Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh thpt ở huyện tân hồng, tỉnh đồng tháp (qua khảo sát một số trường thpt tại huyện tân hồng, tỉnh đồng tháp)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (750.05 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

DƢƠNG THỊ HIỆP

GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG
CHO HỌC SINH THPT Ở HUYỆN TÂN HỒNG,
TỈNH ĐỒNG THÁP
(QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƢỜNG THPT TẠI HUYỆN TÂN HỒNG,
TỈNH ĐỒNG THÁP)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC

Đồng Tháp, 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG
CHO HỌC SINH THPT Ở HUYỆN TÂN HỒNG,
TỈNH ĐỒNG THÁP
(QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƢỜNG THPT TẠI HUYỆN TÂN HỒNG,
TỈNH ĐỒNG THÁP)

Chuyên ngành: LL và PPDH Bộ mơn Chính trị
Mã số: 6014.10

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS,TS: Đoàn Minh Duệ



Đồng Tháp, 2012


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cám ơn sâu sắc đến PGS.TS Đòan Minh Duệ, Trưởng
khoa Luật, Trường Đại học Vinh, đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đở tơi
hồn thành luận văn này.
Tơi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, khoa đào tạo Sau Đại học,
khoa Giáo dục chính trị, cùng tồn thể các thầy, cơ giáo Trường Đại học Vinh
đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt cho tơi những kiến thức lý luận chính trị q
báu, tạo điều kiện giúp đỡ tơi trong q trình học tập.
Tơi xin trân trọng cám ơn Phịng THPT của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh
Đồng Tháp, Ban Giám Hiệu trường THPT Giồng Thị Đam, Trường THPT Tân
Hồng, Tổ Văn, Sử, Địa, Giáo dục công dân Trường THPT Giồng Thị Đam đã
động viên, tạo điều kiện cho tôi cả về tinh thần và vật chất trong suốt quá trình
học tập.
Cuối cùng, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và
người thân đã động viên, giúp đỡ tôi trong cuộc sống, học tập và công tác.
Đồng Tháp, tháng 7 năm 2012
Tác giả
Dƣơng Thị Hiệp


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNDVBC:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng

CNH, HĐH:


Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

THCS:

Trung học cơ sở

THPT:

Trung học phổ thông

BVMT:

Bảo vệ môi trường

BCHTƯ:

Ban chấp hành trung ương

CNDV:

Chủ nghĩa duy vật


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU

B. NỘI DUNG

Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của nâng cao ý thức bảo vệ môi
trƣờng cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay.
1.1. Cơ sở lý luận của giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh THPT ....... 8
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh
THPT ở huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp ............................................................... 33
Kết luận chương 1 ....................................................................................................... 49
Chƣơng 2. Quan điểm và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục ý thức bảo vệ môi trƣờng cho học THPT trên địa bàn huyện Tân Hồng,
tỉnh Đồng Tháp giai đoạn hiện nay.
2.1. Quan điểm của Đảng ta về môi trường và bảo vệ môi trường .......................... 50
2.2. Một số giải pháp nhằm giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh
THPT trên địa bàn huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp giai đoạn hiện nay.............. 59
Kết luận chương 1 ....................................................................................................... 79
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hàng ngày, con người cần hít thở khơng khí, ăn, ở, mặc, đi lại, phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều đó chứng tỏ rằng: cuộc sống của con người và xã
hội loài người đều liên quan đến môi trường. Tách khỏi môi trường con người sẽ
không tồn tại và nếu môi trường bị tổn hại thì cuộc sống của con người cũng bị
đe dọa. Con người tồn tại trong môi trường, hoạt động trong môi trường và con
người cũng là nhân tố của môi trường.
Bất cứ một hành động nào của con người cũng đều ảnh hưởng đến môi
trường. Trồng cây xanh trên đường làng, nơi bãi đất hoang làm cho không khí

trong lành, vứt một mảnh giấy vụn, một bọc nylon cũng làm cho môi trường bị ô
nhiễm.
Từ xa xưa khi cuộc sống cịn hoang dã thì sự tồn tại của thiên nhiên tương
đối ổn định, đất đai màu mỡ, động thực vật phong phú, đa dạng.
Bùng nổ dân số, sự phát triển của Khoa học- Công nghệ cùng với sự tác
động của công nghiệp và nhu cầu sinh hoạt của con người ngày càng đa dạng,
con người đã lạm dụng quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên, làm cho môi
trường ngày càng xấu đi, diện tích rừng bị thu hẹp, trái đất nóng lên, khí hậu thất
thường, băng tan, lũ lụt, hạn hán…Điều đó đã làm cho cuộc sống của con người
bị đe dọa.
Việt Nam là một quốc gia đang trong quá trình mở cửa và hội nhập. Bên
cạnh sự gia tăng dân số là xu hướng đơ thị hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ đã
làm cho tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng thêm trầm trọng mà nguyên
nhân chủ yếu là từ nhận thức con người.
Theo ông Mai Ái Trực, nguyên Bộ trưởng Bộ tài nguyên và Môi trường:
“Thời gian qua công tác tuyên truyền nhất là các phương tiện thông tin đại
chúng nhận thức về môi trường trong nhân dân đã được nâng lên. Các hành vi
gây tác hại cho môi trường vẫn hàng ngày diễn ra, cho thấy nhận thức của mọi


2
người mới chỉ dừng lại hiểu biết về môi trường và mong muốn được sống trong
mơi trường trong lành cịn bản thân cần làm gì để góp phần bảo vệ mơi trường
thì chưa rõ.” Vì vậy, cần phải nâng cao nhận thức để “ tạo sự chuyển biến đến
mức có thể thay đổi hành vi của mọi người theo hướng có lợi cho mơi trường”
[7; 6].
Hiện nay, cơng tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh, đặc
biệt là học sinh THPT đã được triển khai. Nhưng thực tế ở một số trường học
tình trạng ít cây xanh hoặc khơng có cây xanh vẫn cịn phổ biến; học sinh vứt
rác bừa bãi vẫn còn diễn ra hàng ngày. Ngay bên trong một số trường học, dù đã

có những thùng đựng rác lớn nhưng rác vẫn vứt bừa bãi, nhà vệ sinh công cộng
hôi thối…
Những năm gần đây, việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học
sinh THPT trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp nói chung, trên địa bàn huyện Tân Hồng
nói riêng bước đầu đã đạt được những thành tựu quan trọng. Nhận thức về bảo
vệ môi trường của học sinh ở một số trường học đã được nâng lên, tình trạng hơi
thối và ơ nhiễm quanh khu vực trường học đã được cải thiện. Tuy nhiên, tình
trạng vứt rác trong lớp học và sân trường vẫn cịn diễn ra, nhà vệ sinh cơng cộng
vẫn cịn hơi thối, bãi đỗ rác cơng cộng chưa được xử lí …. Hơn nữa, việc giáo
dục ý thức bảo vệ mơi trường cho học sinh THPT cịn mang tính hình thức và
chưa được coi trọng đúng mức mà chỉ dừng lại ở việc lồng ghép ở một số môn
học như: Văn, Sử, Địa, Sinh, Kỹ thuật, Giáo dục công dân. Điều đó cho thấy,
cơng tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh THPT trên địa bàn
huyện Tân Hồng nói riêng và tỉnh Đồng Tháp nói chung chưa thực sự hiệu quả.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề “Giáo
dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh trường THPT ở huyện Tân Hồng,
tỉnh Đồng Tháp (qua khảo sát một số trường THPT tại huyện Tân Hồng, tỉnh
Đồng Tháp)” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp.


3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Hiện nay tình hình ơ nhiễm mơi trường đã đến mức báo động và bảo vệ
môi trường là vấn đề cần thiết, và hữu ích.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trong công
cuộc xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển kinh tế
đi đôi với bảo vệ môi trường và ổn định xã hội đảm bảo sự phát triển bền vững
của đất nước. Vì vậy, nhiều văn bản đã được ban hành nhằm thể chế hóa cơng
tác bảo vệ môi trường như: Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
VI, VII, VIII, IX và X đề cập đến vấn đề môi trường và xem việc bảo vệ môi

trường là một trong những vấn đề quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong sự
nghiệp phát triển bền vững của đất nước; Chỉ thị số 36 - CT/TW của Bộ Chính
trị Về tăng cường cơng tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH được
ban hành năm 1998; Nghị quyết số 41 - NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 15 tháng
11 năm 2004 về Bảo vệ mơi trường thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, tiếp theo đó là Chỉ thị 29 - CT/ TW ngày 21/1/2009 của Ban Bí thư ban
hành nhằm đẩy mạnh việc thực hiện triệt để các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ
và giải pháp của Nghị quyết số 41- NQ/TW. Chỉ thị và Nghị quyết đã góp phần
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các, các ngành và nhân dân, mức
độ suy thối và ơ nhiễm môi trường đã từng bước được hạn chế, đồng thời Chỉ
thị và Nghị quyết cũng đánh giá lại mức độ và hiệu quả của quá trình triển khai.
Trên cơ sở đó, Chị thị và Nghị quyết đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục
những mặt hạn chế, nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho các tầng lớp nhân dân trong thời gian tới. Quyết định số 1363/QĐ –
TTg ngày 17 tháng 10 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
dự án Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Quyết định đưa ra nội dung và phướng thức giáo dục bảo vệ mơi trường là phải
đảm bảo tính tồn diện từ bậc học Mầm non cho đến bậc THPT và “thực hiện
theo phương thức khai thác triệt để tri thức về môi trường hiện có ở các mơn học


4
trong nhà trường. Nội dung giáo dục bảo vệ môi trường cịn được thực hiện
ngồi nhà trường dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm nâng cao nhận thức và
trách nhiệm bảo vệ mơi trường cho tồn cộng đồng” (12; 1), Quyết định số
256/2003/ QĐ- TTg ngày 02 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020 đã nhấn mạnh bảo vệ môi trường là một bộ phận không
thể tách rời của chiến lược phát triển kinh tế và là cơ sở đảm bảo sự phát triển
bền vững của đất nước, đây cũng là nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành, các

tổ chức, cộng đồng và của người dân.
Ngoài ra vấn đề này được các tác giả đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu ở dưới
các góc độ khác nhau, một số bài viết đã đề cập đến khía cạnh này hay khía cạnh
khác của vấn đề, cụ thể như:
Hỏi đáp về mơi trường sinh thái của nhóm tác giả Phan Ngun Hồng,
Trần Thị Thu Hương, Nguyễn Phương Nga, NXB Giáo dục, 2005. Các tác giả
biên soạn dưới dạng hỏi đáp về mơi trường nhằm giúp các em học sinh có thêm
hiểu biết về môi trường, về sinh thái, thấy được sự hài hòa của thiên nhiên, đồng
thời nắm được những tác hại đến tài nguyên và môi trường do con người gây ra;
Môi trường và ô nhiễm của Lê Văn Khoa, NXB Giáo dục, 2005, đã đề cập đến
tình hình mơi trường và ô nhiễm môi trường hiện nay, nguyên nhân dẫn đến ô
nhiễm môi trường, trên cơ sở cảnh tỉnh và kêu gọi mọi người chung tay bảo vệ
môi trường; Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong việc bảo vệ mơi trường vì
sự phát triển bền vững của tác giả Thu Hiền được đăng trên báo điện tử của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, trang Giáo dục bảo vệ mơi trường, đã nêu lên tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh về bảo vệ mơi trường. Từ đó, tác giả nhấn mạnh cần phải
học tập tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh về bảo vệ mơi trường trong giai
đoạn hiện nay; Kỷ yếu hội thảo dạy tích hợp nội dung giáo dục bảo vệ môi
trường môn Giáo dục công dân cấp THPT của Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Đồng
Tháp, 2010, Kỷ yếu tập hợp một số bài viết của các giáo viên trong tỉnh về kinh


5
nghiệm tích hợp nội dung giáo dục mơi trường qua một số bài học của môn Giáo
dục công dân. Trên Bản tin giáo dục môi trường của Bộ Giáo dục và Đào tạo –
Giáo dục môi trường trong trường phổ thông Việt Nam – VIE/98/018, số 15, 16,
2003 và số 17, 18, 2004 tập hợp những bài viết của nhiều tác giả viết về môi
trường, về cách thức giáo dục bảo vệ môi trường của học sinh ở một số nơi
trong và ngồi nước thơng qua những việc làm cụ thể, trên cơ sở đó bản tin nêu
lên những kết quả đạt được trong công tác giáo dục môi trường cho học sinh phổ

thông ở một số trường trong nước.
Mặc dù, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về mơi trường và giáo dục ý
thức bảo vệ môi trường, tuy nhiên do đặc điểm kinh tế - xã hội của các vùng,
miền khác nhau, vì vậy cách sống và cách nghĩ cũng khác nhau. Do đó, các bài
viết này chưa đưa ra những giải pháp cụ thể cho từng đơn vị nhằm giáo dục ý
thức bảo vệ môi trường cho học sinh THPT của từng đơn vị trường học.
Hiện nay, việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh THPT nói
chung và học sinh THPT trên địa bàn huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp nói
riêng hầu như chưa có tác giả nào đề cập đến. Nhằm giúp học sinh Đồng Tháp
nói chung và học sinh huyện Tân Hồng nói riêng hiểu biết sâu sắc bản chất các
vấn đề mơi trường, trên cơ sở đó hình thành thói quen, ý thức bảo vệ môi
trường, biết lựa chọn phong cách sống phù hợp với việc sử dụng một cách hợp
lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên để có thể tham gia có hiệu quả việc phịng
ngừa và giải quyết các vấn đề mơi trường, vì vậy chúng tơi chọn vấn đề “Giáo
dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh THPT ở huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng
Tháp (Qua khảo sát một số trường THPT trên địa bàn huyện Tân Hồng, tỉnh
Đồng Tháp) làm đề tài luận văn cao học thạc sỹ.


6
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Tìm hiểu thực trạng ý thức bảo vệ môi trường của học sinh THPT trên địa
bàn huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp, từ đó nêu ra một số giải pháp nhằm nâng
cao ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh THPT trên địa bàn huyện Tân Hồng,
tỉnh Đồng Tháp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ thực trạng nhận thức BVMTcủa học sinh THPT trên địa bàn
huyện Tân Hồng, Tỉnh Đồng Tháp
- Đề xuất một số giải pháp nhằm giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho

học sinh THPT ở huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp một cách có hiệu quả.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu học sinh khối 10 của hai trường THPT
trên địa bàn huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp hiện nay là: Trường THPT Giồng
Thị Đam và Trường THPT Tân Hồng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Ý thức bảo vệ môi trường của học sinh THPT trên địa bàn huyện Tân
Hồng tỉnh Đồng Tháp.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tác giả sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: Phương pháp lịch sử, phương
pháp phân tích tổng hợp, phương pháp quan sát, thu thập thông tin, phương
pháp điều tra.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Nếu đề tài nghiên cứu thành cơng sẽ có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý
luận và thực tiễn:


7
+ Góp phần làm rõ thực trạng ý thức bảo vệ môi trường của học sinh
trung học phổ thông ở huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp.
+ Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
và nghiên cứu cho lãnh đạo nhà trường và các bạn học viên cao học khóa sau.
7. Giả thuyết khoa học
Nếu giáo dục tốt ý thức BVMT cho học sinh THPT sẽ góp phần quan
trọng trong việc cải thiện môi trường trên địa bàn huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng
Tháp giai đoạn hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,

nội dung chính của đề tài được cấu thành 02 chương, 4 tiết.
Chƣơng1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay.
Chƣơng 2. Quan điểm và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh THPT trên địa bàn huyện Tân Hồng,
tỉnh Đồng Tháp giai đoạn hiện nay.


8

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ
MÔI TRƢỜNG CHO HỌC SINH THPT TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận của giáo dục ý thức bảo vệ môi trƣờng cho học sinh
THPT
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1.Ý thức và ý thức xã hội


Ý thức

Khi bàn về vấn đề ý thức, chủ nghĩa Mác- Lênin đã phân tích và làm rõ
qua việc nêu lên nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức.
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần
kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng (CNDVBC) khẳng định rằng ý thức là một
thuộc tính của vật chất, nhưng không phải là của mọi dạng vật chất, mà chỉ là
thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người
là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc con người. Ý thức
phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt

động của ý thức sẽ khơng bình thường. Vì vậy, khơng thể tách rời ý thức ra khỏi
hoạt động của bộ óc. Ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ óc người.
Khoa học đã xác định, con người là sản phẩm cao nhất của quá trình phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của vật chất vận động, đồng thời
đã xác định bộ óc của con người là một tổ chức sống đặc biệt có cấu trúc tinh vi
và phức tạp bao gồm khoảng 14 -15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này có liên
hệ với nhau và với các giác quan, tạo thành vô số những mối liên hệ thu nhận,
điều khiển hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài qua các
phản xạ khơng điều kiện và có điều kiện. Q trình ý thức và quá trình sinh lý


9
trong bộ óc khơng đồng nhất, khơng tách rời, khơng song song mà là hai mặt
của một quá trình sinh lý thần kinh mang nội dung ý thức.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật đã tạo ra những
máy móc hiện đại nhưng dù máy móc có hiện đại và thơng minh đến đâu thì nó
cũng được tạo ra từ chính con người do bộ óc của con người tạo nên. Tuy nhiên,
nếu chỉ có bộ óc người mà khơng có sự tác động của thế giới bên ngồi để bộ óc
phản ánh lại tác động đó thì cũng khơng thể có ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản
ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm
của hệ thống vật chất khác.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản
ánh của vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới vô sinh, thể
hiện qua các q trình biến đổi cơ, lý, hố.
Phản ánh sinh học: Là những phản ánh trong sinh giới trong giới hữu sinh
cũng có nhiều hình thức khác nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới
sinh vật. Phản ánh sinh học được thực hiện thông qua các hình thức của sự kích

thích do tác động của môi trường ở thực vật, các phản xạ ở động vật có hệ thần
kinh và tâm lý ở động vật cấp cao có bộ óc.
Tâm lý động vật là trình độ cao nhất của sự phản ánh ở động vật. Tuy
nhiên, tâm lý động vật chưa hình thành ý thức mà chỉ có tính chất bản năng do
nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do qui luật sinh học chi phối.
Như vậy, ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất - thuộc tính
phản ánh - phát triển thành. Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc
tính phản ánh của vật chất. Nội dung của ý thức là thông tin về thế giới bên
ngoài, về vật được phản ánh. Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu
óc con người. Bộ óc người là cơ quan phản ánh, song chỉ có bộ óc thơi thì chưa
thể có ý thức. Khơng có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và


10
qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức khơng thể xảy ra. Như vậy, bộ óc người
(cơ quan phản ánh về thế giới vật chất xung quanh) cùng với thế giới bên ngồi
tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Để ý thức có thể ra đời, bên cạnh nguồn gốc tự nhiên thì điều kiện quyết
định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trị của lao
động, ngơn ngữ và các quan hệ xã hội.
Quá trình tồn tại và phát triển buộc con người phải lao động, tác động vào
thế giới khách quan, biến đổi các yếu tố của thế giới khách quan nhằm tạo ra các
vật phẩm để ni sống mình. Nhờ vào quá trình cải tạo thế giới khách quan mà ý
thức của con người được hình thành và ngày càng hồn thiện. Tuy nhiên, q
trình hình thành ý thức của con người khơng diễn ra một cách thụ động mà
chính nhờ vào quá trình lao động, con người đã buộc thế giới khách quan bộc lộ
những thuộc tính, kết cấu, qui luật vận động của nó để con người nhận thức.
Nhờ có q trình lao động bộ não của con người ngày càng hoàn thiện làm cho
khả năng tư duy của con người ngày càng cao.
Trong quá trình lao động, ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh

nghiệm, trao đổi tư tưởng với nhau, từ đó ngơn ngữ xuất hiện.
Ăngghen viết: “Đem so sánh con người với các lồi vật, người ta sẽ thấy
rõ rằng ngơn ngữ bắt nguồn từ trong lao động và cùng phát triển với lao động,
đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ” [30; 645].
Như vậy, ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình
thành. Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Khơng có
ngơn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ vừa là phương
tiện giao tiếp trong xã hội, đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái qt hóa,
trừu tượng hóa hiện thực. Nhờ ngơn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn,
trao đổi thông tin, trao đổi tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ý thức không
phải thuần túy là hiện tượng cá nhân mà là một hiện tượng xã hội, do đó khơng
có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngơn ngữ thì ý thức khơng thể hình thành


11
và phát triển được. Vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra
đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh
hiện thực khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các
quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng về bản chất, ý thức là sự phản ánh
khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Thể hiện rằng nội
dung của ý thức do thế giới khách quan quy định. Ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan vì nó nằm trong bộ não con người. Ý thức là cái phản
ánh thế giới khách quan nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ
quan. Ý thức khơng có tính vật chất, nó chỉ là hình ảnh tinh thần, gắn liền với
hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có lựa chọn. Ý thức là
sự phản ánh thế giới bởi bộ não con người.
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới: Ý thức là sự phản ánh hiện thực

khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Tuy nhiên, không phải thế giới khách quan tác động vào bộ óc người là tự
nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về
thế giới, do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và
được thực hiện thông qua hoạt động lao động.
Kết cấu của ý thức phân thành hai chiều:
Theo chiều ngang: bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm,
niềm tin, lý trí…trong đó tri thức là nhân tố cơ bản là cốt lõi; đó là kết quả của
q trình con người nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới khách quan. Ý
thức mà không bao hàm cả tri thức, khơng dựa vào tri thức thì ý thức sẽ trống
rỗng khơng giúp ích cho con người trong thực tiễn.
Sự hiểu biết của con người không chỉ đem lại hiểu biết về thế giới bên
ngồi mà cịn đem lại tình cảm cho họ. Tình cảm một dạng đặc biệt của sự phản


12
ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa con người với con người và quan hệ giữa
người với thế giới khách quan.
Theo chiều dọc: trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người
đồng thời tự nhận thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Tự ý thức là hình
thức của con người về những hành vi, những tình cảm, tư tưởng, động cơ, lợi ích
của mình, về địa vị của mình trong xã hội. Tự ý thức là ý thức hướng về bản
thân mình thơng qua quan hệ thế giới bên ngoài.
Tiềm thức là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm
sốt của chủ thể, song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang
diễn ra dưới sự kiểm sốt của chủ thể ấy.
Vơ thức là những hiện tượng tâm lý khơng phải do lý trí điều khiển. Lĩnh
vực vô thức là lĩnh vực các hiện tượng tâm lý nằm ngồi phạm vi của lý trí mà ý
thức khơng kiểm sốt được trong một lúc nào đó.
Từ việc phân tích nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức chúng ta đi đến

khái niệm: Ý thức là sự phản ánh thế giới xung quanh vào bộ óc con người, có
kết cấu phức tạp bao gồm các yếu tố cơ bản như: cảm xúc, nhu cầu, ý chí, tri
thức… trong đó tri thức là quan trọng nhất và là phương thức tồn tại của ý thức.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
*Ý thức xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ
những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng,... của những cộng
đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những
giai đoạn phát triển nhất định.
Ý thức cá nhân và ý thức xã hội có sự khác nhau một cách tương đối. Ý
thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể. Ý thức
cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với những mức độ khác nhau. Do đó, nó
khơng thể khơng mang tính xã hội. Song, ý thức cá nhân không bao giờ cũng thể


13
hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm của một cộng đồng, một tập đoàn xã hội,
một thời đại xã hội nhất định.
Ý thức, trước hết, mang tính cá nhân, song, trong ý thức bao giờ cũng có
nội dung mà mọi người, hoặc cao hơn là các nhóm xã hội, đều có. Khi các nhu
cầu, mục đích, của các cá nhân, cộng đồng xã hội nào đó định hướng vào nội
dung ý thức của một chủ thể xác định thì đó là lúc bộc lộ sự đồng tâm và đồng
tư tưởng giữa các chủ thể. Như vậy thì ý thức khơng cịn mang tính cá nhân, mà
mang tính xã hội. Ý thức xã hội là yếu tố cần thiết cho sự hoạt động của các
nhóm xã hội riêng biệt cũng như của toàn thể xã hội. Mặt khác, toàn bộ hệ thống
xã hội chỉ có thể hoạt động một cách ổn định khi nội dung của ý thức xã hội, trên
một quy mô lớn, được tái tạo thường xuyên và phù hợp với hệ thống đó.
Trong sự phát triển của mỗi cá nhân, ngoài các yếu tố thuận về chủ thể, họ
cịn bị chi phối bởi quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống của
cộng đồng, tức là bị chi phối bởi ý thức xã hội. Vì vậy, khi ý thức xã hội tiến bộ,

lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cá nhân và ngược lại.
Công lao của C.Mác và Ph.Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến
đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và giải quyết khoa học về sự
hình thành và phát triển của ý thức xã hội. Hai ông đã chứng minh rằng, đời
sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất,
khơng thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân của nó.
CNDV chỉ rõ, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự
phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội,
nhất là khi phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội,
những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ
thuật v.v. sớm hay muộn sẽ biến đổi theo. Tuy nhiên, tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội không phải một cách đơn giản trực tiếp mà còn phải thông qua mắc
khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, lý luận hình thái ý thức
xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời


14
đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh
tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy. Tuy nhiên,
ý thức xã hội không phản ánh tồn tại xã hội một cách thụ động mà ngược lại ý
thức xã hội có tính độc lập tương đối. Ý thức xã hội tồn tại dưới các hình thái
khác nhau. Nhưng trong phần nghiên cứu này, luận văn chỉ đề cập đến hình thái
ý thức đạo đức.
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng… và về những quy tắc đánh giá, điều
chỉnh hành vi ứng xử cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.
Đạo đức là một trong những quan hệ chủ yếu của đời sống xã hội và ý thức đạo
đức là một hình thái giá trị tinh thần cơ bản của con người và xã hội. Là yếu tố
cốt lõi của tính cách con người, đạo đức đóng vai trị rất quan trọng trong đời
sống xã hội và đời sống của mỗi con người. Lịch sử hình thành và phát triển đạo

đức gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của xã hội lồi người, đặc biệt
là gắn liền với các phương thức sản xuất xã hội. Trong lịch sử phát triển tư
tưởng nhân loại đã tồn tại nhiều kiểu đạo đức khác nhau phản ánh trình độ phát
triển của xã hội qua các thời đại lịch sử.
Sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng… phản ánh khả năng tự chủ
của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là biểu hiện bản chất xã hội của con
người. Ý thức đạo đức gồm hệ thống tri thức về giá trị và định hướng giá trị đạo
đức, tình cảm và lý tưởng đạo đức, trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố quan
trọng nhất, nếu thiếu nó thì những khái niệm, phạm trù và mọi tri thức đạo đức
thu nhận được bằng con đường lý tính khơng thể chuyển hóa thành hành vi đạo
đức. Trong q trình phát triển xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang
tính tồn nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và ở các hệ thống đạo đức khác
nhau. Đó là những quy tắc đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi của con người, cần
thiết cho việc giữ gìn trật tự xã hội chung và sinh hoạt thường ngày của mọi
người.


15
Sự hình thành đạo đức mới - đạo đức cộng sản, là một quá trình lâu dài.
Thắng lợi của cách mạng vơ sản chỉ là nền móng đầu tiên cho sự xác lập đạo
đức cộng sản. Như vậy, tính chất và nội dung của đạo đức mới - đạo đức cộng
sản, được quy định bởi yêu cầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Đồng thời, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản làm cho phạm vi thể hiện
hiện thực của nền đạo đức mới này trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Nó được
thể hiện trong toàn bộ hoạt động tinh thần - thực tiễn của con người và trở thành
một thành tố, một phương diện (phương diện đạo đức) của hoạt động đó. Đạo
đức cộng sản được hình thành trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân, bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân. Đạo đức kế thừa
những giá trị đạo đức tốt đẹp của loài người, cụ thể là của nhân dân lao động.
Đạo đức cộng sản địi hỏi mỗi người phải giác ngộ ý thức đồn kết dân tộc, đồn

kết quốc tế, tích cực tham gia vào cơng cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc của
mình; đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân các dân tộc
trên thế giới, vì hịa bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đối với nước ta, khi lựa chọn con đường xây dựng đất nước theo chế độ
xã hội chủ nghĩa tiến tới chủ nghĩa cộng sản là quá trình hết sức khó khăn và
phức tạp, địi hịi lịng kiên trì, sự quyết tâm, ý chí của Đảng cộng Sản và tồn
thể dân tộc Việt Nam. Để đạt được điều đó thì việc xây dựng ý thức đạo đức cho
con người trong xã hội này là vấn đề cần thiết. Một trong những vấn đề cần thực
hiện là giáo dục ý thức bảo vệ mơi trường, bởi vì, BVMT là một trong những
yêu cầu cơ bản nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước. Phát
triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không
làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở
kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và
bảo vệ môi trường.
Ngày nay, vấn đề bảo vệ môi trường khơng cịn là vấn đề riêng của một
quốc gia hay dân tộc nào mà nó đã trở thành vấn đề của toàn nhân loại. Giáo dục


16
ý thức là giáo dục đạo đức để tiến tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là
nhiệm vụ chung của mọi người. Nếu cá nhân nào cũng có đạo đức thì cá nhân đó
sẽ có ý thức tốt trong việc bảo vệ môi trường. Môi trường được đảm bảo thì cá
nhân sẽ an tồn, xã hội phát triển lành mạnh.
1.1.1.2. Mơi trường
“Trong từ điển Tiếng Việt” của Hồng Phê đưa ra khái niệm: Mơi trường
là tồn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay
một sinh vật tồn tại phát triển, trong quan hệ với con người, với sinh vật ấy [28;
635]
Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đưa ra khái niệm: “Môi trường
gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo bao quanh con người, có

ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại phát triển của con người và sinh vật”
[26; 2]
Theo định nghĩa của UNESCO (1981) thì mơi trường của con người bao
gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những
cái hữu hình (tập quán, niềm tin...) trong đó con người sống và lao động, họ khai
thác các tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thỏa mãn những nhu cầu của
mình.
Mơi trường được chia thành:
Môi trường tự nhiên: bao gồm Mặt trời, khí quyển, thời tiết, khí hậu, biển
cả, sơng ngịi, ao, hồ, đồi núi, đất đai, động thực vật, vi sinh vật, con người….
Môi trường này tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người nhưng ảnh
hưởng đến cuộc sống của con người. Mọi hoạt động hàng ngày của con người
điều liên quan đến môi trường như: ăn, uống, hít thở khơng khí, nhà ở, điều kiện
vui chơi giải trí… Như Mác đã nói: “ về mặt thể xác con người chỉ sống bằng
những sản phẩm tự nhiên ấy, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo
quần, nhà ở… về mặt thực tiễn tính phổ biến của con người biểu hiện ra ở chính
cái phổ biến tồn bộ giới tự nhiên thành thân thể vơ cơ của con người [36; 135].


17
Như vậy, môi trường tự nhiên gắn liền với cuộc sống của con người chi phối
mọi hoạt động của con người, tách khỏi môi trường ấy con người không thể tồn
tại được.
Trong quá trình sản xuất thiên nhiên cung cấp cho con người những yếu
tố sau:
Rừng: cung cấp cho con người nhiều loại gỗ quý, nơi phòng chống lũ lụt,
giúp điều hịa khí hậu, bảo vệ sự sống. Những tán cây xanh của rừng có tác
dụng thanh lọc khơng khí, cung cấp dưỡng khí. Đặc biệt, rừng là khu bảo tồn
thiên nhiên vơ cùng q giá với nhiều lồi chim thú quý hiếm, là nguồn đề tài
nghiên cứu của các nhà sinh học.

Đối với dân tộc Việt Nam, rừng còn gắn chặt với từng chặng đường lịch
sử. Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm rừng trở thành “ rừng che bộ
đội rừng vây quân thù”. Trong thời bình, rừng là nơi nghỉ ngơi, an dưỡng, là
điểm tham quan du lịch của mọi người. Rừng đem lại nhiều nguồn lợi ích nên
con người ra sức khai thác nguồn lợi quý giá từ rừng. Bọn lâm tặc săn gỗ khắp
nơi, cùng với việc đốt rừng làm nương rẫy đã thu hẹp diện tích rừng. Nguy hại
nhất là việc phá hoại vành đai rừng phòng hộ, dẫn đến hiểm họa sạt núi, lỡ đất
và những cơn lũ quét không thể ngăn chặn được.
Khai thác rừng để phục vụ cuộc sống là việc làm cần thiết, nhưng muốn
hưởng lợi ích lâu dài từ rừng thì địi hỏi con người phải biết bảo vệ rừng. Nếu
khai thác khơng đi đơi với việc giữ gìn và bảo vệ thì chẳng mấy chốc rừng sẽ
cạn kiệt.
Nước: nước là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng quyết định sự tồn tại
của tất cả sự sống của các sinh vật trên trái đất này. Nước tham gia vào quá trình
tái sinh giới hữa cơ, trao đổi chất, là nơi phản ứng lý hóa học, là dung mơi của
nhiều chất và đóng vai trị dẫn đường cho các muối đi vào cơ thể.
Trong khu dân cư, nước phục vụ cho mục đích sinh hoạt, nâng cao đời
sống tinh thần cho dân, đóng vai trị quan trọng trong sản xuất nông, công


18
nghiệp. Hiện nay, do sự phát triển của khoa học cơng nghệ, sự biến đổi khí hậu
và sự gia tăng dân số đã làm cho nguồn nước sạch của con người ngày càng bị ơ
nhiễm thậm chí ở một số quốc gia cịn xảy ra tình trạng thiếu nước sạch như các
nước ở khu vực Bắc Phi, Trung Đông, Nam Á…Vì vậy địi hỏi tất cả mọi người
phải biết sử dụng tiết kiệm và hợp lý nguồn tài nguyên này để chúng ta ln có
nước sạch để sử dụng.
Động vật và thực vật:
Thực vật: Có vai trị quan trọng trong việc quang hợp, điều hịa khí hậu, là
nguồn dinh dưỡng của lồi người. Một số lồi thực vật có mạch, được coi là cây

thân gỗ hay cây bụi, sản sinh ra các thân gỗ và là nguồn vật liệu xây dựng quan
trọng. Một số các loài cây khác được sử dụng với mục đích làm cảnh hay trang
trí, bao gồm nhiều loại cây hoa. Như vậy, có thể cho rằng thực vật là yếu tố cơ
bản của sự sống trên Trái Đất. Khơng có thực vật thì nhiều sinh vật khác cũng
khơng thể tồn tại, vì các dạng sinh vật cao hơn đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ
thuộc vào thực vật và về cơ bản đều sử dụng thực vật như là nguồn thức ăn.
Trong khi đó, hầu hết mọi thực vật đều có thể sử dụng ánh sáng Mặt Trời tự tạo
thức ăn cho mình.
Động vật: có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người; là nguồn
thức ăn cho con người, là nguồn gen vô cùng quan trọng trong việc nghiên cứu
cũng như cung cấp những loại thuốc quý hiếm phục vụ cho công tác chữa bệnh,
một số lồi động vật góp phần quan trọng trong việc phòng chống sâu bệnh cho
mùa màng phục vụ trong cơng tác sản xuất, đồng thời cịn góp phần quan trọng
trong việc làm phong phú các thảm thực vật.
Hiện nay, tình trạng phá rừng làm nương rẫy và khai thác những loại cây
quý hiếm cũng như việc săn bắt thú đã làm cho một số lồi có nguy cơ tuyệt
chủng. Bên cạnh việc quản lý của các ngành chức năng, đòi hỏi ý thức của mọi
người cùng chung tay bảo vệ rừng, bảo vệ các loài thú quý hiếm.


19
Khí hậu: Tài nguyên khí hậu và cảnh quan bao gồm các yếu tố về thời
tiết khí hậu (khí áp, nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ mặt trời, lượng mưa...) địa hình,
khơng gian trống... Các yếu tố khí hậu có vai trò to lớn trong đời sống và sự phát
triển của sinh vật và con người. Tác động của khí hậu đến con người trước hết
thông qua nhịp điệu của chu trình sống: nhịp điệu ngày đêm, nhịp điệu mùa
trong năm, nhịp điệu tháng và tuần trăng. Các nghiên cứu của các nhà khoa học
cho thấy, tình trạng sức khoẻ, tốc độ phát triển của sinh vật phụ thuộc vào thời
điểm của các chu trình sống trên. Cường độ và đặc điểm của bức xạ mặt trời có
tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của sinh vật và tăng trưởng sinh khối.

Khí hậu thời tiết có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tình trạng sức khoẻ con
người, tạo ra sự tăng độ tử vong ở một số bệnh tim mạch, các loại bệnh tật theo
mùa v.v... Trong giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh tế và giao lưu xã hội,
khí hậu, thời tiết đang trở thành một dạng tài nguyên vật chất quan trọng của con
người. Khí hậu, thời tiết thích hợp tạo ra các khu vực du lịch, ni trồng một số
sản phẩm động thực vật có giá trị kinh tế cao (hoa, cây thuốc, các nguồn gen q
hiếm khác.)
Khống sản: Tài ngun khống sản là tích tụ vật chất dưới dạng hợp chất
hoặc đơn chất trong vỏ trái đất, mà ở điều kiện hiện tại con người có đủ khả
năng lấy ra các nguyên tố có ích hoặc sử dụng trực tiếp chúng trong đời sống
hàng ngày.
Tài nguyên khoáng sản thường tập trung trong một khu vực gọi là mỏ
khống sản. Tài ngun khống sản có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển
kinh tế của loài người và khai thác sử dụng tài nguyên khống sản có tác động
mạnh mẽ đến mơi trường sống. Một mặt, tài nguyên khoáng sản là nguồn vật
chất để tạo nên các dạng vật chất có ích và của cải của con người. Bên cạnh đó,
việc khai thác tài ngun khống sản thường tạo ra các loại ơ nhiễm như bụi,
kim loại nặng, các hoá chất độc và hơi khí độc (SO2, CO, CH4 v.v...).


20
Cũng chính q trình lao động sản xuất và tồn tại con người buộc phải
thải vào môi trường một lượng chất thải. Chất thải dưới tác động của vi sinh vật
và môi trường sẽ phân hủy nuôi sống các cây và nhiều sinh vật khác. Tuy nhiên,
do q trình đơ thị hóa và sự gia tăng dân số con người đã thải vào môi trường
lượng chất thải ngày càng nhiều làm cho sự phân hủy của sinh vật trở nên quá
sức. Điều đó, đã dẫn đến sự quá tải, gây sức ép cho môi trường và làm cho môi
trường ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và
đời sống của con người cụ thể như: sự biến đổi khí hậu, băng tan, lũ lụt, hạn
hán, dịch bệnh…

Như vậy môi trường là nơi chứa các chất thải của đời sống và sản xuất.
Tuy nhiên, nếu con người khơng biết xử lý và có ý thức bảo vệ mơi trường thì
con người sẽ hủy hoại cuộc sống của chính mình.
Mặc khác, mơi trường trái đất được coi là nơi lưu trữ và cung cấp thông
tin cho con người bởi vì chính mơi trường trái đất là nơi cung cấp sự ghi chép và
lưu trữ lịch sử địa chất, lịch sử tiến hoá của vật chất và sinh vật, lịch sử xuất hiện
và phát triển văn hoá của lồi người. Cung cấp các chỉ thị khơng gian và tạm
thời mang tính chất báo động sớm các nguy hiểm đối với con người và sinh vật
sống trên trái đất như các phản ứng sinh lý của cơ thể sống trước khi xảy ra các
tai biến thiên nhiên và hiện tượng thiên nhiên đặc biệt như bão, động đất, v.v.
Lưu trữ và cung cấp cho con người sự đa dạng các nguồn gien, các loài động
thực vật, các hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo, các vẻ đẹp và cảnh quan có giá trị
thẩm mỹ, tơn giáo và văn hố khác. Đồng thời, các thành phần trong mơi trường
có vai trị trong việc bảo vệ đời sống cho con người và các sinh vật tránh khỏi
những tác động từ bên ngồi như: tầng Ơzon trong khí quyển có nhiệm vụ hấp
thụ và phản xạ trở lại các tia cực tím từ năng lượng mặt trời.
Mơi trường nhân tạo: bao gồm những gì con người tạo dựng nên như:
làng mạc, thành phố, cơng trường, nhà máy… Trong q trình tồn tại và phát
triển trong môi trường tự nhiên, con người không ngừng cải tạo tự nhiên, buộc


×