Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Vận dụng phương pháp hướng dẫn tự học trong giảng dạy môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác lênin (phần thứ nhất) ở trường cao đảng cộng đồng hậu giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (942.42 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
----------

LÊ MINH ĐẢNH

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN TỰ HỌC TRONG
GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC - LÊNIN (PHẦN THỨ NHẤT) Ở TRƯỜNG
CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG HẬU GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

ĐỒNG THÁP - 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
----------

LÊ MINH ĐẢNH

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN TỰ HỌC TRONG
GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC - LÊNIN (PHẦN THỨ NHẤT) Ở TRƯỜNG
CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG HẬU GIANG

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN & PPDH BỘ MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC



Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI VĂN DŨNG

ĐỒNG THÁP – 2012


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
các thấy giáo, cơ giáo Khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Vinh đã tận
tình truyền đạt những tri thức quý báu, đã dìu dắt giúp đỡ tơi hồn thành tốt
nhiệm vụ của khố học.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn sâu sắc tới TS.Bùi Văn Dũng,
Trưởng khoa Kinh tế, Trường Đại học Vinh, đã tận tình giúp đỡ tơi trong q
trình học tập, nghiên cứu và hướng dẫn, đóng góp ý kiến q báu cho tơi
hồn thành luận văn thạc sĩ này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Khoa Đào tạo Sau đại học Trường Đại học
Vinh và Đại học Đồng Tháp cùng tập thể Hội đồng sư phạm Trường Cao
đẳng Cộng đồng Hậu Giang, bạn bè, đồng nghiệp, sinh viên, gia đình và
người thân đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành
khố học và hoàn thành tốt luận văn thạc sĩ của mình.
Hậu Giang, tháng 7 năm 2012
Tác giả
Lê Minh Đảnh


MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG ..................................................................................................... 9
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG VẬN DỤNG

PHƢƠNG PHÁP HƢỚNG DẪN TỰ HỌC TRONG GIẢNG DẠY MÔN
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
(PHẦN THƢ NHẤT) Ở TRƢỜNG CĐCĐ HẬU GIANG.................................. 9

1.1. Cơ sở lý luận về tự học và phương pháp hướng dẫn tự học trong .......... 8
1.2. Sự cần thiết vận dụng phương pháp tự học ............................................ 16
Chƣơng 2: THỰC NGHIỆM HƢỚNG DẪN TỰ HỌC CHO SINH VIÊN
TRONG GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN (PHẦN I) Ở TRƢỜNG CAO
ĐẲNG VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT NGHỆ AN ...................................... 39

2.1. Kế hoạch thực nghiệm ............................................................................. 39
2.2. Tiến hành thực nghiệm ............................................................................ 40
2.3. Kết quả thực nghiệm ................................................................................ 67
Chƣơng 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY HIỆU
QUẢ VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP HƢỚNG DẪN SINH VIÊN
TỰ HỌC TRONG GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ
BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN (PHẦN I) Ở TRƢỜNG
CAO ĐẲNG VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT NGHỆ AN ............................. 73

3.1. Nâng cao nhận thức về vấn đề tự học ..................................................... 73
3.2. Đổi mới phương pháp dạy ....................................................................... 81
3.3. Đổi mới cách thức tổ chức, quản lý dạy học .......................................... 87
C. KẾT LUẬN .................................................................................................. 93
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 95
E. PHỤ LỤC ..................................................................................................... 98


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


1.

BGD - ĐT

:

Bộ Giáo dục và Đào tạo

2.

BCHTW

:

Ban chấp hành Trung ương

3.

CNDV - CNDT :

Chủ nghĩa duy vật - Chủ nghĩa duy tâm

4.

CNDVBC

:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng


5.

CNH, HĐH

:

Cơng nghiệp hố, hiện đại hố

6.

CH

:

Câu hỏi

7.

GS

:

Giáo sư

8.

GV

:


Giáo viên

9.

KT

:

Kiểm tra

10. KHCN

:

Khoa học cơng nghệ

11. Nxb

:

Nhà xuất bản

12. PPDH

:

Phương pháp dạy học

13. QĐDVBC


:

Quan điểm duy vật biện chứng

14. SP

:

Sư phạm

15. SV

:

Sinh viên

16. TS

:

Tiến sĩ

17. VD

:

Ví dụ

18. XHCN


:

Xã hội chủ nghĩa

4


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta đang sống trong một thế giới sôi động, với đặc điểm nổi bật là
cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển với nhịp độ siêu tốc chưa từng
thấy trong lịch sử. Để thích ứng với bối cảnh lịch sử mới, đòi hỏi mọi người ở
mọi quốc gia, mọi dân tộc trong mỗi ngành nghề phải có kiến thức sâu rộng,
tư duy khoa học phát triển, nhất là tư duy khái qt và năng lực tự đào tạo.
Hịa mình vào làn sóng phát triển mạnh mẽ đó, Đảng và Nhà nước ta luôn
coi trọng công tác giáo dục và đào tạo, coi đó là điều kiện tiên quyết để thực
hiện CNH, HĐH đất nước. Điều đó được khẳng định thể hiện trong nhiều
chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, trong đó có chỉ thị 15 của Bộ
trưởng BGD-ĐT năm 1999 đã viết: Đổi mới phương pháp dạy và học trong
các nhà trường SP nhằm tích cực hóa hoạt động học tập, phát huy tính chủ
động, sáng tạo và năng lực tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Đây là nhiệm
vụ mới có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng trong việc đào tạo ra nguồn
nhân lực có đủ phẩm chất năng lực, có tư duy độc lập, năng động, tự chủ, sáng
tạo thích ứng với sự biến đổi không ngừng phát triển của xã hội.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng ta rất chú trọng vấn
đề chiến lược đào tạo con người; coi con người: "Vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội”. Để thực hiện được mục tiêu
và chiến lược nêu trên, Đảng ta đã có chỉ thị đối với giáo dục và đào tạo: Tập
trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, trang bị đủ kiến thức cần thiết đi đôi
với tạo ra năng lực tự học, sáng tạo của sinh viên, v.v.. Phát triển mạnh phong

trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân.
Ở Việt Nam, khả năng tự học đã từng được áp dung và phát huy tác dụng
qua các thời kỳ lịch sử. Khả năng đó đã được nâng lên tầm cao mới trong thời
đại Hồ Chí Minh. Điều này đã được khẳng định tại mục 2, Điều 5 của Luật
Giáo dục 2005: “Phương pháp giáo dục phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
5


động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học,
khả năng thực hành, lịng say mê học tập và ý chí vươn lên” [14;9].
Riêng các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ giáo
dục và Đào tạo quy định một cách cụ thể, rõ ràng trong hướng dẫn số
11381/BGDĐT- ĐH và SĐH ngày 10/10/2006: “Thực hiện đổi mới phương
pháp giảng dạy theo hướng chuyển quá trình dạy ở bậc đại học thành q trình
tự học của sinh viên có tổ chức và hỗ trợ tối ưu của giảng viên, ứng dụng
mạnh mẽ các phương tiện hỗ trợ và công nghệ thơng tin, chấm dứt tình trạng
“đọc-chép” trên giảng đường đại học”. Và “Trong năm học 2006 - 2007, thực
hiện 50% thời gian môn học dành cho lên lớp và 50% thời gian hội thảo có
giáo viên hướng dẫn và sinh viên tự nghiên cứu”. Tại Nghị quyết TW 2 khoá
VIII khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người
học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại
vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh, nhất là sinh viên đại học” [5;41].
Để thực hiện được nhiệm vụ đó, trong q trình dạy học các môn học ở
nhà trường, bên cạnh việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, cần chú
trọng hướng dẫn cho SV các phương pháp, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu góp
phần nâng cao chất lượng dạy học, chất lượng đào tạo. Bởi tự học chính là con
đường tích cực phát triển nội lực của mỗi cá nhân, là động lực chính của q
trình giáo dục và đào tạo.

Trong các trường cao đẳng, đại học ở nước ta nói chung, trường Cao
đẳng Cộng đồng Hậu Giang nói riêng thì dạy học môn những Nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (phần thứ nhất) là một môn khoa học quan
trọng, trang bị cho SV thế giới quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn,
từ đó góp phần định hướng cho SV trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Tuy nhiên, việc giảng dạy môn học này trong trường Cao đẳng Cộng đồng
6


Hậu Giang còn nhiều bất cập như: nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, thực
tiễn; nặng về kiến thức, nhẹ về kỹ năng… Do đó, địi hỏi cần phải đổi mới
phương pháp dạy và học để SV có thể nắm chắc được kiến thức cốt lõi, có khả
năng khái quát kiến thức, để họ có thể vận dụng trong q trình học tập và
cơng tác sau này.
Vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý của trường Cao
đẳng Cộng đồng Hậu Giang quan tâm nghiên cứu, có nhiều biện pháp đã
được đề xuất nhưng mức độ chuyển biến chưa đáng kể. Vì vậy, tự học vẫn
ln là vấn đề mới, có tính cấp bách, đặc biệt là đối với trường Cao đẳng Cộng
đồng Hậu Giang - Một trường mới được thành lập còn rất non trẻ, cán bộ
giảng dạy bộ mơn chính trị đa số mới ra trường về đây giảng dạy nên chưa có
nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn, chất lượng giáo dục, đào tạo còn nhiều hạn
chế.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài:
“Vận dụng phương pháp hướng dẫn tự học trong giảng dạy môn những
Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (phần thứ nhất) ở trường Cao
đẳng Cộng đồng Hậu Giang” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong lịch sử phát triển của giáo dục, tự học và phương pháp hướng dẫn
tự học là vấn đề đã được quan tâm nghiên cứu từ lâu cả về mặt lý luận và thực
tiễn nhằm phát huy vai trị tích cực học tập của người học. Song, ở từng giai

đoạn phát triển của lịch sử vấn đề tự học đã được đề cập tới dưới nhiều hình
thức khác nhau.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là một tấm gương sáng về vấn
đề tự học. Người còn chỉ rõ: “Về việc học tập phải lấy tự học làm cốt”; “Về
cách dạy thì phải tránh lối dạy nhồi sọ, v.v... Về học tập tránh lối học vẹt”. Bởi
vì, khả năng tự học đã từng được áp dung và phát huy tác dụng qua các thời kỳ
lịch sử.
7


Các nhà giáo dục Việt Nam cũng rất quan tâm đến tự học. Gần đây,
nhiều nhà giáo dục đã dày công nghiên cứu về tự học như:
Theo cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “phương pháp dạy mà
các đồng chí nêu ra, nói gọn lại là lấy người học làm trung tâm. Người ta phải
đặt ra những câu hỏi, đưa ra những câu chuyện có tính hấp dẫn, khêu gợi, đòi
hỏi người nghe, người đọc, dẫu là người suy nghĩ kém cỏi cũng phải chịu khó
suy nghĩ, tìm tịi... Phương pháp dạy học tích cực này có khả năng phát triển
được những năng lực đang ngủ yên ở mỗi con người... Phương pháp này giúp
người ta phương pháp tự học và ham học. Đó là cái quý báu nhất” [9;5].
Tác giả Nguyễn Kỳ, có bài viết: “Biến q trình dạy học thành q
trình tự học”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 3/ 1996, đã nêu lên thực chất
của giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm và “… Phương pháp lấy
học sinh làm trung tâm, người học giữ vai trị chủ động, tích cực trong q
trình học tập và khơng cịn ở thể thụ động như khi dùng phương pháp sư phạm
cổ truyền…” [15;3,5].
TS.Nguyễn Lương Bằng, với bài: “Đổi mới phương pháp dạy học lý
luận Mác - Lênin ở các trường Đại học hiện nay”, Tạp chí Lý luận, số 7/2002.
TS.Trần Viết Quang: “Bồi dưỡng thế giới quan và phương pháp luận khoa học
cho sinh viên thông qua giảng dạy triết học Mác - Lênin”, Đề tài KHCN cấp
Bộ (chủ nhiệm); “Đổi mới phương pháp học triết học nhằm trau dồi tư duy

biện chứng”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thơng, số 8/ 2007. Để phát
huy vai trò của triết học và giảng dạy triết học nhằm trau dồi năng lực tư duy
biện chứng cần có một hệ thống các phương pháp đồng bộ và tồn diện, trong
đó đổi mới phương pháp học của sinh viên là giải pháp hàng đầu như học một
cách toàn diện trên tất cả các khâu: nghe giảng, thảo luận, nghiên cứu khoa
học, nắm bắt thông tin.
TS. Bùi Văn Dũng với bài viết: “Tích cực hố hoạt động học tập của
sinh viên khi học môn triết học Mác - Lênin”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về
8


đổi mới phương pháp giảng dạy học tập môn triết học Mác - Lênin trong các
trường đại học toàn quốc, Hà Nội, 12/ 2002.
GS.TS. Trần Bá Hoành: “Đổi mới PPDH trong các trường Đại học, Cao
đẳng đào tạo giáo viên Trung học cơ sở”, Hà Nội, 2003; “Dạy học lấy người
học làm trung tâm - nguồn gốc, bản chất, đặc điểm”, Tạp chí Khoa học giáo
dục, số 96/2003; “Những đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực”
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Bảo, trong bài viết: “Phát triển tính tích cực,
tính tự lực của học sinh trong quá trình dạy học” đã khẳng định học là hoạt
động tự lực, là trung tâm của quá trình dạy học, v.v..
Thời gian gần đây, nhiều luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ cũng đã đề cập
tới vấn đề này ở nhiều khía cạnh và lĩnh vực khác nhau:
Luận án tiến sĩ của tác giả Hoàng Hữu Niềm (năm 2003): “Phương pháp
hướng dẫn tự học phần cơ sở di truyền học cho học viên tại các trung tâm giáo
dục thường xuyên”.
Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Tính (năm 2004) “Các biện pháp
tổ chức hoạt động tự học môn giáo dục học cho sinh viên các trường đại học
sư phạm”.
Luận án thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Lý: “Những biện pháp năng cao
kết quả hoạt động tự học của sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Kon Tum”.

Như vậy, vấn đề tự học trong quá trình dạy học đã được nhiều nhà khoa
học, nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau, đây là
những đóng góp vơ cùng quý giá của các thế hệ tác giả qua các thời kỳ. Có thể
nói, đây là những nguồn tư liệu quý giá mà chúng tôi đã kế thừa trực tiếp
trong q trình nghiên cứu và hồn thiện đề tài này. Hầu hết các tác giả đã đề
cập đến vai trò, tầm quan trọng của hoạt động tự học, các kỹ năng tự học và
một số biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho người học nói chung. Tuy
nhiên, thực tế hoạt động tự học của sinh viên hiện nay đang là mối quan tâm
lớn đối với Trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang. Vì vậy, việc nghiên cứu
9


lý luận tự học và đưa ra các giải pháp cơ bản cho việc vận dụng phương pháp
tổ chức hoạt động tự học vào giảng dạy môn những Nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin (Phần thứ nhầ) ở Trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang
là điều rất cần thiết và cấp bách.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là nâng cao chất lượng việc vận dụng phương
pháp hướng dẫn tự học trong giảng dạy môn những Nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu
Giang
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp
hướng dẫn tự học cho SV, tiến hành thực nghiệm phương pháp hướng dẫn tự
học trong giảng dạy môn những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
(Phần thứ nhất) ở Trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang, nhằm đưa ra
những quy trình và điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả của
phương pháp hướng dẫn tự học trong giảng dạy môn học này ở trường Cao
đẳng Cộng đồng Hậu Giang.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
* Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Đọc, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa, phân loại… các tài
liệu, giáo trình, các cơng trình nghiên cứu có liên quan.
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát, phương pháp điều tra, Phương pháp trò chuyện.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng và những giải pháp cơ bản nhằm từng bước nâng cao chất
lượng hiệu quả của phương pháp hướng dẫn tự học trong giảng dạy môn
10


những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (phần thứ nhất ) của SV
trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu khi vận dụng phương pháp hướng dẫn tự
học môn những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (phần thứ nhất)
cho SV trong và ngoài giờ lên lớp dưới sự hướng dẫn của thầy. Đề tài giới hạn
phạm vi nghiên cứu tại trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được quy trình và các điều kiện khoa học thì sẽ nâng cao
hiệu quả việc vận dụng phương pháp hướng dẫn tự học trong giảng dạy môn
những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (phần thứ nhất) của sinh
viên trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận
Đề tài đã hệ thống các tri thức lý luận về tự học, hướng dẫn tự học, xác
định được những biện pháp nhằm từng bước nâng cao chất lượng hiệu quả của
phương pháp hướng dẫn tự học một số nội dung ở hai chương phần thứ nhất

môn những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cho SV trường Cao
đẳng Cộng đồng Hậu Giang.
- Về mặt thực tiễn
Đề tài đã nêu lên được thực trạng, hiệu quả phương pháp hướng dẫn tự
học một số nội dung ở hai chương của môn học này, đồng thời đề xuất những
quy trình và điều kiện đúng đắn khoa học nhằm từng bước nâng cao chất
lượng hiệu quả của phương pháp hướng dẫn tự học cho SV trường Cao đẳng
Cộng đồng Hậu Giang và thúc đẩy SV nhận thức được vai trị quan trọng của
việc tự học, có động cơ tự học đúng đắn, có phương pháp, kỹ năng tự học…
cùng với ý chí vượt qua mọi khó khăn trở ngại để đạt kết quả học tập ngày

11


một tốt hơn cho SV nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo của trường Cao đẳng
Cộng đồng Hậu Giang.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn còn
bao gồm 3 chương.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn vận dụng phương pháp hướng
dẫn tự học trong giảng dạy môn những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng
Chƣơng 2: Thực nghiệm sư phạm phương pháp hướng dẫn tự học cho
SV trong giảng dạy môn Những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
(Phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang
Chƣơng 3: Quy trình và điều kiện vận dụng phương pháp hướng dẫn tự
học cho sinh viên trong giảng dạy môn Những Nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin (Phần thứ nhất) trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang

12



B- PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP
HƢỚNG DẪN TỰ HỌC TRONG GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG
NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN (PHẦN THỨ
NHẤT) Ở TRƢỜNG CAO ĐẲNG
1.1. Cơ sở lý luận về vận dụng phƣơng pháp hƣớng dẫn tự học trong
giảng dạy môn những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (phần
thứ nhất)
1.1.1. Khái niệm, các hình thức tự học và vai trị của nó
1.1.1.1. Khái niệm tự học
Trong các giáo trình, tài liệu, các tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác
nhau về tự học, sau đây là một số định nghĩa cơ bản:
Theo GS Đặng Vũ Hoạt và PGS Hà Thị Đức trong cuốn “Lý luận dạy
học đại học” thì “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học.
Đó là một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức
và kỹ năng do chính người học tự tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo
hoặc khơng theo chương trình và sách giáo khoa đã được qui định [12;142].
Tác giả Nguyễn Văn Đạo: “Tự học phải là công việc tự giác của mỗi
người do nhận thức được đúng vai trị quyết định của nó đến sự tích luỹ kiến
thức cho bản thân, cho chất lượng cơng việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến bộ
của xã hội” [10;11].
Theo GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học - là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và
có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng cơng cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi
cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực,
khách quan, có chí tiến thủ, khơng ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lịng
say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi.v.v..) để chiếm
13



lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu
của mình”[ 21;621].
Khác với quan điểm trên, khi nói về vấn đề tự học tác giả Lưu Xuân
Mới cho rằng: "Tự học là hình thức hoạt động của cá nhân nhằm nắm vững hệ
thống tri thức và kỹ năng do chính sinh viên tiến hành trên lớp, ở ngồi lớp
hoặc khơng theo chương trình và sách giáo khoa quy định.Tự học là một hình
thức dạy học cơ bản ở bậc đại học có tính độc lập cao và mang đậm sắc thái cá
nhân, nhưng có quan hệ chặt chẽ với q trình dạy học" [17;276]. Ở đây tác
giả đặt vấn đề tự học trong mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động giảng dạy của
giảng viên, nhấn mạnh hiệu quả của hoạt động tự học phụ thuộc nhiều vào vai
trò của cách thức, PPDH của giảng viên. Trong quá trình tự học, người học rất
muốn được biết họ nên tự học như thế nào, học những nội dung gì và kết quả
được đánh giá ra sao? Nếu khơng có sự hướng dẫn của giảng viên thì quá trình
tự học của họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tơi
tập trung khai thác khía cạnh tổ chức hướng dẫn sinh viên tự học với tư cách
là một PPDH.
Ở đây tác giả đặt vấn đề tự học trong mối quan hệ chặt chẽ với hoạt
động giảng dạy của giảng viên, nhấn mạnh hiệu quả của hoạt động tự học phụ
thuộc nhiều vào vai trò của cách thức, PPDH của giảng viên. Trong quá trình
tự học, người học rất muốn được biết họ nên tự học như thế nào, học những
nội dung gì và kết quả được đánh giá ra sao? Nếu khơng có sự hướng dẫn của
giảng viên thì quá trình tự học của họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, trong
luận văn này, chúng tơi tập trung khai thác khía cạnh tổ chức hướng dẫn sinh
viên tự học với tư cách là một PPDH.
Nhưng dưới bất cứ góc nhìn nào, tự học đều được xem là sự tự giác, nỗ
lực lớn của người học.Với hoạt động tự học, học sinh, SV có thể làm phong
phú thêm giá trị của mình bằng các thao tác của trí tuệ và cơ bắp nhờ vào ý chí
nghị lực và lịng đam mê tìm tịi, học hỏi nghiên cứu.


14


Từ những quan niệm trên đây có thể nhận thấy rằng, khái niệm tự học
ln đi cùng, gắn bó chặt chẽ với khái niệm tự thân. Tri thức, kinh nghiệm, kĩ
năng của mỗi cá nhân chỉ được hình thành bền vững và phát huy hiệu quả
thông qua các hoạt động tự thân ấy. Để có được, đạt tới sự hồn thiện thì mỗi
SV phải tự thân tiếp nhận tri thức từ nhiều nguồn; Tự thân rèn luyện các kĩ
năng; Tự thân bồi dưỡng tâm hồn của mình ở mọi nơi mọi lúc. Chính vì vậy,
chúng tơi đi đến định nghĩa về tự học như sau: Tự học là quá trình cá nhân
người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào
đó trong cuộc sống bằng hành động của chính mình nhằm đạt được mục đích
nhất định.
1.1.1.2. Các hình thức tự học
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
* Hình thức 1: Cá nhân tự mày mị theo sở thích và hứng thú độc lập có
sách và khơng có sự hướng dẫn của GV.
Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của
quá trình nghiên cứu đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học
mới, đây là thể hiện đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này phải được
dựa trên nền tảng một niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng
thời phải có một vốn tri thức vừa rộng, vừa sâu. Trình độ tự học này người học
khơng thầy, không sách mà chỉ cọ xát với thực tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu
quả hoạt động của mình.
* Hình thức 2: Tự học có sách nhưng khơng có GV bên cạnh.
Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức:
Thứ nhất, tự học theo sách mà khơng có sự hướng dẫn của thầy: Trường
hợp này người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong sách qua đó sẽ
phát triển về tư duy, tự học hồn tồn với sách là cái đích mà mọi người phải

đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.

15


Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn: Trường hợp này người học tự
học để hiểu và chiếm lĩnh tri thức, mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối
quan hệ trao đổi thơng tin giữa thầy và trị bằng các phương tiện trao đổi thơng
tin thơ sơ hay hiện đại dưới dạng phản ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài,
kiểm tra, đánh giá,...
* Hình thức 3: Tự học có sách, có thầy trực tiếp giảng dạy một số tiết
trong ngày, sau đó SV về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của GV.
Trong q trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ,
chất xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai
trò là chủ thể của quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham
gia vào quá trình học tập. Mối quan hệ giữa thầy và trị chính là mối quan hệ
giữa nội lực và ngoại lực, ngoại lực dù quan trọng đến mấy cũng chỉ là chất
xúc tác thúc đẩy nội lực phát triển.
Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy,
nhưng dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ năng
của bản thân để hoàn thành những yêu cầu do GV đề ra. Tự học của người học
theo hình thức này liên quan trực tiếp với yêu cầu của GV, được GV định
hướng về nội dung, phương pháp tự học để người học thực hiện. Như vậy ở
hình thức tự học thứ ba này q trình tự học của SV có liên quan chặt chẽ với
quá trình dạy học, chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố
phương pháp hướng dẫn tự học của GV và quá trình tự học của SV.
Do mục đích và nội dung nghiên cứu, đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu
phương pháp hướng dẫn tự học trong giảng dạy môn những Nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin (phần thứ nhất) cho SV trong và ngoài giờ lên lớp

dưới sự hướng dẫn của GV trong quá trình dạy học nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo cho SV ở trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang.

16


Chúng tơi lựa chọn hình thức tự học này để nghiên cứu cho đề tài, hình
thức tự học này là của SV cao đẳng hệ chính quy, nó khác với hình thức tự
học từ xa.
Theo Luật Giáo dục, học từ xa, vừa học vừa làm, tự học có hướng dẫn
thuộc phương thức giáo dục khơng chính quy (Mục d- Điều 41 Luật Giáo
dục). Trong các hình thức giáo dục này, người học chủ yếu phải tự học bằng
sách giáo khoa, bằng các loại học liệu, bằng kế hoạch và các điều kiện,
phương tiện của mình để đạt được một mục tiêu hay một chương trình đào tạo.
Như vậy bản chất của việc học từ xa là tự học, người học phải biến quá
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo với sự trợ giúp của các cơ sở đào tạo.
1.1.1.3. Vai trò và ý nghĩa của tự học trong q trình dạy học
- Vai trị của tự học trong q trình dạy học
Trong q trình dạy học nói chung, dạy học ở cao đẳng, đại học nói
riêng, GV ln giữ một vai trị quan trọng đặc biệt khơng thể thiếu được đó là
sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động học tập của SV. Nhưng
thực tế cho thấy rằng, dù GV có kiến thức uyên thâm đến đâu, phương pháp
giảng dạy hay đến mấy nhưng SV khơng chịu đầu tư thời gian, khơng có sự
lao động của cá nhân, khơng có niềm khao khát với tri thức, khơng có sự say
mê học tập, khơng có kế hoạch và phương pháp học tập hợp lý và không có tự
giác tích cực trong học tập... thì việc học tập khơng đạt kết quả cao được.
Vì vậy, có thể khẳng định vai trị của hoạt động tự học ln giữ một vị trí
rất quan trọng trong q trình học tập của người học. Tự học là yếu tố quyết
định chất lượng và hiệu quả của hoạt động học tập.
Khi bàn về vai trị của tự học ngun Tổng bí thư Đỗ Mười đã phát biểu:

“Tự học, tự đào tạo là con đường phát triển suốt cuộc đời của mỗi người, trong
điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau đó cũng là truyền
thống quý báu của người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu
quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học,
17


khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Quy mô của giáo
dục được mở rộng khi có phong trào tồn dân tự học” [16; 3].
Học ở đại học, cao đẳng đòi hỏi SV phải tiếp thu một lượng kiến thức lớn
và khó, cho nên ngồi thời gian học trên lớp SV phải tự học, tự nghiên cứu, tự
đào sâu tri thức. Cũng chính là thơng qua hoạt động tự học này đã giúp rất
nhiều cho SV trong q trình học tập tốt, nó biểu hiện:
Thứ nhất, tự học giúp SV nắm vững tri thức, kỹ năng kỹ xảo và nghề
nghiệp trong tương lai. Chính trong quá trình tự học SV đã từng bước biến
vốn kinh nghiệm của loài người thành vốn tri thức riêng của bản thân. Hoạt
động tự học đã tạo điều kiện cho SV hiểu sâu tri thức, mở rộng kiến thức,
củng cố ghi nhớ vững chắc tri thức, biết vận dụng tri thức vào việc giải quyết
các nhiệm vụ học tập mới.
Thứ hai, tự học không những giúp SV không ngừng nâng cao chất lượng
và hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà cịn giúp họ có được
hứng thú thói quen và phương pháp tự học thường xuyên để làm phong phú
thêm, hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của mình. Giúp họ tránh được sự lạc hậu
trước sự biến đổi không ngừng của khoa học và công nghệ trong thời đại ngày
nay.
Thứ ba, tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ giúp
SV mở rộng đào sâu kiến thức mà cịn giúp họ hình thành được những phẩm
chất trí tuệ và rèn luyện nhân cách của mình. Tạo cho họ có nếp sống và làm
việc khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, hứng
thú học tập và lịng say mê nghiên cứu khoa học.

Thứ tư, trong quá trình học tập ở trường cao đẳng, đại học, nếu bồi dưỡng
được ý chí và năng lực tự học cần thiết thì sẽ khơi dậy được ở SV tiềm năng to
lớn vốn có của họ, tạo nên động lực nội sinh của q trình học tập, vượt lên
trên mọi khó khăn, trở ngại bên ngồi. Khả năng tự học chính là nhân tố nội
lực, nhân tố quyết định chất lượng đào tạo.
18


Tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa là hạ thấp vai trò của GV và tập
thể SV trong nhà trường. Các lực lượng này có tác dụng lớn trong việc động
viên khuyến khích hướng dẫn SV tự học một cách đúng hướng và hiệu quả.
Trong xã hội phát triển, vai trò của giáo dục ngày càng quan trọng, là
động lực thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Giáo dục phải đào tạo được
thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, có đủ tri thức, năng lực và có khả năng thích
ứng với đời sống xã hội, làm phát triển xã hội. Muốn vậy thế hệ trẻ phải có
năng lực đặc biệt đó là khả năng tự học, tự nâng cao, tự hoàn thiện và những
khả năng này phải được hình thành từ cấp tiểu học. Có như vậy mới rèn luyện
cho họ được kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, không ngừng nâng cao vốn hiểu
biết về văn hoá, khoa học kỹ thuật và hiện đại hoá vốn tri thức của mình để trở
thành người cơng dân, người lao động với đầy đủ hành trang bước vào cuộc
sống.
- Ý nghĩa của tự học trong quá trình dạy học
Ở bất kỳ bậc học hay cấp học nào hoạt động tự học cũng có ý nghĩa rất
quan trọng đối với kết quả học tập, tuy nhiên đối với SV ở các trường cao
đẳng, đại học nó lại càng thiết thực hơn bởi hoạt động tự học của SV ở các
trường cao đẳng, đại học có nét đặc thù so với học sinh phổ thông, thể hiện
hoạt động nhận thức của SV ở mức độ cao hơn, mang tính chất độc lập, tự lực,
tự giác, sáng tạo trong việc tiếp thu tri thức cũng như việc vận dụng tri thức
vào các tình huống cụ thể. Phương pháp học tập của SV cũng khác, nó mang
tính chất tự học, tự nghiên cứu, nhưng điều đó cũng khơng có nghĩa là thiếu

vai trị của người GV. Do đó có thể nói hoạt động tự học là một khâu của quá
trình giáo dục, là một q trình gia cơng, chế biến và tự điều khiển theo đúng
mục tiêu giáo dục qui định. Nhờ có tự học và chỉ bằng con đường tự học,
người học mới có thể nắm vững tri thức, thơng hiểu tri thức, bổ xung và hoàn
thiện tri thức cũng như hình thành những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng.

19


Hoạt động tự học của SV không chỉ nâng cao năng lực nhận thức, rèn
luyện thói quen, kỹ năng, kỹ xảo vận dụng tri thức của bản thân vào cuộc sống
mà cịn giáo dục tình cảm và những phẩm chất đạo đức của bản thân. Bởi vì
trên cơ sở những tri thức họ tiếp thu được nó có ý nghĩa sâu sắc đến việc giáo
dục tư tưởng đạo đức, lối sống, niềm tin, rèn luyện phong cách làm việc cá
nhân cũng như những phẩm chất ý chí cần thiết cho việc tổ chức lao động học
tập của mỗi SV; bên cạnh đó cịn rèn luyện cho họ cách suy nghĩ, tính tự giác,
độc lập… trong học tập cũng như rèn luyện thói quen trong hoạt động khác.
Nói cách khác hoạt động tự học hướng vào việc rèn luyện phát triển toàn diện
nhân cách SV. Mặt khác hoạt động tự học không những là yêu cầu cấp bách,
thiết yếu của SV đang ngồi trên ghế nhà trường để họ tiếp nhận tri thức, nâng
cao trình độ hiểu biết của bản thân mà cịn có ý nghĩa lâu dài trong suốt cuộc
đời của mỗi con người. Đó là thói quen học tập suốt đời, bởi sau khi ra trường
vẫn phải tiếp tục: Học, học nữa, học mãi. Chính vì vậy, người học cần phải
học khi còn ngồi ghế nhà trường và cần phải học tập hơn nữa khi đã rời ghế
nhà trường, nhưng sự học tập ở giai đoạn thứ hai này còn quan trọng hơn gấp
bội lần sự học tập ở giai đoạn thứ nhất.
Tự học khơng chỉ có ý nghĩa đối với bản thân người học mà cịn góp
phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học và đào tạo. Nói như vậy khơng có
nghĩa là hạ thấp vai trị trách nhiệm của người GV mà dưới sự tổ chức, hướng
dẫn, chỉ đạo của người GV, làm cho SV phải biết cách tự học, chủ động, sáng

tạo chiếm lĩnh kho tàng tri thức của nhân loại.
Như vậy muốn nâng cao chất lượng học tập tốt của SV trong các trường
học nói chung, trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu giang nói riêng, chúng ta cần
phải quan tâm đúng mức đến việc bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ
nghiệp vụ của người GV đồng thời phải chú ý đến vị trí trung tâm của người
học trong hoạt động tập thể để làm sao khai thác triệt để những tiềm năng vốn
có trong người họ, phát huy tính tự giác, tích cực sáng tạo, chủ động trong quá
20


trình lĩnh hội tri thức nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
1.1.2. Vận dụng phương pháp tự học, phương pháp hướng dẫn tự học
môn những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (phần thứ nhất)
1.1.2.1. Phương pháp tự học
Trước hết ta phải nhận thức được rằng khi ta cho rằng việc tự học cần
phải được khuyến khích trong SV thì chính ta đưa ra một ý kiến nhất định
hoặc đang tiếp nhận một phương pháp tiếp cận đối với quá trình dạy học, và
tất cả mọi người sẽ nhất trí về tính ưu việt của phương pháp tiếp cận này. Thật
ra hầu hết mọi GV giỏi đều tìm cách khuyến khích SV tự học tập và tự nghiên
cứu. Đó là thói quen cần thiết phải lĩnh hội trong mọi điều kiện.
Vì thế đây chính là một bài tập suy nghĩ gồm hai cấp độ. Đầu tiên người
GV phải lồng ghép phương pháp này vào cơng việc của chính mình, sau đó
người GV phải tìm ra một phương thức hoạt động hay phương pháp nào đó
nhằm khuyến khích người học phải chính mình tự học. Phương pháp này phải
được định nghĩa một cách đầy đủ nhưng tổng quát để có thể thực hiện được
trong các nội dung bài giảng khác nhau theo một hình thức đơn giản dễ hiểu.
Các GV và những nhà giáo dục đã phát triển một phương pháp dạy học
có hiệu quả dựa trên ý tưởng cho rằng việc học giúp cho cá nhân lĩnh hội được
khả năng khác nhau một cách thoả đáng và hiệu quả. Phương pháp này gọi là

phương pháp tự học.
Phương pháp tự học của SV là cách thức, con đường mà người học tự
chọn cho mình trong quá trình học tập để đạt được những nhiệm vụ học tập đề
ra. Như vậy phương pháp tự học có vai trị rất quan trọng đối với kết quả học
tập của SV.
Phương pháp hướng dẫn hoạt động tự học là một công việc bao gồm sự
sắp xếp, thiết kế các biện pháp tiến hành hoạt động, là việc sử dụng đối tượng
và các phương tiện hỗ trợ nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
21


Từ đó ta có thể hiểu tổ chức, hướng dẫn hoạt động học tập cho sinh viên
là cách thiết kế, sắp xếp các biện pháp hoạt động phối hợp chung giữa giảng
viên và sinh viên trong học tập trên lớp và ở nhà, chính khóa và ngoại khóa
theo quy chế học tập, dưới sự chỉ đạo của nhà trường nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả của hoạt động học tập.
Vận dụng những quan điểm nêu trên vào việc tổ chức, hướng dẫn hoạt
động tự học cho sinh viên, chúng tôi cho rằng: phương pháp hướng dẫn hoạt
động tự học cho sinh viên là quá trình thiết kế, sắp xếp các biện pháp tổ chức
giảng dạy của giáo viên nhằm tiến hành hướng dẫn, điều khiển, chỉ đạo cách
tự thiết kế, tự sắp xếp các biện pháp hoạt động tự học, tự nghiên cứu của sinh
viên, giúp sinh viên phát huy tới mức cao nhất năng lực tự học, tự nghiên cứu
của mình, thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ học tập đề ra.
1.1.2.2. Phương pháp hướng dẫn tự học
Trong thư gửi Trung tâm Nghiên cứu và phát triển tự học, Bộ trưởng bộ
Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Minh Hiển viết: “Tự học là một khâu rất quan
trọng trong q trình giáo dục, góp phần hình thành và nâng cao năng lực,
phẩm chất của học sinh, SV, đặc biệt trong điều kiện hiện nay. Đây là vấn đề
không chỉ liên quan đến người học mà cả người dạy. Việc khơi dạy, hướng
dẫn, đẩy mạnh, phát huy nội lực tự học trong việc dạy và học là quán triệt chủ

trương xã hội hoá giáo dục mà Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm” - Hội
khuyến học Việt Nam, ngày 09/06/1999.
Rõ ràng là việc khơi dậy khả năng tự học trong thế hệ trẻ, đặc biệt là SV
trong các trường cao đẳng, đại học hiện nay đang là vấn đề được sự quan tâm
của tồn xã hội, bởi đây chính là người chủ tương lai của đất nước, những
người sẽ kế tiếp cha anh đưa đất nước đi lên. Muốn vậy, phải hướng dẫn, giúp
đỡ họ có được phương pháp tự học, cách thức tự học đúng đắn.
Vậy có thể hiểu một cách khái quát rằng, phương pháp hướng dẫn tự học
là quá trình giúp đỡ, hình thành cho người học có được những phương pháp,
22


cách thức tự học, tự nghiên cứu hợp lý, hiệu quả, qua đó giúp họ khơng ngừng
nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu khoa học cả khi còn đang ngồi trên
ghế nhà trường và khi đã bước vào lao động nghề nghiệp trong tương lai.
Trong quá trình dạy học, người GV cần tăng cường sử dụng các phương
pháp dạy học tích cực nhằm khơi dậy hứng thú, tính sáng tạo, óc tị mị khoa
học cho người học; mặt khác bên cạnh việc trang bị cho người học hệ thống tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo thì cần chú ý hình thành cho họ ý thức tự học, động cơ
tự học đúng đắn. Người GV nên hướng dẫn người học có những phương pháp
tự học, cách thức tiến hành tự học cụ thể hiệu quả như:
- Biết cách xây dựng kế hoạch và thời gian tự học hợp lý.
- Biết cách thức làm việc độc lập, bao gồm: Biết đọc sách một cách có hệ
thống, biết phân chia dung lượng kiến thức hợp lý để tiến hành học tập cho có
hiệu quả, biết liên hệ, vận dụng lý thuyết để giải quyết các bài tập trong quá
trình học ở trên lớp và trong thực tiễn.
- Biết cách phân tích, tổng hợp, so sánh, biết ôn tập một cách tự giác,
thường xuyên nhằm đánh giá được sự tiến bộ của trí tuệ.
- Biết tranh luận và biết trình bày quan điểm của mình, biết tập trung tư
tưởng, tiết kiệm thời gian học tập, biết tự kiểm tra, tự đánh giá trình độ của

bản thân…
Để giúp người học có được những cách thức tiến hành tự học như vậy,
người GV có thể trực tiếp hướng dẫn họ ở trên lớp, thông qua các bài giảng
mà hình thành cho họ những phương pháp tự học đúng đắn, hiệu quả.
Giữa phương pháp tự học và phương pháp dạy học tích cực có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Phương pháp dạy học tích cực được quan niệm là một
thuật ngữ rút gọn, dùng để chỉ những phương pháp giáo dục dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học.
Phương pháp dạy học tích cực có những đặc trưng sau:

23


Thứ nhất dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của SV.
Trong phương pháp dạy học tích cực người học là chủ thể của họat động
“học” được cuốn hút vào các hoạt động học tập do GV thiết kế tổ chức và chỉ
đạo, qua đó tự khám phá chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng mới cũng như phương
pháp làm ra tri thức kỹ năng đó.
Thứ hai dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp hướng dẫn tự học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa
học, kỹ thuật, cơng nghệ phát triển như vũ bão - thì khơng thể nhồi nhét vào
đầu óc SV lượng kiến thức ngày càng tăng nhanh. Phải quan tâm dạy học cho
người học phương pháp hướng dẫn tự học tập ngay từ bậc tiểu học. Trong đó
chú trọng rèn luyện phương pháp tự học. Có được phương pháp, kỹ năng, thói
quen, ý chí quyết tâm tự học thì kết quả học tập của SV tăng lên rất nhiều.
Chính vì vậy tự học là đặc trưng quan trọng của dạy học tích cực. Có thể tự
học ở lớp, ở nhà, từ nhiều kênh thông tin.
Thứ ba dạy học chú trọng cả đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò.
Các phương pháp dạy học tích cực cần được vận dụng vào mơn những
Ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần thứ nhất) là: phương pháp

vấn đáp hay phương pháp đàm thoại; phương pháp đặt và giải quyết vấn đề
hay nêu vấn đề; phương pháp hoạt động nhóm; phương pháp đóng vai;
phương pháp động não.
1.1.2.3. Phương pháp hướng dẫn tự học môn những Nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần thứ nhất)
Từ khái niệm về phương pháp hướng dẫn tự học, chúng ta có thể hiểu
phương pháp hướng dẫn tự học môn những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin (phần thứ nhất) là quá trình giúp đỡ, hình thành cho người học tổ
chức hoạt động nhận thức của mình được tiến hành ở trên lớp hay ngồi lớp,
khi có thầy và cả khi khơng có thầy… nhằm chiếm lĩnh nội dung tri thức triết
học Mác - Lênin, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn giáo dục.
24


×