ mục tiêu, nội dung
chương trình, phương pháp giáo dục, cơ chế quản lý, hệ thống chính sách, huy
động các nguồn lực để phát triển giáo dục và đặc biệt là đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý – nhân tố quan trọng quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo.
Những thành tựu mà giáo dục đã đạt được là động lực to lớn, là cơ sở, là
điều kiện để thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước. Đảng ta khẳng định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân
tài, giáo dục phải đi trước một bước làm tiền đề cho cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
đất nước. Trong sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo, đổi mới công tác quản lý


1


giáo dục và đào tạo, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đặt ra một yêu cầu cấp bách
hàng đầu của việc tiếp tục triển khai, điều chỉnh và nâng cao chất lượng giáo dục
hiện nay.
Hội nghị lần thứ II Ban Chấp hành TW Đảng khoá XIII đã chỉ rõ: “Hiện
nay, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đang đứng trước mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu
cần phải phát triển nhanh quy mô giáo dục và đào tạo, vừa phải gấp rút nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo trong khi khả năng và điều kiện đáp ứng u cầu
cịn nhiều hạn chế, đó là mâu thuẫn trong q trình phát triển. Những thiếu sót chủ
quan nhất là những yếu kém về quản lý đã làm cho mâu thuẫn đó càng thêm gay
gắt”.
Để phát triển giáo dục và đào tạo góp phần “Nâng cao dân trí – Đào tạo nhân
lực – Bồi dưỡng nhân tài” chúng ta phải quan tâm xây dựng, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, giảng viên. Nghị quyết hội nghị TW III (Khoá XIII) bàn về công
tác cán bộ đã khẳng định “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của Cách
mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của Đất nước, của chế độ”. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng đã dạy “Có cán bộ tốt việc gì cũng xong, muốn việc thành công
hay thất bại đề do cán bộ tốt hoặc kém”. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục là lực lượng cốt cán trực tiếp đề ra và thực hiện các mục tiêu giáo dục. Vì vậy,
xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là một vấn đề cấp thiết.
Nghị quyết hội nghị TW lần thứ II Khoá VIII đã chỉ rõ một trong những giải
pháp chủ yếu đó là: “Đổi mới cơ chế quản lý, bồi dưỡng cán bộ, sắp xếp chấn
chỉnh và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý...” Cùng với việc “Quy định lại
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý giáo dục và đào tạo theo hướng tập
trung làm tốt chức năng quản lý nhà nước”. Xây dựng đội ngũ nhà giáo và đội ngũ
quản lý giáo dục theo hướng chuẩn hoá, nâng cao chất lượng giáo dục, đảm bảo đủ
về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chun mơn của

nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong cơng cuộc
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”.
Chính vì vậy, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý và công tác xây dựng đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý một cách toàn diện là một trong những nội dung
quan trọng của đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
2


Những năm gần đây, dưới ánh sáng của đường lối đổi mới, đặc biệt là sự
vận dụng đúng đắn và sáng tạo những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
Nước, Trường Trung cấp Bách nghệ Hà Nội đã đạt được những thành tựu quan
trọng trong quá trình đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, cung cấp nguồn nhân
lực, nguồn lao động có tay nghề cao cho xã hội, góp phần cho sự phát triển kinh tế
- xã hội của Thủ đơ Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Đặc biệt, Trường
Trung cấp Bách nghệ Hà Nội là đơn vị nhiều năm liên tục đạt danh hiệu “đơn vị
tiên tiến xuất sắc” do UBND thành phố Hà Nội, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội
trao tặng, với những thành tích nổi bật về chất lượng đào tạo, đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xã hội, đội ngũ giáo viên dạy giỏi, học sinh
giỏi, kết quả xây dựng trường đạt chuẩn đầu ra, cơng tác xã hội hố giáo dục đạt
hiệu quả cao...
Tuy vậy, bên cạnh những thuận lợi và kết quả đạt được, Trường Trung cấp
Bách nghệ Hà Nội còn gặp khơng ít những khó khăn và thách thức: Trên địa bàn
thành phố Hà Nội hiện nay có gần 40 trường Trung cấp chuyên nghiệp, gần 20
trường Cao đẳng, Đại học có đào tạo hệ trung cấp chuyên nghiệp do đó sự cạnh
tranh trong cơng tác tuyển sinh đầu vào là vơ cùng khó khăn. Đây cũng là một
trong những mặt hạn chế trong công tác đào tạo, đặc biệt là công tác đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao của trường. Bên cạnh đó đội ngũ giáo viên cịn thiếu sự
đồng bộ về cơ cấu bộ môn, một số giáo viên chun mơn cịn yếu, đội ngũ cán bộ
quản lý hoạt động chưa thực sự có hiệu quả, thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa các bộ
phận, một số bộ phận cán bộ quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục

và đào tạo. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học vẫn chưa đáp ứng được với yêu
cầu đổi mới chương trình giáo dục chuyên nghiệp hiện nay.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu ở trên thì việc nghiên cứu xây
dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý của Trường Trung cấp Bách nghệ Hà Nội
có một ý nghĩa quan trọng và vô cùng cần thiết. Bởi lẽ, muốn sự nghiệp giáo dục
và đào tạo phát triển, muốn chất lượng giáo dục và đào tạo ngày càng được nâng
lên đáp ứng được yêu cầu đổi mới và xây dựng chuẩn đầu ra đối với giáo dục
chuyên nghiệp hiện nay có nhiều yếu tố trong đó khơng thể thiếu yếu tố quan trọng
là đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý. Vì vậy tơi chọn đề tài: “Một số giải pháp
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Trường Trung cấp Bách nghệ Hà Nội ”.
3


2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên của Trường Trung cấp Bách nghệ Hà Nội.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
của Trường Trung cấp Bách nghệ Hà Nội.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên Trường Trung cấp Bách nghệ Hà Nội.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay đội ngũ giáo viên của Trường Trung cấp Bách nghệ Hà Nội còn
hạn chế bất cập, chưa đảm bảo số lượng, chất lượng và cơ cấu so với yêu cầu,
nhiệm vụ. Những giải pháp được đề xuất là phù hợp với thực tiễn, thiết thực, có
tính khả thi và nếu được thực hiện sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên ở Trường Trung cấp Bách nghệ Hà Nội.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
+ Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài: Khảo sát, phân tích và đánh giá thực

trạng quản lý và chất lượng đội ngũ giáo viên trường Trung cấp Bách nghệ Hà Nội,
từ đó chỉ ra các nguyên nhân của những hạn chế và rút ra những kinh nghiệm cần
thiết.
+ Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Trường
Trung cấp Bách nghệ Hà Nội. Thăm dị tính cấp thiết và khả thi các giải pháp nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên Trường Trung cấp Bách nghệ Hà Nội.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên phương diện quản lý giáo dục, cụ thể là quản lý
công tác nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên của Trường Trung cấp Bách nghệ
Hà Nội.
7. Phương pháp nghiên cứu
+ Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phân tích, tổng hợp và hệ thống
hóa các văn bản quy phạm pháp luật và các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu.

4


+ Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn, như: quan sát, điều tra, khảo sát,
lấy ý kiến chuyên gia,...
+ Phương pháp thống kê để xử lý các số liệu và kết quả nghiên cứu.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được
chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
trường Trung cấp Bách nghệ Hà Nội
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của đề tài
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Trường
Trung cấp Bách nghệ Hà Nội


5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN TRƯỜNG TRUNG CẤP BÁCH NGHỆ HÀ NỘI
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Giáo dục là quá trình chuyển giao những kinh nghiệm lịch sử từ thế hệ này
sang thế hệ khác, là quá trình truyền đạt những kiến thức khoa học, tri thức của xã
hội cho những công dân của đất nước. Ở nước ta công tác giáo dục và dạy học đã
được coi trọng từ những năm đầu của thế kỷ 11. Tuy nhiên phương pháp dạy học
xưa phần nhiều chỉ là cách “sồi kinh nấu sử”. Bước sang thời kỳ hiện đại các cấp,
bậc học, các ngành học cũng được phân định rạch rịi hơn, giáo dục phổ thơng và
giáo dục chun nghiệp cũng có ranh giới cụ thể. Nếu giáo dục phổ thơng là q
trình giới thiệu và khái qt để dần dần con người hình thành nhân cách, thì giáo
dục chuyên nghiệp hình thành kỹ năng, kỹ xảo, thái độ nghề nghiệp của mỗi cơng
dân trong xã hội để duy trì sự sống và phát triển xã hội. Ngay vừa thoát khỏi cảnh
đô hộ hơn một trăm năm dưới ách đô hộ và cai trị của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã coi 3 thứ giặc xếp vào hàng nguy hiểm nhất của một dân tộc đó là:
“giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”. Trong cuộc chiến tranh “trường kỳ” với
hàng trăm ngàn khó khăn, gian khổ, phải đương đầu với một đế quốc có tiềm năng
quân sự và kinh tế đứng đầu thế giới, Đảng và Nhà nước ta dưới sự lãnh đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn chủ trương vừa chiến đấu vừa chuẩn bị nhân lực để xây
dựng.
Ngày nay, thực hiện chính sách mở cửa, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xã
hội hoá giáo dục và đào tạo, làm cho sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp chung của
mỗi người dân, với quyết tâm cháy bỏng: chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu, với
chiến lược sáng tạo đi tắt - đón đầu. Thực chất q trình phát triển giáo dục nói
chung và q trình phát triển đội ngũ giáo viên của ngành giáo dục chuyên nghiệp
và dạy nghề nói riêng đó là cách nâng cao ý thức của toàn xã hội đối với giáo dục,

huy động các lực lượng, các nguồn lực của xã hội để phát triển quy mô và chất
lượng của giáo dục, đồng thời biến giáo dục thành quyền và nghĩa vụ của mọi
người dân, thành phúc lợi của toàn dân, thành dịch vụ cho mỗi cá nhân có nhu cầu
và điều kiện muốn học tập, phát triển. Đây cũng là cách để cho nền giáo dục nước
6


nhà có chất lượng cao, có khả năng đào tạo những người thực tài, có tầm nhìn
chiến lược, có ý thức vươn lên hàng đầu, có năng lực sáng tạo và cạnh tranh quốc
tế, có khả năng biến trí thức thành sản phẩm, lợi ích kinh tế.
Xuất phát từ những nhận thức trên, từ năm 1990 đến nay các chính sách của
Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến lĩnh vực giáo dục đào tạo và phát triển giáo
viên.
Ngày 24/11/1993 Chính Phủ ban hành nghị định số 90/CP về đa dạng hố
các loại hình trường lớp và hình thức đào tạo.
Quyết định 255/CT của Chính phủ: Chuyển một số trường Trung cấp chuyên
nghiệp và dạy nghề từ các bộ, tổng cục về trực thuộc các Tổng Công ty.
Ngày 15 tháng 6 năm 2004, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW về
việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Ngày 11/12/1998 Chủ tịch nước đã công bố lệnh ban hành “Luật giáo dục”,
luật có hiệu lực ngày 01/01/1999 - Ngày 27/06/2005 ban hành “Luật giáo dục” sửa
đổi dựa trên cơ sở nội dung của Luật ban hành năm 1998 đã được sửa đổi ở nhiều
điều khoản cho phù hợp với xu thế phát triển của đất nước, khu vực và quốc tế.
Tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 6 khoá IX (tháng 11/ 04) Bộ trưởng Bộ Giáo
dục - Đào tạo nhấn mạnh: “Khâu quan trọng nhất là người thầy. Tất cả hoạt động
của chúng ta sẽ triển khai sắp tới phải xoay quanh vấn đề xây dựng đội ngũ giáo
viên, bởi thầy giáo giỏi, tâm huyết với sự nghiệp mới có trị giỏi, có đội ngũ giáo
viên đủ về số lượng, đảm bảo về cơ cấu hợp lý, có chất lượng về chun mơn, đạo
đức thì mới có thể đưa giáo dục phát triển”.
Chỉ thị 40 - CT/TƯ, ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư Trung ương

Đảng cũng chỉ rõ: “Trước những yêu cầu mới… đội ngũ nhà giáo có những hạn
chế, bất cập. Số lượng giáo viên còn thiếu nhiều… cơ cấu giáo viên đang mất cân
đối giữa các môn học, bậc học... Chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ… chưa đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và phát triển KT – XH”
Tại chương IV về “Nhà giáo” điều 70 - Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi bổ sung
2009): 1 - Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường và
các cơ sở giáo dục khác. Về chính sách đối với Nhà giáo, điều 80: “Nhà nước có
chính sách bồi dưỡng nhà giáo về chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ
chuẩn hố nhà giáo. Nhà giáo được cử đi học nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên
7


môn nghiệp vụ, được hưởng lương và phụ cấp theo quy định của Chính phủ”. Điều
81 - Quy định về chế độ tiền lương; điều 82 quy định thêm về chính sách đối với
nhà giáo. Luật đã thể hiện cao nhất về việc phát triển không ngừng về cả số lượng,
chất lượng, kinh tế và chính sách cho mọi người làm cơng tác giáo dục và giảng
dạy, điều đó đã thể hiện tính ưu việt của đường lối lãnh đạo của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước dành cho đội ngũ giáo viên nói riêng và cán bộ quản
lý Giáo dục - Đào tạo nói chung.
Ở nước ta trong thời gian qua, vấn đề quản lý Giáo dục - Đào tạo nói chung,
quản lý đội ngũ giáo viên nói riêng đã có nhiều tác giả đề cập và nghiên cứu dưới
nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Đặc biệt là sau khi có Nghị quyết TW2 Khố
VIII, Bộ Giáo dục - Đào tạo và nhiều tác giả đã có những cơng trình nghiên cứu về
cơng tác quản lý giáo dục như: “Quản lý giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam” (Phạm
Văn Kha -Hà Nội, 1999); “Quản lý quá trình giáo dục đào tạo” (Nguyễn Đức Trí –
Hà Nội, 1999); “Tổ chức quản lý quá trình giáo dục đào tạo” (Nguyễn Minh
Đưỡng – Hà Nội, 1996); “Nghiên cứu việc bồi dưỡng cán bộ giảng dạy (CBGD)
đại học và giáo viên dạy nghề” (Phạm Thành Nghị, 1993); “Chương trình bồi
dưỡng cán bộ và công chức nhà nước” (Học viện hành chính Quốc gia, 1996);
“Chương trình bồi dưỡng cán bộ cơng chức nhà nước ngành Giáo dục - Đào tạo”

(Trường cán bộ quản lý giáo dục Trung ương 2, 1997); “Giáo dục Việt nam những
thập niên đầu thế kỷ XXI chiến lược phát triển” (Đặng Bá Lãm – Nhà xuất bản
giáo dục, 2003).
Một số đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ quản lý giáo dục như: “Một số giải
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các trường TCCN trên địa bàn quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” năm 2010 của Nguyễn Hồng Hải; “Một số giải
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở các trường TCCN trên địa bàn
Thành phố Hà Nội” năm 2010 của Nguyễn Văn Thun.
Hầu hết các cơng trình khoa học nói trên đều nghiên cứu vấn đề ở tầm vĩ mơ,
có tính định hướng trên phạm vi rộng. Xuất phát từ yêu cầu thực tế trong tình hình
hiện nay của các trường Trung cấp chuyên nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội
nói chung và trường Trung cấp Bách nghệ Hà Nội nói riêng, việc triển khai nghiên
cứu đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Trường Trung
cấp Bách nghệ Hà Nội” là công việc cần thiết. Đó cũng là một địi hỏi mang tính
8


khách quan, giúp cho việc quản lý đào tạo trong nhà trường có cơ sở khoa học và
đạt hiệu quả, nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp
cơng nghiệp hố – hiện đại hoá Thành phố.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Cán bộ quản lý, quản lý nhà trường, trường TCCN
1.2.1.1. Cán bộ quản lý
Lịch sử phát triển xã hội loài người từ thời kỳ sơ khai đến nền văn minh hiện
đại ngày nay có 3 yếu tố cơ bản là tri thức, sức lao động và quản lý. Trong đó quản
lý là sự kết hợp giữa tri thức với sức lao động. Khái niệm quản lý đã xuất hiện từ
lâu và ngày càng hồn thiện cùng với lịch sử hình thành và phát triển của xã hội
lồi người.
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý. Dưới đây là một số
quan niệm chủ yếu:

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động
theo những yêu cầu nhất định” [32; 78].
F.W Taylor cho rằng: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người
khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hồn thành cơng việc một cách tốt nhất
và rẻ nhất” [28; 89].
Harold Koontz thì khẳng định: “Quản lý là hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo
phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của tổ
chức” [22; 31].
Thomas J. Robbins - Wayned Morrison cho rằng: “Quản lý là một nghề
nhưng cũng là một nghệ thuật, một khoa học” [33; 19].
Ở nước ta, có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý:
Theo Đặng Vũ Hoạt - Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình có định
hướng, q trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống là quá trình tác động đến hệ
thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng
cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn” [18; 17].
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế họach
của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (khách thể quản lý) nhằm
thực hiện những mục tiêu dự kiến” [26; 24].

9


Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực)
một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [19; 4].
Xét với tư cách là một hành động, theo tác giả Vũ Ngọc Hải: “Quản lý là sự
tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm
đạt mục tiêu đề ra” [16; 11].
Xét theo chức năng quản lý: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ

chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo
(lãnh đạo) và kiểm tra” [5; 11].
Tiếp cận trên phương diện hoạt động của một tổ chức, theo tác giả Mạc Văn
Trang: “Quản lý là một quá trình chủ thể (quản lý) tác động đến đối tượng (quản
lý) một cách có chủ đích, có tổ chức dựa trên các nguồn lực và những điều kiện có
thể có, nhằm đạt được mục đích đã xác định” [30; 22].
Theo tác giả Phạm Khắc Chương, hoạt động quản lý bao gồm hai q trình tích
hợp với nhau: đó là, q trình “quản” và q trình “lý”. Q trình “quản” bao gồm sự
coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” bao gồm sự sửa sang,
sắp xếp, đổi mới hệ thống, đưa hệ thống vào thế phát triển. Như vậy, quản lý chính là
hoạt động tạo ra sự ổn định và thúc đẩy sự phát triển của tổ chức đến một trạng thái
mới có chất lượng mới cao hơn [9].
Quản lý gồm các yếu tố: chủ thể quản lý, đối tượng bị quản lý (gọi tắt là đối
tượng quản lý), khách thể quản lý và mục tiêu quản lý. Bốn yếu tố này được biểu
hiện qua sơ đồ sau (hình 1.1):
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ biểu diễn sự liên hệ giữa các yếu tố của quản lý.
Chủ

Chủ thể
quản lý

Đối tượng
quản lý

Mục tiêu
quản lý

Khách thể
quản lý


Tóm lại, có thể hiểu: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra”.
1.2.1.2. Quản lý nhà trường

10


Nhà trường là thiết chế chuyên biệt của xã hội, là nơi thực hiện và quản lý
quá trình giáo dục. Quá trình này được thực hiện bởi hai chủ thể: người được giáo
dục (người học) và người giáo dục (người dạy). Nhà trường trong nền kinh tế công
nghiệp không chỉ là thiết chế sư phạm đơn thuần. Công việc diễn ra trong nhà
trường có mục tiêu cao nhất là hình thành “Nhân cách - Sức lao động”, phục vụ
phát triển cộng đồng làm tăng cả nguồn vốn con người, vốn tổ chức và vốn xã hội.
Theo tác giả Trần Kiểm và Bùi Minh Hiền: “Quản lý nhà trường là hệ thống
những tác động có hướng đích của hiệu trưởng đến con người (GV, cán bộ nhân
viên và HS), đến các nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, thơng tin, v.v…) hợp quy
luật (quy luật quản lý, quy luật giáo dục, quy luật tâm lý, quy luật kinh tế, quy luật
xã hội, v.v…) nhằm đạt mục tiêu giáo dục”. [20; 39].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý trường học là thực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng HS” [26; 124 ].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục là tổ chức
hoạt động dạy học… Có tổ chức được hoạt động dạy học, thực hiện được các tính
chất của nhà trường phổ thơng Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới quản lý được giáo dục,
tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực,
đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước” [15; 53].
Theo tập thể tác giả P. V. Zimin, M. I. Kônđakôp, N. I. Xaxerđôtôp: “Quản
lý nhà trường là hệ thống xã hội sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi những
tác động ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý lên tất cả các mặt

của đời sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu xã hội – kinh tế và tổ chức
sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang lớn lên” [34].
Điều 54 Luật Giáo dục năm 2005 quy định: “Hiệu trưởng là người chịu trách
nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
bổ nhiệm, cơng nhận” [24; 21]. Điều 16 của Điều lệ trường TCCN cũng quy định:
“Hiệu trưởng trường TCCN là người chịu trách nhiệm quản lý và điều hành các
hoạt động của nhà trường theo quy định của Điều lệ này và các quy định của pháp
luật có liên quan” [4; 9].

11


Như vậy, có thể coi hiệu trưởng là người đại diện cho quyền lực nhà
nước điều hành và chịu mọi trách nhiệm về mọi hoạt động trong nhà trường.
Quản lý nhà trường là quản lý toàn diện mọi hoạt động, mọi nguồn lực của nhà
trường; trong đó quản lý hoạt động dạy học là cơ bản, đặc trưng của trường
học, quản lý đội ngũ giáo viên mang tính quyết định trong việc thực hiện mục
tiêu giáo dục. Do đó, muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý nhà
trường, trong quản lý nhà trường phải coi công tác phát triển đội ngũ giáo viên
là một trong những nhiệm vụ cơ bản, quan trọng của hiệu trưởng.
1.2.1.3. Trường Trung cấp chuyên nghiệp
Giáo dục nghề nghiệp là một bộ phận hữu cơ của hệ thống giáo dục quốc
dân, có nhiệm vụ đào tạo ra một đội ngũ người lao động có nghề nghiệp với
những kiến thức lý thuyết và kỹ năng thực hành cần thiết. Nó có quan hệ với
giáo dục phổ thông nhằm tạo cho con người những khả năng phát triển về nhân
cách, năng động, biết thích nghi với mọi biến động của môi trường. Giáo dục kỹ
thuật và nghề nghiệp cũng chính là giáo dục con người có văn hóa.
Theo quy định tại Chương II Luật Giáo dục năm 2005, Hệ thống giáo dục
quốc dân Việt Nam bao gồm 4 loại hình giáo dục sau:
- Giáo dục Mầm non thực hiện việc ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3

tháng tuổi đến 6 tuổi.
- Giáo dục phổ thông: bao gồm các bậc, cấp học sau:
+ Giáo dục Tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp
năm. Tuổi của HS vào học lớp một là sáu tuổi;
+ Giáo dục THCS được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu đến lớp
chín. HS vào học lớp sáu phải hồn thành chương trình tiểu học, có tuổi là mười
một tuổi;
+ Giáo dục THPT được thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười đến lớp
mười hai. HS vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp THCS, có tuổi là mười
lăm tuổi.
- Giáo dục nghề nghiệp bao gồm:
+ TCCN được thực hiện từ ba đến bốn năm học đối với người có bằng
tốt nghiệp THCS, từ một đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp
THPT;
12


+ Dạy nghề được thực hiện dưới một năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ
cấp, từ một đến ba năm đối với đào tạo nghề trình độ TC, trình độ CĐ.
- Giáo dục ĐH bao gồm:
+ Đào tạo trình độ CĐ được thực hiện từ hai đến ba năm học tùy theo ngành
nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp THPT hoặc bằng tốt nghiệp TC; từ
một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp TC cùng chun
ngành;
+ Đào tạo trình độ ĐH được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp THPT hoặc bằng tốt nghiệp
TC; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp TC cùng
chuyên ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp
CĐ cùng chuyên ngành;
+ Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với

người có bằng tốt nghiệp ĐH;
+ Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối với người
có bằng tốt nghiệp ĐH, từ hai đến ba năm học đối với người có bằng thạc sĩ. Trong
trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo dài theo quy
định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể việc đào tạo trình độ tương đương
với trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ ở một số ngành chuyên môn đặc biệt.
Trường TCCN là cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân. Trường TCCN là cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc bậc TC có đào tạo liên
thơng với các trường THCS, THPT, dạy nghề, CĐ, ĐH trong hệ thống giáo dục
quốc dân.
Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức,
kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau và có đạo đức, lương tâm nghề
nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho
người lao động có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học tập
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH,
củng cố quốc phòng an ninh. Mục tiêu của giáo dục TCCN nhằm đào tạo người lao
động có kiến thức, kỹ năng thực hành cơ bản của một nghề, có khả năng làm việc
độc lập và có tính sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào công việc.
13


Điều 3 của Điều lệ trường TCCN quy định nhiệm vụ và quyền hạn của
trường TCCN như sau:
- Xây dựng chỉ tiêu tuyển sinh, tổ chức tuyển sinh, tổ chức giảng dạy, học
tập, quản lý người học và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu, chương trình
giáo dục; công nhận tốt nghiệp và cấp văn bằng, chứng chỉ theo thẩm quyền;
- Xây dựng chương trình đào tạo, kế hoạch giảng dạy trên cơ sở chương
trình khung do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Tổ chức biên soạn và duyệt giáo
trình của các ngành đào tạo trên cơ sở thẩm định của Hội đồng thẩm định do Hiệu

trưởng nhà trường thành lập;
- Tổ chức nghiên cứu khoa học; ứng dụng, phát triển và chuyển giao công
nghệ; thực hiện các dịch vụ khoa học - kỹ thuật, sản xuất kinh doanh theo quy định
của pháp luật;
- Tổ chức bộ máy nhà trường, tuyển dụng, quản lý, sử dụng và đãi ngộ cán
bộ, viên chức;
- Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng giáo dục
của cơ quan có thẩm quyền về kiểm định chất lượng giáo dục. Xây dựng hệ thống
giám sát và đánh giá chất lượng giáo dục;
- Được nhà nước giao hoặc cho thuê đất, giao hoặc cho thuê cơ sở vật chất;
được miễn, giảm thuế; vay tín dụng; huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực
theo quy định của pháp luật;
- Xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa;
- Sử dụng nguồn thu từ hoạt động kinh tế để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
nhà trường, mở rộng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và chi cho các hoạt động giáo
dục theo quy định của pháp luật;
- Phối hợp với gia đình người học, tổ chức, cá nhân, trong hoạt động giáo
dục; tổ chức cho cán bộ, viên chức và người học tham gia các hoạt động xã hội;
- Liên kết với các tổ chức kinh tế, giáo dục, văn hóa, thể dục, thể thao, y tế,
nghiên cứu khoa học của nước ngoài theo quy định;
- Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và các nhiệm vụ, quyền hạn
khác theo quy định của pháp luật.

14


1.2.2. Giáo viên, đội ngũ giáo viên, giáo viên TCCN
1.2.2.1. Giáo viên
Theo Từ điển Giáo dục: “GV là chức danh nghề nghiệp của người dạy học
trong các trường phổ thông, trường dạy nghề, trường mầm non, đã tốt nghiệp các

trường sư phạm sơ cấp, TC, CĐ, ĐH hoặc sư phạm mẫu giáo. GV là người truyền
thụ toàn bộ các kiến thức và kỹ năng quy định trong chương trình bộ môn của bậc
học, cấp học” [31; 142].
Điều 70 của Luật Giáo dục năm 2005 quy định: “Nhà giáo là người làm
nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường hoặc các cơ sở giáo dục khác”
và “Nhà giáo dạy ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp gọi là GV; ở cơ sở giáo dục ĐH gọi là giảng viên” [24,27]
Như vậy, trong các trường TCCN những người làm nhiệm vụ giảng dạy
được gọi là GV.
GV phải bảo đảm các tiêu chuẩn quy định ở Điều 70 Luật Giáo dục:

- Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt;
- Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ;
- Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp;
- Lý lịch bản thân rõ ràng.
GV phải có nhiệm vụ ghi ở Điều 72 Luật Giáo dục năm 2005:
- Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ
và có chất lượng chương trình giáo dục;
- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và
điều lệ trường TCCN;
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách của
người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng
của người học;
- Khơng ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ
chính trị, chun mơn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt
cho người học;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra nhà giáo còn là một viên chức nhà nước, vì vậy nhà giáo cịn phải
tn theo pháp lệnh cán bộ công chức, viên chức.
15



1.2.2.2. Đội ngũ giáo viên
Theo Từ điển tiếng Việt: “Đội ngũ là tập hợp một số đông người, cùng chức
năng nghề nghiệp thành một lực lượng” [32; 197].
Có thể hiểu: đội ngũ là một tập hợp người, có cùng lý tưởng, mục đích, làm
việc theo sự phân cơng hay theo một kế hoạch, được gắn bó với nhau bởi lợi ích
vật chất và tinh thần.
Khi đề cập đến khái niệm đội ngũ giáo viên, một số tác giả nước ngoài đã
nêu lên quan niệm: đội ngũ giáo viên là những chuyên gia trong lĩnh vực giáo
dục, họ nắm vững tri thức, hiểu biết dạy học và giáo dục như thế nào và có khả
năng cống hiến tồn bộ sức lực và tài năng của họ đối với giáo dục.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc quan niệm: “Đội ngũ giáo viên trong ngành
giáo dục là một tập thể người, bao gồm cán bộ quản lý, GV và nhân viên; nếu chỉ
đề cập đến đặc điểm của ngành thì đội ngũ đó chủ yếu là đội ngũ giáo viên và
CBQL giáo dục” [15; 10].
Từ những quan niệm đã nêu trên, có thể hiểu đội ngũ giáo viên như sau: Đội
ngũ giáo viên là một tập hợp những người làm nghề dạy học - giáo dục, được tổ
chức thành một lực lượng, cùng chung một nhiệm vụ, có đầy đủ các tiêu chuẩn của
một nhà giáo, cùng thực hiện các nhiệm vụ và được hưởng các quyền lợi theo Luật
Giáo dục và các luật khác được Nhà nước quy định.
Từ khái niệm đội ngũ giáo viên nói chung, cịn có khái niệm đội ngũ cho từng
bậc học, cấp học như: đội ngũ giáo viên mầm non, đội ngũ giáo viên tiểu học, đội ngũ
giáo viên THCS, đội ngũ giáo viên THPT, đội ngũ giáo viên dạy nghề, đội ngũ giáo
viên TCCN.
1.2.2.3. Giáo viên TCCN
Điều 33 của Điều lệ trường TCCN quy định tiêu chuẩn của GV trường
TCCN như sau:
- Có phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt;
- Có bằng tốt nghiệp ĐH sư phạm hoặc có bằng tốt nghiệp ĐH và chứng chỉ

bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
- Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp;
- Lý lịch bản thân rõ ràng.

16


GV trường TCCN phải thực hiện nhiệm vụ ghi ở Điều 34 trong Điều lệ
trường TCCN tương tự như nhiệm vụ GV nói chung được ghi trong Điều 72 của
Luật Giáo dục năm 2005.
Ngoài những nhiệm vụ được quy định tại Điều 34 trên, GV trường TCCN
cịn tham gia cơng tác chủ nhiệm lớp quy định tại Điều 36 của Điều lệ như sau:
- Giúp hiệu trưởng trong việc quản lý, giáo dục và rèn luyện người học;
- Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn các hoạt động của lớp học do mình phụ trách;
- Phối hợp với các GV bộ mơn, các tổ chức trong và ngồi nhà trường, gia
đình người học để quản lý và giáo dục người học.
Như vậy, GV trường TCCN là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục
trong nhà trường, nhằm thực hiện nhiệm vụ truyền tải kiến thức khoa học kỹ
thuật, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, xây dựng và hình thành nhân cách, tác phong
công nghiệp cho người học đáp ứng với yêu cầu sự phát triển của xã hội.
1.2.3. Quản lý phát triển chất lượng đội ngũ giáo viên
Đội ngũ giáo viên là nguồn nhân lực cơ bản, quan trọng nhất trong việc duy
trì và nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Phát triển đội ngũ giáo viên
chính là phát triển nguồn nhân lực sư phạm trong nhà trường.
Theo Mạc Văn Trang: “Phát triển nguồn nhân lực là phạm trù chỉ sự tăng
tiến, chuyển biến theo chiều hướng tích cực của các thành viên trong tổ chức
trong việc hoàn thành mục tiêu mà tổ chức đã đề ra. Về cơ bản là gia tăng giá
trị con người trên các mặt đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực, làm cho
con người trở thành những người lao động có năng lực và phẩm chất mới, đáp
ứng yêu cầu của sự phát triển KT – XH và sự nghiệp CNH - HĐH” [30; 43].

Như vậy, phát triển đội ngũ giáo viên - nguồn nhân lực sư phạm là thực hiện
các biện pháp để tạo ra sự tăng trưởng bền vững của mỗi thành viên và hiệu quả
chung của nhà trường, gắn liền với việc không ngừng tăng lên về mặt chất lượng và
số lượng của đội ngũ, cũng như chất lượng sống của nhân lực.
Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên có nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng
nhìn chung có 3 quan điểm như sau:
- Quan điểm phát triển đội ngũ giáo viên lấy cá nhân người GV làm trọng
tâm: quan niệm trọng tâm của công tác phát triển đội ngũ giáo viên là tạo ra sự
chuyển biến tích cực của các cá nhân GV dựa trên những nhu cầu của họ. Mục
17


đích là nhằm khuyến khích tài năng, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ và như
vậy thúc đẩy sự phát triển nghề nghiệp của GV, đặc biệt là trong hoạt động giảng
dạy. Quan điểm này tuyệt đối hóa vai trò của GV mà thiếu sự cân nhắc nhu cầu
phát triển của nhà trường.
- Quan điểm phát triển đội ngũ giáo viên là một trong những nhiệm vụ của nhà
trường: quan niệm mục tiêu của nhà trường là cơ sở cho việc phát triển đội ngũ giáo
viên, sự phát triển đội ngũ giáo viên là sự phát triển của nhà trường. Điều này dẫn đến
quan niệm rằng phát triển đội ngũ giáo viên là công việc của nhà trường, là việc thực
hiện mục tiêu của nhà trường. Theo quan điểm này thì nhu cầu của GV trở nên mờ
nhạt, khơng phát huy tính năng động, tích cực, sáng tạo của đội ngũ, thường dẫn đến
việc quản lý phát triển đội ngũ giáo viên kém hiệu quả.
- Quan điểm phát triển đội ngũ giáo viên trên cơ sở kết hợp cá nhân GV với
nhà trường: hợp tác, cộng đồng trách nhiệm giữa nhà trường và cá nhân GV là cơ
sở cho việc phát triển đội ngũ giáo viên. Quan điểm này có sự kết hợp hài hịa giữa
nhu cầu cá nhân GV và nhu cầu của nhà trường trong sự phát triển đội ngũ giáo
viên, nhằm bảo đảm cho nhà trường ổn định và phát triển bền vững. Tuy nhiên,
không phải lúc nào nhu cầu của đơi bên cùng hịa hợp vì thế trong cơng tác quản lý
phát triển đội ngũ giáo viên, nhà quản lý cần phải phân tích kỹ nhu cầu cá nhân

thông qua nhu cầu của nhà trường để xây dựng kế hoạch chiến lược cho sự phát
triển đội ngũ giáo viên.
Tóm lại, nếu vận dụng quan điểm đề cao nhu cầu cá nhân GV thì thiếu sự tập
trung trong quản lý phát triển đội ngũ giáo viên. Nếu vận dụng quan điểm lấy mục
tiêu của nhà trường làm cơ sở cho việc phát triển đội ngũ giáo viên thì sẽ tạo ra sự
kém năng động trong đội ngũ giáo viên. GV cho rằng việc đào tạo, bồi dưỡng là
nhiệm vụ bắt buộc cho nên GV chỉ làm chiếu lệ, khơng kích thích sự sáng tạo, gây
lãng phí thời gian, cơng sức. Vì vậy, mỗi nhà trường cần vận dụng, nghiên cứu sự
tương tác giữa nhu cầu phát triển của nhà trường với nhu cầu của giáo viên để tạo sự
phát triển bền vững, ổn định lâu dài và hết sức năng động.

18


1.3. Vai trò phát triển đội ngũ giáo viên và chất lượng đội ngũ giáo viênTCCN
1.3.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng phát triển đội
ngũ giáo viên và chất lượng đội ngũ giáo viên
Trong sự hình thành và phát triển của nhà nước ta, lịch sử đã chứng minh,
người thầy giáo bao giờ cũng được nhân dân yêu mến, kính trọng và quan tâm,
chăm sóc về mọi mặt. “Tơn sư trọng đạo” đã trở thành truyền thống quý báu của
dân tộc Việt Nam. Ngày nay, muốn phát triển mạnh nền giáo dục với chất lượng và
hiệu quả cao, nhằm tạo nền tảng và động lực vững chắc cho sự nghiệp CNH HĐH đất nước, trước hết phải có đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục đảm bảo tiêu
chuẩn, điều kiện. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam rất quan tâm xây
dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục. Trong thời kỳ đổi mới giáo dục đã có
nhiều chỉ thị về lĩnh vực này.
Trong văn kiện Hội nghị TƯ 2 khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Tại Đại hội lần thứ IX quan
điểm này tiếp tục được khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH - HĐH, là điều kiện để phát
huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế

nhanh và bền vững” [9; 108,109].
Trong Chiến lược phát triển Giáo dục giai đoạn từ năm 2010 - 2020, Nhà
nước tăng cường phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển xã hội. Nhà nước luôn
coi đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển, khuyến khích tồn xã
hội, các thành phần kinh tế kể cả kinh tế tư nhân chăm lo đầu tư cho giáo dục;
trong đó đầu tư phát triển đội ngũ nhà giáo phải đảm bảo về chất lượng là ưu tiên,
là giải pháp trọng tâm. Chiến lược này cũng khẳng định: “… phát triển đội ngũ nhà
giáo, đảm bảo đủ số lượng, hợp lý về cơ cấu và chuẩn về chất lượng đáp ứng nhu
cầu vừa tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục” [6; 11].
Chỉ thị số 18/2001/TTg của Thủ tướng Chính phủ đã nêu ra các biện pháp cấp
bách xây dựng đội ngũ nhà giáo của hệ thống giáo dục quốc dân. Nghị định
35/2001/NĐ-CP đã nêu chính sách đối với nhà giáo, CBQL cơng tác ở trường chuyên
biệt, ở vùng có điều kiện KT - XH đặc biệt khó khăn.

19


Ban Bí thư TƯ có Chỉ thị 40/CT-TƯ về xây dựng đội ngũ nhà giáo và
CBQL giáo dục. Từ Chỉ thị này, ngày 11/01/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ra
quyết định phê duyệt đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và
CBQL giáo dục giai đoạn 2005 – 2010” với nội dung: “Xây dựng đội ngũ nhà giáo
và CBQL giáo dục theo hướng chuẩn hóa, nâng cao chất lượng, bảo đảm số lượng,
đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chun mơn của nhà giáo, đáp
ứng địi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc đẩy mạnh CNH
- HĐH đất nước”.
Chủ trương giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho phát triển, xây dựng và chăm lo cho đội ngũ nhà giáo làm nền tảng để đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH là chủ trương đúng

đắn của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, đồng thời nó phù hợp với sự phát triển KT
– XH đất nước.
1.3.2. Vai trò của việc phát triển đội ngũ giáo viên
Đội ngũ giáo viên và đội ngũ CBQL giáo dục có vai trị rất quan trọng cho sự
thành bại của sự nghiệp giáo dục. Sứ mệnh của họ có ý nghĩa cao cả đặc biệt. Họ là bộ
phận lao động tinh hoa của đất nước. Lao động của họ trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy sự
phát triển đất nước, cộng đồng đi vào trạng thái phát triển bền vững.
Theo Luật Giáo dục năm 2005 thì “Nhà giáo giữ vai trị quan trọng trong
việc đảm bảo chất lượng giáo dục” [24; 5].
Ngày nay, xu thế tồn cầu hóa, quốc tế hóa đang phát triển mạnh mẽ. Sự
phát triển người – nhân tố hàng đầu của sự phát triển KT – XH thì vai trò của nhà
trường càng trở nên quan trọng. Nhưng nhân tố làm nên bộ mặt nhà trường lại
chính là GV, những người được xã hội giao cho trọng trách đào tạo thế hệ trẻ,
người chủ tương lai. Đặc biệt, môi trường giáo dục trên thế giới biến đổi rất nhanh
chóng, kỳ vọng của xã hội đối với nhà trường rất lớn, do đó trách nhiệm của GV
càng nặng nề hơn. Điều đó địi hỏi GV ngày càng hồn thiện mình hơn. Như vậy,
việc phát triển đội ngũ giáo viên là yêu cầu tất yếu khách quan đối với nhà trường
và bản thân GV.

20


1.3.3. Yêu cầu của việc phát triển đội ngũ giáo viên TCCN
Nội dung phát triển đội ngũ giáo viên gồm 3 yếu tố: số lượng, cơ cấu và chất
lượng. Ba yếu tố này tạo thành sơ đồ sau:

Sơ đồ 1.2. Sơ đồ nội dung phát triển đội ngũ giáo viên
Chất lượng

Phát

triển
đội ngũ
giáo
viên
Cơ cấu

Số lượng

1.3.3.1. Đủ về số lượng
Theo Từ điển tiếng Việt: số lượng thành viên của đội ngũ thể hiện bằng độ
rộng lớn về mặt tổ chức.
Số lượng GV trong nhà trường TCCN được tính theo tỷ lệ HS/GV đã được quy
định ở Quyết định số 693/QĐ-BGDĐT, ngày 07/02/2007 và Hướng dẫn số
1325/BGDĐT - KHTC, ngày 09/02/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy
định như sau: ngành đào tạo kỹ thuật, công nghệ, xây dựng, cơ khí, giao thơng, điện
tử là <= 25; ngành đào tạo kinh tế, tài chính, ngân hàng, văn hóa, du lịch, báo chí, thư
viện, khoa học xã hội nhân văn, sư phạm là <= 30; ngành đào tạo y dược, nghệ thuật,
thể dục thể thao là <= 20.
21


Số lượng GV trường TCCN còn bị chi phối bởi việc bố trí, sắp xếp đội ngũ,
định mức giờ dạy, quy định giờ trội,…
1.3.3.2. Đồng bộ về cơ cấu
Theo tác giả Bùi Văn Quân: “Cơ cấu là hình thức tồn tại của hệ thống phản
ánh cách thức sắp xếp các phần tử, phân hệ và mối quan hệ của chúng theo một
dấu hiệu nhất định” [27; 23].
Cơ cấu đội ngũ giáo viên đồng bộ cần chú ý đến sự tương thích giữa giới
tính, chun mơn, độ tuổi và trình độ nghiệp vụ sư phạm.
- Cơ cấu đội ngũ giáo viên theo giới tính: một thực tế là ở nước ta đang gặp

khó khăn về hiện tượng nữ hóa đội ngũ giáo viên. Nếu chỉ xét về tỷ trọng cơ cấu
giới tính đội ngũ giáo viên trong trường TCCN, có thể khơng nói lên điều gì về sự
phát triển giới. Tuy nhiên, về khía cạnh như: điều kiện để đào tạo nâng cao, bồi
dưỡng thường xuyên, thời gian học tập cá nhân, thời gian nghỉ dạy do sinh đẻ, con
ốm… lại là yếu tố tác động đến chất lượng đội ngũ. Do đó, cơ cấu về giới tính liên
quan đến chất lượng giáo dục và đào tạo.
Nghiên cứu cơ cấu giới tính trong đội ngũ giáo viên là để có những tác động
thích hợp nhằm giúp các nhà tổ chức định ra công tác quản lý đạt hiệu quả trong việc
nâng cao chất lượng, hiệu quả của từng cá nhân và cả đội ngũ giáo viên.
- Cơ cấu đội ngũ giáo viên theo chun mơn: đó là tổng thể tỷ trọng GV của
môn học theo ngành học ở cấp tổ chuyên môn, cấp khoa. Nếu tỷ lệ này vừa đủ, phù
hợp với định mức quy định đối với trường TCCN thì ta có được một cơ cấu đội
ngũ giáo viên theo chun mơn hợp lý. Ngược lại thì phải điều chỉnh, nếu không sẽ
ảnh hưởng tới hiệu quả của các hoạt động giáo dục và đào tạo.
- Cơ cấu đội ngũ giáo viên theo độ tuổi: việc phân tích đội ngũ giáo viên
theo độ tuổi là nhằm xác định cơ cấu đội ngũ theo từng nhóm tuổi, là cơ sở để phân
tích thực trạng, chiều hướng phát triển của tổ chức làm cơ sở cho việc tuyển dụng,
đề bạt bổ nhiệm, đào tạo, bổ sung vào bộ máy tổ chức cho phù hợp với xu thế phát
triển chung.
- Cơ cấu đội ngũ giáo viên theo trình độ đào tạo: cơ cấu đội ngũ giáo viên
theo trình độ đào tạo là sự phân chia GV theo tỷ trọng của các trình độ được đào
tạo về chuyên môn, về nghiệp vụ sư phạm. Xác định được một cơ cấu hợp lý về

22


trình độ đào tạo và thực hiện các hoạt động liên quan để đạt đến cơ cấu đó cũng là
một giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
1.3.3.3. Nâng cao về chất lượng
Chất lượng đội ngũ giáo viên là một khái niệm rộng, nó bao hàm nhiều yếu

tố: trình độ được đào tạo của từng thành viên trong đội ngũ; thâm niên làm việc
trong tổ chức, thâm niên ở vị trí làm việc đã và đang đảm nhận; sự hài hòa các yếu
tố; đạo đức tư cách người thầy… Trong giai đoạn hiện nay, chuẩn về chất lượng
GV tạm quy về ba khía cạnh: trình độ chun mơn, trình độ nghiệp vụ sư phạm,
đạo đức tư cách người thầy.
Do đó, khi tìm những biện pháp thích hợp để thực hiện nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên cần nghiên cứu trong nhóm cơng việc: đào tạo cơ bản ban đầu về
chuyên môn, về nghiệp vụ sư phạm; đào tạo để đạt chuẩn và nâng chuẩn; bồi
dưỡng thường xuyên để cập nhật tri thức trong điều kiện khối lượng tri thức nhân
loại tăng lên nhanh chóng, sự đổi mới về giáo dục, sự thay đổi của nhà trường cũng
diễn ra không ngừng với tốc độ nhanh.
1.3.4. Đặc điểm giáo viên TCCN
Trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam quy định trường TCCN thuộc
bậc giáo dục nghề nghiệp. Với nội dung giáo dục nghề nghiệp là phải tập trung đào
tạo năng lực thực hành nghề nghiệp, coi trọng giáo dục đạo đức, rèn luyện sức
khoẻ, rèn luyện kỹ năng theo yêu cầu đào tạo của từng nghề, nâng cao trình độ học
vấn theo yêu cầu đào tạo. Phương pháp giáo dục nghề nghiệp là phải kết hợp rèn
luyện kỹ năng thực hành với giảng dạy lý thuyết để giúp người học có khả năng
hành nghề và phát triển nghề nghiệp theo yêu cầu của từng công việc. Do vậy, giáo
dục nghề nghiệp và giáo dục phổ thơng có nhiều điểm chung là nhằm vào mục tiêu
phát triển toàn diện nhân cách, nhưng cũng có điểm khác là giáo dục nghề nghiệp
cịn nhằm vào mục tiêu hình thành năng lực thực hành nghề nghiệp.
Nhà giáo dục học người Nga X. Ia. Batusep đã viết: Giáo dục học và giáo
dục nghề nghiệp có những khác biệt. Dạy thực hành (dạy sản xuất) trong các
trường nghề là một đặc điểm, chính việc dạy thực hành là bộ phận quan trọng nhất
của giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp.
Như vậy, đội ngũ giáo viên trường TCCN muốn làm tốt nhiệm vụ phải có
trình độ chun mơn, năng lực sư phạm, đạo đức; ngồi ra cịn phải có năng lực dạy
23



thực hành nghề nghiệp, năng lực này bao gồm: năng lực nắm vững kiến thức và kỹ
năng chuyên môn nghề, năng lực dạy thực hành nghề và giáo dục nghề, năng lực tổ
chức và quản lý sản xuất. Năng lực này của GV sẽ quyết định quan trọng đến việc
hình thành kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp của HS. Ví dụ người GV dạy thực hành kế
tốn máy, thì u cầu đối với GV đó là phải nắm vững kiến thức chun mơn kế
tốn, có năng lực sử dụng máy vi tính, năng lực sử dụng và khai thác phần mềm ứng
dụng kế toán, năng lực tổ chức và quản lý quy trình thực hành kế tốn, kết hợp chặt
chẽ với năng lực sư phạm trong quá trình dạy học để hình thành kỹ năng nghề
nghiệp cho HS …. Đặc biệt, trước yêu cầu mới của đất nước khi hội nhập quốc tế thì
yêu cầu đối với đội ngũ giáo viên trường TCCN ngày càng cao. Người GV trường
TCCN phải thường xuyên, liên tục học tập nâng cao trình độ, nhất là nâng cao kỹ
năng thực hành nghề thì mới theo kịp được yêu cầu của sản xuất và phát triển KT XH.
1.4. Chất lượng đội ngũ giáo viên đi đôi phát triển nguồn nhân lực
Theo các tác giả Nguyễn Minh Đường và Phan Văn Kha thì con người vừa
là một cá thể, vừa là một tập thể. Xét về mặt cá thể, con người vừa là một sinh thể
vừa là một nhân cách. Kết hợp tất cả các mặt cá nhân và tập thể, sinh thể và nhân
cách, con người có một tiềm ẩn to lớn, khi được sử dụng, khai thác một cách đúng
đắn thì tiềm năng đó được phát huy và con người trở thành động lực phát triển KT
- XH. Do vậy con người được gọi là nguồn nhân lực, là vốn quý của đất nước.
Phát triển nguồn nhân lực là một thuật ngữ thường được dùng trong nhiều
văn kiện. Tuy nhiên, đây là thuật ngữ chưa có một định nghĩa thống nhất và thường
được hiểu với nhiều mức độ rộng, hẹp khác nhau.
Với nghĩa hẹp, đó là q trình giáo dục, đào tạo và đào tạo lại, trang bị hoặc
bổ sung thêm những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết để mỗi con người có cơ
hội tìm việc làm, hoặc để hồn thành tốt hơn nhiệm vụ mà họ đang làm.Với nghĩa
rộng thì ngoài việc phát triển nhân cách và sinh thể/thể lực; cũng như mọi tài
sản khác, nguồn nhân lực chỉ thực sự có giá trị khi nó được khai thác và sử dụng
một cách có hiệu quả. Do vậy, khái niệm về phát triển nguồn nhân lực bao gồm
cả yếu tố sử dụng nhân lực một cách đúng đắn, tạo môi trường lao động phù hợp

và thuận lợi để mỗi con người lao động có hiệu quả.

24


Điều đặc biệt của nguồn nhân lực là ở chỗ con người lại khai thác, sử dụng
chính con người vì sự phát triển chung của xã hội và của con người. Nguồn tài
nguyên con người càng được sử dụng, càng khai thác và sử dụng một cách đúng
đắn thì nhân cách con người càng được phát triển trong quá trình lao động sáng
tạo; do vậy nguồn lực về con người lại càng phát triển.
Đội ngũ giáo viên là nguồn nhân lực cơ bản, quan trọng nhất trong việc
duy trì và nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Phát triển đội ngũ giáo
viên chính là phát triển nguồn nhân lực sư phạm trong nhà trường. Vì thế, khi
đặt vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên cần xem xét phát triển đội ngũ theo
hướng bổ sung mới; đồng thời phát triển đội ngũ giáo viên hiện có của nhà
trường trong bố trí, sử dụng, khai thác một cách đúng đắn, phù hợp với năng
lực, khả năng của từng thành viên; tạo môi trường làm việc thuận lợi cho đội
ngũ, đồng thời có chế độ, chính sách chăm lo để đội ngũ giáo viên phát triển hài
hòa cả trên hai mặt sinh thể lẫn nhân cách, cả về vật chất lẫn tinh thần nhằm làm
cho mỗi thành viên của đội ngũ có thể phát huy được mọi tiềm năng của mình
và cống hiến được nhiều cho nhà trường, cho xã hội cũng như cho chính bản
thân mình.
1.5. Đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên và phát triển đội ngũ giáo viên
trường TCCN
1.5.1. Đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên TCCN
Đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên phải gắn liền với việc quy hoạch về
cơ cấu, số lượng, chất lượng, ngành nghề hợp lý; tuyển chọn; sử dụng; đào tạo; bồi
dưỡng nhằm nâng cao trình độ năng lực; tạo môi trường thuận lợi cho việc phát
triển đội ngũ giáo viên.
1.5.2. Lập quy hoạch phát triển đội nghũ GV

Quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên: trên cơ sở từ thực trạng tình hình
phát triển đội ngũ giáo viên, lập kế hoạch dự báo, nhà quản lý tiến hành quy hoạch
đội ngũ sao cho đồng bộ về cơ cấu, đủ loại hình GV; đảm bảo số lượng và chất
lượng đội ngũ, cân đối về trình độ.
Lập kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên có thể tóm tắt các bước xây dựng
qua sơ đồ 1.3 dưới đây.

25


×