Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Giáo dục đạo đức cách mạng cho học viên sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở trường sĩ quan kỹ thuật quân sự thành phố hồ chí minh trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (676.72 KB, 78 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN MAI LÂM

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO HỌC VIÊN SĨ
QUAN CHỈ HUY CẤP PHÂN ĐỘI Ở TRƯỜNG SĨ QUAN
KỸ THUẬT QUÂN SỰ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2012


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN MAI LÂM

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO HỌC VIÊN SĨ
QUAN CHỈ HUY CẤP PHÂN ĐỘI Ở TRƯỜNG SĨ QUAN
KỸ THUẬT QUÂN SỰ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Chuyên ngành:
Mã số:



Lý luận và PPGD bộ mơn Giáo dục chính trị
60 14 06

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Ng

ih

ng d n ho học : TS Đinh Trung Thành

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2012


3

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU..............................................................................................4
B. NỘI DUNG ........................................................................................10
CHƢƠNG 1 : GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO HỌC VIÊN ĐÀO
TẠO SĨ QUAN CHỈ HUY CẤP PHÂN ĐỘI Ở TRƢỜNG SĨ QUAN KỸ
THUẬT QUÂN SỰ - MỘT YÊU CẦU CẤP THIẾT TRONG GIAI ĐOẠN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ..............................................................10
1.1Một số khái niệm trong luận văn ........................................................................................10

1.2 Giáo dục đạo đức cách mạng cho học viên sĩ quan chỉ huy cấp phân đội là một
yêu cầu khách quan trong giai đoạn hiện nay............................................................31
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO
HỌC VIÊN SĨ QUAN CHỈ HUY CẤP PHÂN ĐỘI Ở TRƢỜNG SĨ QUAN KỸ
THUẬT QUÂN SỰ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................................37

2.1 Khái quát về Trƣờng Sĩ quan kỹ thuật Quân sự ..............................................37
2.2 Đặc điểm của đào tạo học viên sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ..........................41
2.3 Tình hình giáo dục ĐĐCM đối với học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp
phân đội ở trƣờng sĩ quan Kỹ thuật Quân sự thành phố Hồ Chí Minh ................43
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CHO HỌC VIÊN SĨ QUAN CHỈ HUY CẤP PHÂN ĐỘI Ở
TRƢỜNG SĨ QUAN KỸ THUẬT QUÂN SỰ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG .........................53
3.1 Bối cảnh trong nƣớc và thế giới ảnh hƣởng đến công tác giáo dục đạo đƣc
cách mạng cho học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trƣờng Sĩ quan
kỹ thuật Quân sự thành phố Hồ Chí Minh .............................................................53
3.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học viên đào tạo sĩ
quan chỉ huy cấp phân đội ở trƣờng sĩ quan Kỹ thuật Quân sự thành phố Hồ Chí
Minh .........................................................................................................................57

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..........................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................73
PHỤ LỤC ...............................................................................................76


4
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết củ đề tài
Sự nghiệp đổi mới đất nƣớc do Đảng ta lãnh đạo trong hơn hai mƣơi lăm
năm và hai mƣơi năm thực hiện Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (1991) đã giành đƣợc những thành tựu to lớn. Đại hội XI của
Đảng đánh giá: “Sau 20 năm thực hiện Cƣơng lĩnh, chúng ta đã giành đƣợc
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử” [8, tr.41].
Trong những thành tựu đã đạt đƣợc thì thành tựu trong việc xây dựng, phát
triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng Xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa cực kỳ quan

trọng. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực đã đạt đƣợc nhƣ thúc đẩy kinh tế – xã hội
nƣớc ta phát triển, nền kinh tế thị trƣờng (KTTT) mà chúng ta xây dựng cũng có
những mặt trái của nó và chúng là những trở lực trên con đƣờng đi đến mục tiêu
chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nƣớc ta nhƣ: phân hoá giàu nghèo, tệ quan liêu tham
nhũng gia tăng, tƣ tƣởng, đạo đức, lối sống bị suy thối có chiều hƣớng lan rộng
trong các tầng lớp xã hội, nhất là trong thanh niên.
Quân đội nhân dân nói chung, Trƣờng Sĩ quan Kỹ thuật Quân sự nói riêng
là một bộ phận của xã hội, khơng nằm ngồi sự tác động có tính hai mặt đó. Là
trung tâm đào tạo sĩ quan Kỹ thuật – lực lƣợng nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc, những năm qua Trƣờng Sĩ quan Kỹ thuật Quân sự đã hoàn thành tốt
chức năng nhiệm vụ của mình, đào tạo ra các thế hệ sĩ quan kỹ thuật có đủ
“đức” và “tài” đáp ứng mục tiêu yêu cầu đào tạo, góp phần to lớn vào nhiệm vụ
xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bƣớc hiện đại. Các học viên sau khi tốt nghiệp ra trƣờng đã trở thành sĩ quan có
năng lực tổ chức, chỉ huy, quản lý, đồng thời là cán bộ có lập trƣờng tƣ tƣởng
vững vàng, kiên định với mục tiêu lý tƣởng của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn
thành nhiệm vụ, có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh đƣợc nhân dân yêu
mến.
Tuy nhiên, trong quá trình đào tạo, ở một bộ phận học viên đã xuất hiện tƣ


5
tƣởng tính tốn thiệt hơn, ngại khó khăn gian khổ, thiếu tự giác tu dƣỡng rèn
luyện, sống tự do, chạy theo đồng tiền, coi nhẹ giá trị văn hoá, đạo đức…
Những biểu hiện tiêu cực đó có nguyên nhân từ tác động của mặt trái nền
KTTT, đòi hỏi phải đƣợc ngăn chặn, khắc phục kịp thời.
Trƣớc yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ
nghĩa (XHCN), nhiệm vụ xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện trong bối
cảnh đất nƣớc đang đẩy mạnh phát triển nền KTTT định hƣớng XHCN; trƣớc sự
chống phá của các thế lực thù địch, cùng với sự ảnh hƣởng tiêu cực của mặt trái

nền KTTT đòi hỏi việc phát triển đạo đức cách mạng (ĐĐCM) cho cán bộ, đảng
viên nói chung, học viên sĩ quan chỉ huy (SQCH) cấp phân đội ở Trƣờng Sĩ
quan Kỹ thuật Quân sự thành phố Hồ Chí Minh nói riêng càng trở nên quan
trọng và cấp thiết.
Từ những yêu cầu lý luận và thực tiễn cấp bách đó, tác giả quyết định chọn
vấn đề: “Giáo dục đạo đức cách mạng cho học viên sĩ quan chỉ huy cấp phân
đội ở trường sĩ quan Kỹ thuật Quân sự thành phố Hồ Chí Minh trong bối
cảnh phát triển kinh tế thị trường ” làm luận văn tốt nghiệp cao học thạc sĩ
chuyên ngành Lý luận và phƣơng pháp giảng dạy bộ mơn Giáo dục Chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên qu n đến đề tài luận văn
Về giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên nói chung và giáo dục đạo
đức cách mạng cho học viên sĩ quan cấp phân đội nói riêng đã có nhiều cơng
trình, nhiều đề tài, luận văn, luận án nghiên cứu, tiêu biểu nhƣ: Lê Duẩn, Con
đường tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của thanh niên, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội
1975; “Tác động của nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa đến lối sống sĩ
quan trẻ Quân khu I hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Chủ nghĩa xã hội của Vũ Đình
Đắc; “Bồi dưỡng lối sống xã hội chủ nghĩa cho đội ngũ sĩ quan trẻ trong quân
đội hiện nay”, đề tài của Ban xã hội học quân sự, Viện khoa học xã hội nhân văn
quân sự - Bộ Quốc phòng, 2004; “Khắc phục ảnh hưởng của lối sống thực dụng


6
đối với học viên đào tạo sĩ quan ở Học viện Phịng khơng khơng qn hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ Triết học của Lê Văn Ngọc, 2005; “Phát triển ĐĐCM của học
viên đào tạo sĩ quan chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự hiện
nay”, Luận văn Thạc sĩ Triết học của Đinh Phú Cƣờng, 2004; “Nâng cao bản
lĩnh chính trị, năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ chủ trì cơng tác đảng,
cơng tác chính trị ở đơn vị cơ sở, đề tài cấp Bộ năm 2004 do thiếu tƣớng
TS.Trần Danh Bích làm chủ nhiệm; “Xây dựng bản lĩnh chính trị, phẩm chất
cách mạng cho cán bộ công nhân viên chiến sĩ quân đội làm kinh tế” đề tài cấp

Bộ Quốc phòng năm 1998 do Thiếu tƣớng Phạm Tuân làm chủ nhiệm; “Nâng
cao bản lĩnh chính trị sĩ quan trẻ của Quân đội nhân dân hiện nay” luận án tiến
sỹ khoa học Quân sự, năm 1996 do Nguyễn Đình Tu làm chủ nhiệm; “Những
giải pháp cơ bản nâng cao bản lĩnh chính trị của học viên đào tạo chính uỷ ở
học viện Chính trị Quân sự trong điều kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương
mại thế giới” đề tài cấp học viện năm 2007 do TS. Nguyễn Hữu Luận làm chủ
nhiệm và nhiều bài viết trên các tạp chí của quốc phịng, tạp chí về giáo dục lý
luận chính trị.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến khía cạnh khác nhau của đạo
đức lối sống nhƣ sự biến đổi của nó trong xu thế tồn cầu hố và trong nền KTTT
hiện nay, vấn đề giáo dục phẩm chất đạo đức trong quân đội, cũng nhƣ việc khắc
phục những ảnh hƣởng của chủ nghĩa thực dụng trong lối sống của cán bộ, chiến
sỹ trong quân đội ta. Tuy nhiên, nghiên cứu về sự tác động của điều kiện kinh tế xã hội mà trực tiếp là nền KTTT đến giáo dục ĐĐCM của học viên SQCH cấp
phân đội ở Trƣờng Sĩ quan Kỹ thuật Qn sự hiện nay chƣa có cơng trình nào đề
cập đến với tƣ cách là một đề tài độc lập. Vì vậy đề tài tác giả lựa chọn khơng
trùng với bất kì cơng trình nghiên cứu khoa học nào đã đƣợc cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu củ luận văn
3.1. Mục đích
Dƣới góc độ khoa học giáo dục, luận văn làm rõ sự tác động của nền KTTT


7
đến việc giáo dục ĐĐCM cho học viên sĩ quan, từ đó đề xuất một số giải pháp
cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ĐĐCM cho học viên SQCH cấp phân
đội ở Trƣờng Sĩ quan Kỹ thuật Quân sự thành phố Hồ Chí Minh.
3.2 Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của việc giáo dục ĐĐCM cho học viên
SQCH cấp phân đội ở Trƣờng Sĩ quan Kỹ thuật Quân sự thành phố Hồ Chí
Minh trƣớc sự tác động của nền kinh tế thị trƣờng.
- Phân tích thực trạng, nguyên nhân và những yêu cầu của việc giáo dục

ĐĐCM cho học viên.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục ĐĐCM của
học viên trong thời gian học tập tại trƣờng và tiếp tục hoàn thiện phẩm chất ĐĐCM
khi ra trƣờng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của đề tài giới hạn trong chỉ nghiên cứu trong vấn
đề giáo dục đạo đức cách mạng cho học viên sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở
trƣờng sĩ quan Kỹ thuật Quân sự Tp. Hồ Chí Minh trong bối cảnh phát triển nền
kinh tế thị trƣờng.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và ph ơng pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về ĐĐCM và giáo dục ĐĐCM cho thế hệ trẻ; đồng thời quán triệt các chỉ
thị, Nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự trung ƣơng, Bộ quốc phịng, Tổng Cục
Chính trị Qn đội nhân dân Việt Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong quân đội.
5.2 Cơ sở thực tiễn
Luận văn kế thừa kết quả của các cơng trình nghiên cứu đã công bố và căn
cứ vào những số liệu báo cáo, sơ tổng kết của các đơn vị trong Trƣờng Sĩ quan


8
Kỹ thuật Quân sự và căn cứ vào thực trạng đạo đức, lối sống của học viên
SQCH cấp phân đội ở trƣờng Sĩ quan Kỹ thuật Quân sự hiện nay qua một số
nguồn tài liệu và kết quả quan sát, tổng hợp nghiên cứu của tác giả.
6. Ph ơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử dụng
các phƣơng pháp nghiên cứu của khoa học giáo dục khoa học xã hội và nhân
văn nói chung và khoa học xã hội và nhân văn Quân sự nói riêng, trong đó đặc
biệt chú trọng các phƣơng pháp cụ thể: Phân tích và tổng hợp, lơgíc và lịch sử,

thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn…
7. Ý nghĩ lý luận và thực tiễn củ luận văn
Với kết quả nghiên cứu bƣớc đầu, luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận,
thực tiễn về ảnh hƣởng của KTTT đến vấn đề giáo dục ĐĐCM của học viên
SQCH cấp phân đội ở Trƣờng Sĩ quan Kỹ thuật Quân sự hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng
dạy các vấn đề có liên quan trong các Học viện, nhà trƣờng quân đội hiện nay;
đồng thời đóng góp cơ sở cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong việc giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM của học viên SQCH cấp phân đội ở trƣờng sĩ quan Kỹ thuật Quân
sự thành phố Hồ Chí Minh.
8 Giả thuyết ho học
Giáo dục đạo đức cách mạng cho học viên sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở
trƣờng sĩ quan Kỹ thuật Quân sự trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trƣờng
sẽ góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội có đầy đủ phẩm chất và năng lực,
đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới.
9. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Giáo dục đạo đức cách mạng cho học viên đào tạo sĩ quan chỉ


9
huy cấp phân đội ở trƣờng sĩ quan Kỹ thuật Quân sự - một yêu cầu cấp thiết
trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trƣờng
Chƣơng 2: Thực trạng giáo dục đạo đức cách mạng cho học viên sĩ quan
chỉ huy cấp phân đội ở trƣờng sĩ quan Kỹ thuật Quân sự hiện nay
Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho
học viên sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở trƣờng sĩ quan Kỹ thuật Quân sự trong
bối cảnh phát triển kinh tế thị trƣờng



10
B. NỘI DUNG
Ch ơng 1
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ
QUAN CHỈ HUY CẤP PHÂN ĐỘI Ở TRƯỜNG SĨ QUAN KỸ THUẬT
QUÂN SỰ - MỘT YÊU CẦU CẤP THIẾT TRONG GIAI ĐOẠN PHÁT
TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.

Một số hái niệm trong luận văn

1.1.1 Giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng
1.1.1.1 Giáo dục đạo đức
Giáo dục: Theo từ "Giáo dục" tiếng Anh - "Education" - vốn có gốc từ
tiếng La tinh "Educare" có nghĩa là "làm bộc lộ ra". Có thể hiểu "giáo dục là quá
trình, cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của ngƣời đƣợc giáo
dục".
Giáo dục đƣợc coi là một hiện tƣợng xã hội, hiện tƣợng này nảy sinh, tồn
tại, phát triển và tiến bộ cùng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội lồi ngƣời,
trong đó nổi bật là việc các thế hệ đi trƣớc truyền thụ lại các kinh nghiệm sống,
kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm hoạt động xã hội nói chung cho các thế hệ
sau.
Các nhà nghiên cứu lịch sử giáo dục học đã chứng minh rằng : Từ thời cổ
xƣa cho đến nay, khi nói đến giáo dục là ngƣời ta nói đến những tác động làm
phát triển con ngƣời cả về thể chất lẫn tâm hồn tức là dạy dỗ, bảo ban, ni
nấng, chăm sóc. Xã hội ngày càng phát triển, nội dung kinh nghiệm ngày càng
phong phú và việc truyền thụ kinh nghiệm ngày càng đƣợc chuyên môn hóa dần.
Trong xã hội dần dần xuất hiện những nhà tri thức – nghề dạy học ra đời.

Nhƣ vậy về thực chất, nếu xét theo phƣơng diện lịch sử, giáo dục là hiện
tƣợng xã hội trong đó thế hệ trƣớc truyền thụ cho thế hệ sau những kinh nghiệm
lịch sử xã hội (chứa đựng những giá trị văn hóa của xã hội, kinh nghiệm xã hội
bao gồm: Những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, niềm tin, các thái độ …Tức là các


11
chuẩn mực, các phƣơng thức và các phƣơng tiện của các hoạt động và giao lƣu
của con ngƣời), thế hệ sau lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội đó biến nó thành
kinh nghiệm của bản thân, thành nhân cách của mình để có thể tham gia vào
cuộc sống, tham gia vào hoạt động lao động sản xuất và các hoạt động xã hội
khác, cũng nhƣ các mối quan hệ xã hội. Nếu xét về phƣơng diện xã hội thì giáo
dục là sự truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội giữa ngƣời
này và ngƣời kia. Trong quá trình lĩnh hội và sử dụng những kinh nghiệm lịch
sử xã hội, nhân cách đƣợc hình thành và ngày càng phát triển đầy đủ hơn. Trong
q trình đó các thế hệ sau không chỉ tiếp thu, lƣu trữ, giữ gìn mà cịn phát triển
giá trị văn hóa xã hội, do đó góp phần phát triển xã hội. Cho nên, sự kế tục các
thế hệ - đó là quy luật của sự tiến bộ xã hội.
Có thể nói việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm đã đƣợc tích luỹ
trong quá trinh lịch sử phát triển của xã hội loài ngƣời là nét đặc trƣng cơ bản
của giáo dục với tƣ cách là một hiện tƣợng xã hội. Nó là nhu cầu sống con của
con ngƣời, là chức năng khơng thể thiếu đƣợc của xã hội lồi ngƣời.
Trong bất cứ một xã hội nào, mục đích của giáo dục đều là chăm sóc, bồi
dƣỡng con ngƣời ở lứa tuổi đi học, là truyền thụ một cách có ý thức cho thế hệ
trẻ những kinh nghiệm xã hội, những giá trị văn hóa – tinh thần của loai ngƣời
và của dân tộc nhằm làm cho thế hệ trẻ có khả năng tham gia mọi mặt của cuộc
sống góp phần phát triển xã hội.
Vì vậy, giáo dục là một hiện tƣợng xã hội đặc biệt, đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của xã hội lồi ngƣời, giáo dục mang tính phổ biến và tồn tại cùng với
xã hội loài ngƣời.

Đạo đức: Với tƣ cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tƣ
tƣởng đạo đức học đã xuất hiện rất lâu trƣớc đây trong triết học Trung Quốc, Ấn
Độ, Hy Lạp cổ đại.


12
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) - lề thói,
(moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Cịn “ln lí” thƣờng xem
nhƣ đồng nghĩa với “đạo đức” thì gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos nghĩa là lề thói;
tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến
những lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa ngƣời và ngƣời
trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này ngƣời ta thƣờng phân biệt hai
khái niệm, moral là đạo đức, cịn Ethicos là đạo đức học.
Ở Phƣơng Đơng, các học thuyết về đạo đức của ngƣời Trung Quốc cổ đại
bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những phạm trù
quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đƣờng,
đƣờng đi, về sau khái niệm đạo đƣợc vận dụng trong triết học để chỉ con đƣờng
của tự nhiên. Đạo cịn có nghĩa là con đƣờng sống của con ngƣời trong xã hội.
Khái niệm đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ đó
trở đi nó đƣợc ngƣời Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến
nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là
nguyên tắc luân lý. Nhƣ vậy có thể nói đạo đức của ngƣời Trung Quốc cổ đại
chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi ngƣời
phải tuân theo.
Hầu hết các quan điểm đƣơng đại đều thống nhất cho rằng: đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã
hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con ngƣời trong quan hệ
với nhau và quan hệ với xã hội, chúng đƣợc thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của dƣ luận xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức sinh ra trƣớc hết là

từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong đấu tranh
xã hội, trong phân phối sản phẩm để con ngƣời tồn tại và phát triển. Cùng với sự
phát triển của sản xuất, các quan hệ xã hội, hệ thống các quan hệ đạo đức, ý thức


13
đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó mà ngày càng phát triển, ngày càng nâng
cao, phong phú, đa dạng và phức tạp.
Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan, là
sản phẩm của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con ngƣời. Những quan hệ
ngƣời – ngƣời, cá nhân - xã hội càng có ý thức, tự giác, ý nghĩa và hiệu quả của
chúng càng có tính chất xã hội rộng lớn thì hoạt động của con ngƣời càng có đạo
đức. Trong tập 3 Mác, Ăngghen toàn tập nêu rõ Đạo đức “đã là một sản phẩm xã
hội, và vẫn là nhƣ vậy chừng nào con ngƣời còn tồn tại”.
Giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng chính là phƣơng thức
chuyển văn hóa đạo đức của xã hội thành văn hóa đạo đức của cá nhân. Nói
cách khác, đó là phƣơng thức và q trình chuyển những ngun tắc, những
chuẩn mực, những quan điểm và lý tƣởng đạo đức của xã hội thành những phẩm
chất đạo đức cá nhân, thành nhu cầu và tình cảm đạo đức, thành niềm tin và tri
thức, thành trách nhiệm và nghĩa vụ, thành ý chí và động cơ cá nhân, thành năng
lực sáng tạo và đánh giá đạo đức của mỗi con ngƣời. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, cơng việc này phải tiến hành thƣờng xuyên, phải “rèn luyện bền bỉ hàng
ngày”, phải coi đây là công việc của tất cả mọi ngƣời và diễn ra ở mọi lúc, mọi
nơi. Đây cũng là một cơng việc hết sức khó khăn, nó địi hỏi một sự nỗ lực, tính
tự kiềm chế và cả đức tính kiên trì. Một con ngƣời hơm nay là tốt nhƣng chƣa có
gì có thể đảm bảo chắc chắn rằng, ngày mai, ngày kia anh ta cũng vẫn là ngƣời
tốt. Cho nên, mỗi con ngƣời, trong suốt cuộc đời của mình, cần phải nỗ lực rèn
luyện liên tục để khẳng định và vƣơn tới cái thiện, chống lại cái ác trong cuộc
sống và ngay cả trong chính bản thân mình.
1.1.1.2. Giáo dục đạo đức cách mạng

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giáo dục đạo đức cách mạng cho rằng
Đạo đức có thể tiếp cận nhƣ một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh và bị quy
định bởi tồn tại xã hội. Điều đó có nghĩa là, các quan niệm, quan điểm, các nguyên


14
tắc, các chuẩn mực, các lý tƣởng, niềm tin và tình cảm đạo đức… tức tồn bộ ý
thức đạo đức, xét đến cùng, đều là biểu hiện của một trạng thái, một trình độ phát
triển nhất định những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Nhƣ vậy, đạo đức
phản ánh tồn tại xã hội, mang bản chất xã hội.
Đạo đức mang bản chất xã hội, nó chỉ xuất hiện trong xã hội loài ngƣời,
trong thế giới động vật khơng có đạo đức. Một số quan điểm đạo đức hạ thấp
đạo đức xuống quy luật sinh tồn nhƣ loài vật là sai lầm. Trong đời sống xã hội
con ngƣời luôn đấu tranh vƣơn tới không chỉ do sự sinh tồn, mà cịn là hồn
thiện chất nhân đạo, nhân văn, tiến bộ. Chính những nhu cầu bên trong vốn có
đó mà loài ngƣời sáng tạo ra những giá trị đạo đức. Cuộc đấu tranh để vƣơn tới
cái nhân đạo, nhân văn, tiến bộ và hoàn thiện nhân cách ngƣời là q trình
khơng ngừng đào thải những cái phản nhân đạo, nhân văn. Đó là cuộc đấu tranh
giữa thiện và ác. Lịch sử phát triển đạo đức trải qua những giai đoạn, những
bƣớc thăng trầm khác nhau, nhƣng xu thế chung và cuối cùng cái thiện sẽ chiến
thắng. Cuộc đấu tranh đó xun suốt lịch sử và trên bề rộng tồn bộ các lĩnh vực
xã hội. Bởi cái thiện bao giờ cũng đại diện cho xu hƣớng phát triển nó gắn với
khoa học, tƣ tƣởng nhân đạo, nhân văn.
Đạo đức là một hiện tƣợng xã hội nó bao gồm ý thức đạo đức, hành vi đạo
đức, quan hệ đạo đức. Tiếp cận đạo đức phải xác định nó là một bộ phận của
kiến trúc thƣợng tầng. Nó khơng chỉ là tƣ tƣởng mà còn là hành vi, quan hệ,
hành động đạo đức. Các tổ chức hiện thực hoá tƣ tƣởng trên hiện thực. Nhƣ vậy,
đạo đức cũng là một chỉnh thể bao gồm các yếu tố khác nhau trong tính thống
nhất. Bản chất đạo đức là cái phản ánh hiện thực xã hội. Tức là đạo đức hình
thành, phát triển trên nền tảng hiện thực là cơ sở hạ tầng ấy. Nhƣ vậy, sự phát

triển của đạo đức phụ thuộc vào sự phát triển của nền tảng kinh tế, cơ sở hạ tầng
xã hội.
Cùng với tính thời đại và tính dân tộc, Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý đến tính
giai cấp của đạo đức. Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, mỗi giai cấp


15

có vai trị, địa vị khác nhau trong hệ thống kinh tế, xã hội và do đó họ có các lợi ích
khác và đối nghịch nhau và ơng cho rằng, trong xã hội có phân chia giai cấp, mỗi
hệ thống đạo đức đều biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất định. Đạo đức với tƣ
cách là hình thái ý thức xã hội đã phản ánh và khẳng định lợi ích của mỗi giai cấp,
ý thức đạo đức giúp mỗi giai cấp hiểu đƣợc lợi ích của nó, hiểu đƣợc những cách
thức, biện pháp bảo vệ và khẳng định lợi ích giai cấp, mỗi giai cấp đều sử dụng đạo
đức của mình nhƣ là cơng cụ bảo vệ lợi ích của mình. Nhƣ vậy, tính giai cấp của
đạo đức là biểu hiện đặc trƣng của bản chất xã hội của đạo đức trong xã hội có giai
cấp (vì xã hội là quan hệ ngƣời - ngƣời, quan hệ ngƣời - ngƣời không trừu tƣợng
mà gắn với quan hệ kinh tế - xã hội). Trong xã hội có giai cấp thì ý thức đạo đức
mang bản chất giai cấp sâu sắc. Bản chất giai cấp của đạo đức là mỗi giai cấp
khác nhau có hệ thống chuẩn mực, quan hệ đạo đức khác nhau. Trong xã hội có
giai cấp thì xung đột giá trị, chuẩn mực đạo đức diễn ra gay go, quyết liệt. Do
đó, khơng có đạo đức chung chung, đứng trên mọi sự phân biệt giai cấp, trong xã
hội có giai cấp, các chuẩn mực, giá trị đạo đức của giai cấp thống trị đóng vai trị
chi phối toàn bộ đời sống đạo đức xã hội và áp đặt truyền bá trong toàn xã hội.
Kế thừa và phát triển tƣ tƣởng trƣớc đó, C.Mác viết: “Nếu nhƣ lợi ích đúng
đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho lợi ích riêng
của con ngƣời cá biệt phù hợp với lợi ích của tồn thể lồi ngƣời” [18, tr.199-200].
Đối với ơng, vấn đề không phải ở chỗ đối lập một cách tách rời giữa lợi ích và đạo
đức, mà là giải quyết nhƣ thế nào quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội để
hành vi thực hiện lợi ích của con ngƣời trở thành hành vi đạo đức. Lợi ích cá nhân,

khi phù hợp với lợi ích xã hội thì trở thành một bộ phận của lợi ích xã hội; và trong
trƣờng hợp đó, hành vi thực hiện lợi ích cá nhân là chính đáng về mặt đạo đức. Tuy
nhiên trong điều kiện xã hội còn phân chia giai cấp thì lợi ích cá nhân khó có thể
phù hợp với lợi ích xã hội một cách phổ biến. Vì vậy, ra sức làm cho lợi ích của
con ngƣời cá biệt phù hợp với lợi ích của tồn thể lồi ngƣời có nghĩa là, ra sức đấu
tranh cho sự hình thành xã hội cộng sản chủ nghĩa, nơi mà lợi ích cá nhân hồn


16

tồn thống nhất với lợi ích xã hội của tồn thể xã hội, của lồi ngƣời. Theo C.Mác
đạo đức khơng phải là sự phản ánh trực tiếp cơ sở kinh tế, và quan hệ giữa kinh tế
với đạo đức không phải là quan hệ đơn trị, một chiều. Vì vậy, không phải mọi biến
đổi nào trong cơ sở kinh tế cũng đều nhất thiết và ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi
tƣơng ứng trong đạo đức. Nhìn nhận đạo đức nhƣ một hình thái ý thức xã hội,
C.Mác khơng những đã chỉ ra tính quy định của kinh tế đối với đạo đức, mà còn
cho thấy những ảnh hƣởng của triết học, chính trị, khoa học, nghệ thuật, tơn giáo…
nghĩa là toàn bộ đời sống tinh thần đối với đạo đức. Đồng thời ông cũng chỉ ra sự
kế thừa đó lại bị quy định bởi lợi ích giai cấp đang tiến hành xây dựng hệ thống đạo
đức của mình.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin rất coi trọng giáo dục đạo
đức. C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng phải trong chiến đấu sản xuất: chỉ có một
cuộc cách mạng mới cho phép giai cấp đi lật đổ giai cấp kia vứt bỏ đƣợc mọi sự
thối nát cũ khỏi bản thân mình và trở thành có năng lực xây dựng xã hội trên cơ
sở mới.
Theo đại từ điển tiếng Việt thì nguyên tắc là “những quy định, phép tắc,
tiêu chuẩn làm cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm việc”. Nhƣ vậy, nguyên tắc là
những quy định, những tiêu chuẩn, là khuôn mẫu, nền tảng để mọi hoạt động
thực tiễn làm cơ sở, làm chỗ dựa. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi ĐĐCM là “gốc”, là
“nền tảng”, là cái “căn bản” của ngƣời cách mạng.

Giáo dục đạo đức là một trong những vấn đề nổi bật trong tƣ tƣởng đạo đức
Hồ Chí Minh. Ngƣời đặc biệt nhấn mạnh vai trị của đạo đức và luôn quan tâm
đến việc giáo dục đạo đức trong sự nghiệp trồng ngƣời.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln tâm niệm “vì lợi ích mƣời năm thì
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng ngƣời”. Điều đó đã lý giải vì
sao trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến
giáo dục và đào tạo con ngƣời.


17

Ngƣời đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức và luôn quan tâm đến việc
giáo dục đạo đức trong hoạt động giáo dục và đào tạo. Ngƣời luôn cho rằng,
“hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Đối với Ngƣời,
việc quan tâm đến giáo dục là vì muốn “đào tạo ra những cơng dân tốt và cán bộ
tốt cho nƣớc nhà”. Những công dân tốt, những cán bộ tốt đó, đƣơng nhiên phải
có đủ cả đức lẫn tài.
Giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng, chính là phƣơng thức
chuyển văn hóa đạo đức của xã hội thành văn hóa đạo đức của cá nhân. Nói
cách khác, đó là phƣơng thức và quá trình chuyển những nguyên tắc, những
chuẩn mực, những quan điểm và lý tƣởng đạo đức của xã hội thành những phẩm
chất đạo đức cá nhân, thành nhu cầu và tình cảm đạo đức, thành niềm tin và tri
thức, thành trách nhiệm và nghĩa vụ, thành ý chí và động cơ cá nhân, thành năng
lực sáng tạo và đánh giá đạo đức của mỗi con ngƣời. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, công việc này phải tiến hành thƣờng xuyên, phải “rèn luyện bền bỉ hàng
ngày”, phải coi đây là công việc của tất cả mọi ngƣời và diễn ra ở mọi lúc, mọi
nơi. Đây cũng là một công việc hết sức khó khăn, nó địi hỏi một sự nỗ lực, tính
tự kiềm chế và cả đức tính kiên trì.
Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng sớm nhận thấy rằng, trong điều kiện cơ
chế thị trƣờng, mở cửa với bên ngoài, cán bộ, đảng viên hằng ngày, hằng giờ

chịu sự tác động của nhiều nhân tố phức tạp, kể cả sự chống phá của các thế lực
thù địch, vấn đề giữ vững bản chất giai cấp công nhân và phẩm chất, đạo đức
cộng sản đứng trƣớc những thách thức mới "Một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên thiếu tu dƣỡng bản thân, phai nhạt lý tƣởng, mất cảnh giác, giảm sút ý
chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức và lối sống. Một số thoái hóa
về chính trị, tuy rất ít nhƣng hoạt động của họ gây hậu quả hết sức xấu"[6, tr.93].
Đại hội IX của Đảng (4-2001) cũng thẳng thắn chỉ ra rằng: "Tình trạng tham
nhũng, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không


18
nhỏ cán bộ, Đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ
máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe
dọa sự sống còn của chế độ ta. Tình trạng lãng phí, quan liêu cịn khá phổ biến".
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đánh giá: Cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa
đạt yêu cầu và nêu rõ: "Tình trạng suy thối về tƣ tƣởng chính trị, đạo đức, lối
sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong
một bộ phận cán bộ, cơng chức diễn ra nghiêm trọng".
Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên trong những năm đổi mới đã đƣợc các Đại hội Đảng và Hội nghị
Trung ƣơng nhìn nhận một cách thẳng thắn, nghiêm túc. Có thể quy lại ba
ngun nhân chính của tình trạng đó. Một là, do tác động của nhiều nhân tố
phức tạp trong điều kiện của nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trƣờng,
mở cửa với bên ngoài. Hai là, công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho
cán bộ, đảng viên của các tổ chức đảng chƣa đƣợc chú ý đúng mức, thậm chí
cịn bng lỏng. Ba là, khơng ít cán bộ, đảng viên mang nặng chủ nghĩa cá nhân,
không chịu tu dƣỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống.
Để chặn đứng đà suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên,
một mặt, phải chủ động phòng ngừa những tác động tiêu cực từ bên ngoài; mặt
khác, chủ yếu và quan trọng và phải tăng cƣờng công tác giáo dục, rèn luyện cán

bộ, đảng viên và mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự nghiêm túc tự rèn luyện, tự
mình nâng cao đạo đức cách mạng.
Đạo đức cách mạng chứa đựng nội dung lớn, căn bản và hồn tồn có thể
thực hiện tốt nếu mỗi ngƣời chú trọng tu dƣỡng rèn luyện. Tuân theo những chỉ
dẫn của Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta trong cơng cuộc đổi
mới, có thể hiểu đạo đức cách mạng hiện nay trên mấy điểm chính sau đây:
Tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,
kiên định lý tƣởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu hết


19
sức mình cho sự thắng lợi, sự phát triển của cơng cuộc đổi mới vì dân giàu, nƣớc
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Hết lịng, hết sức phục vụ sự nghiệp của Đảng, của Tổ quốc và nhân dân,
trung với nƣớc, hiếu với dân, đặt lợi ích của cách mạng, của đất nƣớc và nhân
dân lên trên lợi ích của cá nhân, theo nguyên tắc "Dĩ công vị thƣơng".
Thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tƣ. Không tham nhũng, xâm
phạm tài sản của Nhà nƣớc và nhân dân, khơng lãng phí. Chấp hành nghiêm
chỉnh đƣờng lối, cƣơng lĩnh, kỷ luật của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nƣớc.
Ra sức học tập, rèn luyện không ngừng nâng cao trình độ, năng lực cơng
tác, giữ gìn lối sống trong sạch, lành mạnh. Đề cao tự phê bình và phê bình
nhằm góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh.
Gƣơng mẫu trong mọi việc, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân,
đồn kết, thân ái, nêu cao tinh thần thƣơng yêu đồng chí, thƣơng yêu nhân dân.
Để không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên, có
thể và cần phải tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu:
Thứ nhất, phải coi trọng nhiệm vụ giáo dục cho cán bộ, đảng viên về đạo
đức, phẩm chất, lối sống. Nếu trong xã hội, trong hệ thống nhà trƣờng phổ thông
và đại học phải coi trọng giáo dục luân lý, đạo đức cho mọi tầng lớp, cho thế hệ

trẻ, thì trong Đảng và bộ máy hệ thống chính trị phải đặc biệt chú trọng giáo dục
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Trong hệ thống trƣờng đào tạo cán bộ
của Đảng, Nhà nƣớc và các đoàn thể nhân dân nhất thiết phải có mơn học về đạo
đức cách mạng. Đồng thời, cần tăng cƣờng giáo dục cán bộ, đảng viên qua sinh
hoạt ở tổ chức đảng. Trong sinh hoạt chi bộ và cấp ủy khơng chỉ có phần đánh
giá cơng việc, mà cịn phải kiểm điểm, đánh giá về đạo đức cán bộ. "Các tổ chức
đảng phải thƣờng xuyên giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên, kể cả đảng viên


20
là cán bộ cao cấp". Nghị quyết Trung ƣơng sáu (lần 2) khóa VIII, nhấn mạnh:
Các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra cán bộ, đảng
viên về đạo đức, lối sống. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh việc tăng cƣờng công
tác giáo dục tƣ tƣởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa
cá nhân. Nghị quyết Đại hội X của Đảng cũng nêu rõ, cần làm tốt cơng tác giáo
dục chính trị, tƣ tƣởng, quản lý và giám sát đảng viên.
Thứ hai, tăng cƣờng vai trò, hiệu lực của kỷ luật Đảng và pháp luật của
Nhà nƣớc, tập trung chỉ đạo đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí có
hiệu quả. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là một vấn nạn gây nhức nhối trong
xã hội hiện nay. Những tệ nạn đó vừa vi phạm luật pháp của Nhà nƣớc, vừa là
những hành vi vô đạo đức. Nhà nƣớc đã từng ban hành pháp lệnh và phát triển
thành luật phòng ngừa và chống tham nhũng, lập ra các cơ quan chống tham
nhũng. Nghị quyết Trung ƣơng sáu (lần 2) khóa VIII xác định rõ: "Các cấp ủy
Đảng và ngƣời đứng đầu các cấp, các ngành từ trung ƣơng đến cơ sở phải chịu
trách nhiệm chống tham nhũng ở nơi mình phụ trách. Bộ Chính trị phân cơng
một số ủy viên Bộ Chính trị, các cấp ủy phân cơng ủy viên Ban Thƣờng vụ trực
tiếp chỉ đạo chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Khi xảy ra tham nhũng, lãng
phí và các hiện tƣợng tiêu cực ở địa phƣơng, ngành, cơ quan, đơn vị mình phụ
trách thì tùy theo mức độ và tính chất vi phạm của vụ việc mà xem xét hình thức
kỷ luật đối với cấp ủy và ngƣời đứng đầu về chế độ trách nhiệm". "Cấp ủy và ủy

ban kiểm tra các cấp cùng với các cơ quan thanh tra, điều tra, kiểm sát, tòa án
phải nắm chắc tình hình và khẩn trƣơng kiểm tra, kết luận, xử lý kịp thời đúng
pháp luật những đơn tố cáo về đạo đức, lối sống tiêu cực của cấp ủy viên và
ngƣời đứng đầu các cơ quan, trƣớc hết đối với Ủy viên Trung ƣơng, trƣởng ban,
bộ trƣởng, bí thƣ cấp ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ƣơng và cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị". Đó là những biện pháp
rất cần thiết và mạnh mẽ cần đƣợc thực hiện triệt để.


21
Thứ ba, cần tăng cƣờng tuyên truyền, học tập những tấm gƣơng về đạo
đức cách mạng, xây dựng, bồi đắp cái tốt, cái đúng trong hành vi đạo đức, biểu
dƣơng ngƣời tốt, việc tốt, lên án cái xấu, cái ác một cách cụ thể. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khơng chỉ nói nhiều về đạo đức của ngƣời cách mạng mà bản thân
cuộc đời và sự nghiệp của Ngƣời là tấm gƣơng đạo đức cách mạng trong sáng
và cao đẹp. Cần phải xây dựng kế hoạch tuyên truyền, học tập đạo đức Hồ Chí
Minh. Cần phải nhận thức rằng, đạo đức của Bác khơng phải là cái gì cao siêu,
xa vời, chỉ để chiêm ngƣỡng, ca ngợi, mà đạo đức đó rất thiết thực, cụ thể, mọi
ngƣời đều có thể học tập và làm theo. Nhiều tấm gƣơng trong sáng về đạo đức
cách mạng của các đồng chí lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng qua các thời kỳ cần
đƣợc tuyên truyền học tập. Tấm gƣơng Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc và
biết bao đồng chí khác là biểu hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng và đạo đức
cao đẹp không chỉ thế hệ trẻ mà mọi cán bộ, đảng viên cần phải đọc, suy ngẫm
và hành động cho xứng đáng. Trong cơng cuộc đổi mới cũng có rất nhiều cán
bộ, đảng viên tiêu biểu, nêu cao đạo đức, thật sự vì nƣớc, vì dân. Trong sinh
hoạt đảng, đồn thể, cơ quan, trƣờng học, đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội cần nêu
gƣơng và học tập những tấm gƣơng tiêu biểu đó. Cần có nhiều cuốn sách viết về
những "ngƣời tốt, việc tốt". Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cố Thủ tƣớng
Phạm Văn Đồng rất quan tâm đến sách "ngƣời tốt, việc tốt". Các phƣơng tiện
thông tin đại chúng cũng cần tăng cƣờng hơn chuyên mục về những tấm gƣơng

đạo đức cách mạng trong quá khứ và hiện tại. Phải tập trung động viên, cổ vũ
cái tốt, cái đúng, cái cao thƣợng để đẩy lùi cái xấu, cái sai, cái thấp hèn.
1.1.2 Giáo dục đạo đức cách mạng cho học viên sĩ quan kỹ thuật quân đội
nhân dân Việt Nam trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường
1.1.2.1 Khái niệm học viên sĩ quan
Học viên sĩ quan là một nhóm quân nhân bao gồm những thanh niên vừa rời
ghế nhà trƣờng phổ thông trung học và những quân nhân đang thực hiện nghĩa
vụ quân sự khắp mọi miền tổ quốc có tuổi đời từ 18 – 25 thi đậu vào các trƣờng


22
đào tạo sĩ quan của Bộ Quốc phòng đang học tập, tu dƣỡng, rèn luyện để trở
thành sĩ quan chỉ huy cấp phân đội.
1.1.2.2 Học viên sĩ quan Kỹ thuật Quân sự
Học viên sĩ quan kỹ thuật quân sự là một nhóm quân nhân bao gồm những
thanh niên vừa rời ghế nhà trƣờng phổ thông trung học và những quân nhân
đang thực hiện nghĩa vụ quân sự khắp mọi miền tổ quốc có tuổi đời từ 18 – 25
thi đậu vào trƣờng Học viện Kỹ thuật Quân sự và trƣờng Sĩ quan Kỹ thuật Quân
sự đang học tập, tu dƣỡng rèn luyện để sau khi tốt nghiệp trở thành sĩ quan chỉ
huy cấp phân đội về bảo đảm công tác Kỹ thuật cho Quân đội nhân dân Việt
Nam.
1.1.2.3. Kinh tế thị trường và đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đề ra đƣờng lối đổi mới toàn diện đất nƣớc,
đƣa ra những quan niệm mới về con đƣờng đi lên CNXH, về cơ cấu kinh tế, cơ chế
quản lý kinh tế; đồng thời thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá.
Đại hội đã chủ trƣơng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm giải
phóng sức sản xuất và chuyển sang thực hiện cơ chế kế hoạch hoá theo phƣơng
thức hoạch toán kinh doanh.
Đại hội VII năm 1991 tiếp tục làm rõ hơn về mục tiêu, con đƣờng đi lên

CNXH và lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng có sử dụng thuật ngữ “cơ chế
thị trƣờng”. Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã
khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hƣớng
XHCN, vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc” [3,
tr.9,10]. Đại hội VIII của Đảng năm 1996 tiếp tục khẳng định: “Sản xuất hàng
hố khơng đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân
loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi
CNXH đã đƣợc xây dựng”. Tiếp tục kế thừa và phát triển những quan điểm về
đổi mới, Đại hội IX của Đảng năm 2001 đã khẳng định: “Đảng và Nhà nƣớc ta


23
chủ trƣơng thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà
nƣớc, theo định hƣớng XHCN; đó chính là nền KTTT định hƣớng XHCN” [6,
tr. 86]. Trên cơ sở những quan điểm của Đại hội IX, Đại hội X của Đảng tiếp tục
khẳng định: “Để đi lên CNXH, chúng ta phải phát triển nền KTTT định hƣớng
XHCN” [7, tr. 69].
KTTT định hƣớng XHCN có những đặc trƣng cơ bản sau:
Thứ nhất, đó là nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở đa dạng hố
các hình thức sở hữu, với ba loại hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể và sở hữu tƣ nhân. Từ ba hình thức sở hữu cơ bản đó mà hình thành
nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sản xuất kinh doanh, trong đó kinh tế
nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nƣớc cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đại hội XI của
Đảng chỉ ra 4 thành phần kinh tế cơ bản là: “Kinh tế Nhà nƣớc, kinh tế tập thể,
kinh tế tƣ nhân (cá thể, tiểu chủ, tƣ bản tƣ nhân), kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc
ngồi” [8, tr. 83].
Thứ hai, KTTT xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong
đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Trong

mỗi chế độ xã hội bao giờ cũng có chế độ phân phối tƣơng ứng với nó. Nói cách
khác chế độ phân phối nhƣ thế nào là do quan hệ sản xuất thống trị - mà trƣớc
hết là quan hệ sở hữu về tƣ liệu sản xuất quyết định. Dƣới chế độ tƣ bản, việc
phân phối sẽ đƣợc thực hiện theo nguyên tắc giá trị, nghĩa là đối với ngƣời lao
động thì theo giá trị sức lao động, cịn nhà tƣ bản thì theo giá trị tƣ bản. Trong
nền KTTT định hƣớng XHCN, việc thực hiện phân phối theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, ngồi ra cịn có các hình thức phân phối khác nhƣ
theo tỷ lệ vốn, phúc lợi xã hội.
Thứ ba, đó là nền kinh tế mở hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Đây không
những là một đặc trƣng riêng của nền KTTT mà còn là đặc trƣng chung của các nền


24
kinh tế hiện nay. Trong xu thế chung của quá trình tồn cầu hố kinh tế, chỉ có mở cửa
kinh tế để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực mới khai thác có hiệu quả mọi
nguồn lực trong nƣớc và thu hút đƣợc vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm
quản lý kinh tế để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nƣớc theo định hƣớng XHCN.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là nền kinh
tế vừa vận hành theo những quy luật nội tại của kinh tế thị trƣờng, nhƣ quy luật
cung cầu, quy luật giá trị, quy luật giá cả…vừa có sự quản lý, điều tiết của Nhà
nƣớc XHCN thông qua hệ thống pháp luật, chính sách. Trong quản lý nền kinh
tế, trên cơ sở nhận thức và tuân thủ theo những quy luật chung của nền kinh tế
thị trƣờng, Nhà nƣớc có những định hƣớng phù hợp với những mục tiêu chính
trị, với đặc điểm bản sắc văn hố dân tộc, nhằm: “Thực hiện mục tiêu dân giàu,
nƣớc mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không
ngừng phát triển sức sản xuất nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xố đói
giảm nghèo, khuyến khích mọi ngƣời vƣơn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ
ngƣời khác thoát nghèo và từng bƣớc khá giả hơn” [11, tr.77].
Từ sự phân tích trên ta có thể quan niệm: KTTT định hướng xã hội chủ

nghĩa là phương thức phát triển sức sản xuất để đi lên chủ nghĩa xã hội. Một
kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế
thị trường, vừa dựa trên sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của
chủ nghĩa xã hội.
Nhƣ vậy, KTTT định hƣớng XHCN là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo
những quy luật của thị trƣờng, vừa có định hƣớng bởi các nguyên tắc của CNXH.
Đây là nền kinh tế luôn chịu sự tác động của các quy luật khách quan của KTTT nhƣ
quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và nhà nƣớc một mặt tạo điều
kiện cho các quy luật phát huy tác dụng, mặt khác bằng các biện pháp thích hợp để
hạn chế các mặt tiêu cực do cơ chế thị trƣờng sản sinh ra.


25
Tính định hƣớng XHCN của nền KTTT ln gắn liền với sự lãnh đạo của
Đảng, vai trò quản lý của Nhà nƣớc. Bằng các chiến lƣợc, quy hoạch, chính sách,
luật pháp và thực lực nền kinh tế, Nhà nƣớc XHCN có đầy đủ khả năng định hƣớng,
dẫn dắt, điều tiết và tạo mơi trƣờng thuận lợi để giải phóng sức sản xuất, bảo đảm
tăng trƣởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo tồn và phát triển các giá
trị văn hoá, lối sống XHCN.
Mặc dù đến nay, nền KTTT định hƣớng XHCN ở nƣớc ta vẫn cịn có nhiều yếu tố sơ
khai, tự phát, song chủ trƣơng phát triển KTTT định hƣớng XHCN là một chủ trƣơng
hồn tồn đúng đắn, sáng tạo, nó đánh dấu bƣớc phát triển mới về tƣ duy lý luận của
Đảng ta. Chủ trƣơng này không những nhận đƣợc sự đồng thuận, nhất trí cao trong
Đảng, trong xã hội mà cịn tạo ra động lực mạnh mẽ đa nền kinh tế đất nƣớc tăng trƣởng
liên tục với tốc độ cao, đƣa đất nƣớc ta thốt ra khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế
xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bƣớc đƣợc cải thiện, tình hình
chính trị - xã hội luôn ổn định, niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ XHCN
nghĩa vì thế mà ngày càng đƣợc củng cố và tăng cƣờng, vị thế của đất nƣớc ta trên
trƣờng quốc tế ngày càng đƣợc nâng cao. Điều đó đã có tác động tích cực đến q trình
phát triển đạo đức xã hội nói chung, ĐĐCM của học viên ĐTSQCH cấp phân đội ở

Trƣờng Sĩ quan kỹ thuật Quân sự nói riêng.
1.1.2.4 Ảnh hưởng của kinh tế thị trường đến giáo dục đạo đức cách
mạng đối với học viên sĩ quan chỉ huy cấp phân đội
Quá trình giáo dục ĐĐCM cho học viên là một quá trình chịu sự tác động
của hàng loạt các yếu tố nhƣ: sự chi phối của môi trƣờng kinh tế - xã hội; quá
trình kế thừa, phát triển truyền thống của dân tộc, của quân đội, của Tổng cục
Kỹ thuật và Trƣờng Sĩ quan kỹ thuật Quân sự; quá trình giáo dục của hệ thống
các tổ chức trong nhà trƣờng và quá trình tự giáo dục của học viên; phụ thuộc
vào mơi trƣờng văn hố, đạo đức và thực tiễn thực hiện mục tiêu yêu cầu giáo
dục đào tạo của học viện… Trong đó sự tác động của KTTT là nhân tố cơ bản
quan trọng và quyết định nhất.


×