Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Giái trị của tư tưởng giáo dục trong nho giáo và sự vận dựng tư tưởng đó vào nền giáo dục mới ở việt namm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.82 KB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

PHAN THỊ LIỄU

GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC
TRONG NHO GIÁO VÀ SỰ VẬN DỤNG
TƯ TƯỞNG ĐÓ VÀO NỀN GIÁO DỤC
MỚI Ở VIỆT NAM

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: CỬ NHÂN CHÍNH TRỊ - LUẬT

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GV. NGUYỄN TRUNG NGỌC

NGHỆ AN - 2012


LỜI CẢM ƠN!

Trong quá trình thực hiện khóa luận này, tôi đã nhận được sự quan tâm
giúp đỡ của hội đồng khoa học, các thầy cô giáo trong tổ bộ môn triết học
Mác - Lênin, sự động viên của gia đình bạn bè và những người thân; đặc biệt
là sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Nguyễn Trung Ngọc - người đã trực
tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận. Tất cả những tình cảm đó là nguồn
động lực tinh thần vô cùng to lớn giúp tôi vượt qua nhiều khó khăn để hoàn
thành công trình nghiên cứu nhỏ này. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc sự
giúp đỡ quý báu của thầy, cô và các bạn.
Trong một thời gian ngắn, do trình độ của bản thân còn hạn chế, chắc
chắn đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự góp ý chân


thành của thầy cô và các bạn. Kính chúc thầy cô và các bạn mạnh khỏe, hạnh
phúc và thành công trong cuộc sống !
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 05 năm 2012
Sinh viên
Phan Thị Liễu

1


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

CNH – HĐH
TCN

Công nghiệp hố - hiện đại hố
Trước cơng ngun

ĐH

Đại học



Cao đẳng

TCCN

Trung cấp chuyên nghiệp



MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu. ....................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu. .................................................................................. 4
6.Ý nghĩa của đề tài. .............................................................................................. 4
7. Kết cấu của đề tài.. ............................................................................................ 5
B.NỘI DUNG. ...................................................................................................... 6
CHƯƠNG I: GIÁ TRỊ PHỔ BIẾN CỦA TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC TRONG
NHO GIÁO .......................................................................................................... 6
1.1. Vài nét lý luận chung. ................................................................................................... 6
1.2.Quan điểm của Nho giáo về giáo dục. ............................................................ 9
1.3. Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo. ................ 16
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NHO GIÁO VỀ GIÁO DỤC ĐỐI
VỚI NỀN GIÁO DỤC MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .............................. 23
2.1. Thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay. .............................................. 23
2.1.1. Những thành tựu mà giáo dục Việt Nam đã đạt được. ............................. 23
2.1.2. Những hạn chế của Giáo dục - Đào tạo ở Việt Nam hiện nay. ................. 27
2.1.3. Thách thức đối với nền giáo dục đào tạo của nước ta hiện nay: ............... 30
2.2. Sự cần thiết khách quan của việc vận dụng tư tưởng giáo dục trong Nho
giáo vào nền giáo dục của Việt Nam. ................................................................. 32
2.3 .Vận dung tư tưởng giáo dục của Nho giáo trong việc phát triển nền giáo
dục Việt Nam....................................................................................................... 37
2.3.1. Vận dụng tư tưởng giáo dục của Nho Giáo về đối tượng giáo dục. ......... 37
2.3.2. Vận dụng tư tưởng giáo dục của Nho giáo về phương pháp giáo dục...... 37
2.4. Những giải pháp để phát triển nền giáo dục Việt Nam theo hướng hoàn
thiện trên cơ sở vận dụng những tư tưởng giáo dục của Nho Giáo. ................... 41

C. KẾT LUẬN. .................................................................................................. 45
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. ................................................... 47


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa đến nay, con người luôn là vấn đề cốt lõi, vấn đề thiết yếu của lịch
sử tư tưởng nói chung và của triết học nói riêng. Việc nghiên cứu tư tưởng về
con người và giáo dục con người trong lịch sử để tìm ra những hạn chế và giá trị
tích cực, từ đó góp phần vào việc xây dựng con người hiện tại và tương lai là
một vấn đề luôn được quan tâm.
Ngày nay trong xu thế toàn cầu hoá với sự cạnh tranh gay gắt, hàm lượng
"chất xám" giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển về mọi mặt thì phải
quan tâm đến giáo dục, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi cả thế giới đang
chuyển sang nền kinh tế tri thức, thì vấn đề giáo dục đào tạo con người càng trở
nên quan trọng. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta, Đảng ta xác định con người
là một nhân tố quyết định hàng đầu tới sự phát triển của đất nước. Con người
mới mà hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang quyết tâm xây dựng - con người
phát triển toàn diện về mọi mặt: thể chất, trí tuệ, đạo đức - đang là vấn đề được
quan tâm nhiều nhất. Nhà nước và nhân dân ta đã tập trung toàn bộ lực lượng xã
hội tham gia vào nhiệm vụ xây dựng con người mới, trong đó có việc tiếp thu
các giá trị truyền thống tốt đẹp và tinh hoa văn hoá nhân loại. Một trong những
tư tưởng quý báu trong kho tàng văn hoá nhân loại, thấm đẫm tư tưởng phương
Đông, có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành con người Việt Nam thời
phong kiến chính là tư tưởng giáo dục của Nho giáo. Để hình thành nên một
chương trình giáo dục hoàn hảo, để đào tạo con người có ích cho xã hội chúng ta
cần tham khảo nhiều tư tưởng giáo dục khác nhau từ nhiều thời kỳ để đúc kết
nên tư tưởng giáo dục hoàn thiện nhất. Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã
hội luôn lấy đức làm trọng, là công cụ quản lý xã hội của giai cấp thống trị ở
Trung Quốc. Với rất nhiều giáo lý phù hợp với xã hội Việt Nam, Nho giáo từng

bước được giai cấp thống trị ở Việt Nam tiếp nhận và đề cao, đặc biệt trong
quản lý đất nước, đào tạo con người. Giáo dục đào tạo ở nước ta trong mấy thập
kỷ qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Những năm gần đây khi nước
1


ta phát triển nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá thì
những xung lực mới cho sự phát triển đất nước cũng được tạo ra trong đó có vấn
đề giáo dục. Bên cạnh những thuận lợi trên đường phát triển cũng xuất hiện
không ít hiện tượng suy thoái, xuống cấp trong giáo dục khiến xã hội nổi lên
nhiều bức xúc, trăn trở. Nguy cơ tha hóa về đạo đức truyền thống của dân tộc
không phải đã hoàn toàn được ngăn chặn.
Trước tình hình trên, việc nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Nho giáo là
rất cần thiết. Bởi vì nhiều tư tưởng của Nho giáo vẫn còn có giá trị cho đến tận
ngày nay. Những giá trị đó rất cần được phát hiện và nhân lên trên cơ sở của
"cái hạt nhân hợp lý" và cải tạo lại cho phù hợp với con người hiện đại, góp
phần vào sự nghiệp “trồng người”, để “sánh vai với các cường quốc năm châu”
như nguyện vọng của Bác Hồ và của Đảng ta.
Việc nghiên cứu đề tài này giúp chúng ta phát hiện những yếu tố tích cực
trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo đối với sự nghiệp giáo dục ở nước ta hiện
nay có một ý nghĩa quan trọng và cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu.
Liên quan đến đề tài này đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều cuốn
sách nổi tiếng được biết đến như: “Tư tưởng nhân bản của Nho Giáo Tiên Tần”
của Tào Thượng Bân, “ Chủ nghĩa Tư bản và Nho giáo” của học giả nổi tiếng
người Nhật Michio Morishima, Di Ngư Thuần với bài viết “Ảnh hưởng của Nho
giáo đối với văn hóa truyền thống của Hàn Quốc” trong cuốn “ Nho học quốc tế
thảo luận luận văn tập 1889”.
Ở Việt Nam, Nho giáo được giới học thuật quan tâm nghiên cứu ở nhiều
góc độ và khía cạnh khác nhau. Vì vậy có rất nhiều công trình viết về vấn đề

này. Sào nam Phan Bội Châu với cuốn sách nổi tiếng “ Khổng học đăng”, cuốn
“Nho giáo” của Trần Trọng Kim, “Khổng Tử và Luận ngữ” của Nguyễn Hiến
Lê, “Nho giáo và phát triển ở Việt Nam” của giáo sư Vũ Khiêu; “Bàn về của
Nho giáo” của Giáo sư Đặng Đức Siêu; “Quan điểm giáo dục của Khổng Tử và
ý nghĩa của nó với giáo dục thế hệ trẻ ở Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” của
2


Ths Nguyễn Trường Sơn - Giảng viên khoa Giáo dục Chính trị - trường Đại học
Vinh; “Tìm hiểu đối tượng giáo dục của Khổng Tử” của Th.s Nguyễn Trường
Sơn - Giảng viên khoa Giáo dục Chính trị - trường Đại học Vinh đăng trên tạp
chí giáo dục số 88/2004; “Quan niệm Nho giáo về con người và đào tạo con
người” Luận văn tốt nghiệp 2003 của Nguyễn Thị Hải Yến, sinh viên Đại học
Vinh; “Tìm hiểu phạm trù lễ” trong Luận Ngữ của Khổng Tử và ý nghĩa của nó
trong giáo dục đạo đức học sinh ngày nay” đề tài đề tài của Nguyễn Thị Kiều
Miên (2002) sinh viên Đại học Vinh...
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của đề tài là làm rõ những nội dung cơ bản về tư tưởng giáo dục
của Nho giáo với đại diện sáng lập là Khổng Tử. Thấy được những ảnh hưởng
tích cực của tư tưởng giáo dục Nho Giáo trong sự nghiệp giáo dục con người ở
Việt Nam hiện nay. Đồng thời thấy được sự vận dụng sáng tạo những mặt tích
cực của tư tưởng đó và tìm ra những nội dung, phương pháp mới của Đảng và
nhà nước ta đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo con người mới hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài làm sáng tỏ nội dung cơ bản trong tư tưởng
giáo dục của Nho giáo, sự vận dụng tư tưởng giáo dục trong Nho giáo của Đảng ta.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan điểm về giáo dục của Nho giáo và

sự vận dụng tư tưởng giáo dục của Nho giáo đối với nền giáo dục Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu.
Quan điểm tư tưởng giáo dục của Nho giáo được xem xét và tiếp cận dưới
nhiều góc độ, bình diện khác nhau như giáo dục đạo đức... nhưng trong giới hạn
của đề tài, chúng tôi chỉ khai thác tư tưởng giáo dục của Nho giáo về bình diện
giáo dục đào tạo và sự vận dụng tư tưởng đó đối với nền giáo dục mới ở nước ta
hiện nay.
3


5. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu các tác phẩm "Nho giáo” ; “Bàn
về Nho giáo”.. và những công trình khoa học, bài báo cáo liên quan đến đề tài.
Để làm rõ nội dung, mục đích của đề tài chúng tôi đã sử dụng tổng hợp nhiều
phương pháp.
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Thông qua quá trình phân tích các tài
liệu liên quan đến đề tài tiến hành tổng hợp những vấn đề cơ bản, những nội
dung chính, cốt lõi làm rõ giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng giáo dục của
Nho giáo trong sự vận dụng ở nước ta hiện nay.
Phương pháp lịch sử và lô gic: Nội dung của tư tưởng giáo dục của Nho giáo
có phạm vi rộng lớn từ quá khứ, hiện tại đến tương lai. Vì vậy, đòi hỏi quá trình
nghiên cứu chúng tôi phải sử dụng phương pháp lịch sử về thời gian, quá trình
hình thành, phát triển. Như vậy, không có nghĩa là tìm hiểu cách tràn lan, vô
mục đích. Đế liên kết các sự kiện cũng như nội dung đề tài chúng tôi đã sử dung
phương pháp lô gic.
Phương pháp đọc và nghiên cứu văn bản, tài liệu.
Đây là phương pháp quan trọng và chúng tôi sử dụng nhiều. Trong quá
trình thực hiện đề tài chúng tôi tiến hành đọc những văn bản và tài liệu liên
quan.Tổng hợp những nội dung để tập trung cho việc nghiên cứu đề tài.
Tuy nhiên phương pháp sử dụng trong đề tài không phải tách biệt nhau

mà giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau.
6.Ý nghĩa của đề tài.
Đề tài chỉ ra được sự vận dụng sáng tạo tư tưởng giáo dục của Nho giáo đối
với nền giáo dục mới ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó đề ra
giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế tiêu cực, từ đó xây dụng
nền giáo dục nước ta theo hướng hoàn thiện dần, biết gắn những giá trị có tính
phổ biến toàn nhân loại với hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam.

4


7. Kết cấu của đề tài..
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung chính
của đề tài gồm hai chương với kết cấu cụ thể:
Chương I: Giá trị phổ biến của tư tưởng giáo dục trong Nho giáo.
Chương II: Vận dụng tư tưởng Nho giáo về giáo dục đối với nền giáo dục
mới ở Việt Nam hiện nay.

5


B.NỘI DUNG.
CHƯƠNG I
GIÁ TRỊ PHỔ BIẾN CỦA TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC TRONG NHO GIÁO

1.1. Vài nét lý luận chung.
Khái niệm “Giáo dục” trong tiếng anh là “ Education” vốn có tiếng gốc từ
chữ Latinh “ Educare” có nghĩa là làm bộc lộ ra. Có thể hiểu “ Giáo dục” là quá
trình, cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của con người được giáo
dục.

Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi
hoặc biến đổi nhận thức, năng lực tình cảm, thái độ của người dạy và người học
theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng
những động tác có ý thức từ bên ngoài góp phần đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát
triển của con người trong xã hội.
Giáo dục bao gồm việc dạy và học, đôi khi nó cũng mang ý nghĩa như quá
trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn, truyền thụ
sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn hóa từ thế
hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và nhận ra khả
năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người.
Nó ứng dụng phương pháp giáo dục một phương pháp nghiên cứu mối quan hệ
giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần và làm chủ được các
mặt như: ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, cách ứng xử trong xã hội.
Để tồn tại và phát triển loài người không ngừng tác động vào thế giới
khách quan, nhận thức thế giới khách quan để tích lũy vốn kinh nghiệm - đó là
hoạt động nhận thức. Xã hội tồn tại và phát triển phải có sự truyền giao kinh
nghiệm từ thế hệ trước để lại cho thế hệ sau - đó là hiện tượng giáo dục.
Giáo dục là quá trình truyền lại kinh nghiệm từ thế hệ trước để lại cho thế
hệ sau lĩnh hội những kinh nghiệm để tham gia vào cuộc sống lao động và các
6


hoạt động xã hội loài người. Tuy nhiên thế hệ sau không phải chỉ lĩnh hội những
kinh nghiệm để tham gia vào cuộc sống lao động và các hoạt động xã hội nhằm
duy trì và phát triển xã hội loài người - đó là quy luật của sự tiến bộ - là hiện
tượng đặc trưng của xã hội loài người.
Cũng có thể nhìn từ một góc độ khác về giáo dục: Chữ “Giáo” có nghĩa là
chỉ bày, nâng đỡ. Chữ “ Dục" nghĩa là mong muốn trưởng thành. Hai chữ này
ghép chung lại có nghĩa là chỉ một người thầy làm nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ bày
cho đoàn hậu học trong ý nghĩa là mong muốn thế hệ sau kế thừa nối tiếp con

đường của người xưa đã đi trên nhiều phương diện khác nhau trong phương
cách sống ở cuộc đời.
Mỗi quan điểm có một cách tiếp cận về “Giáo dục” khác nhau nhưng tựu
chung ở những điểm:
Nghĩa rộng: Giáo dục là sự ảnh hưởng tác động của những điều kiện khách
quan và của cả nhân tố chủ quan nhằm hình thành những phẩm chất, kỹ năng
nhất định của đối tượng giáo dục.
Nghĩa hẹp: Giáo dục là quá trình tác động định hướng của nhân tố chủ quan
lên khách thể giáo dục, nhằm truyền bá những kinh nghiệm đấu tranh và sản
xuất.
Tóm lại, xét về bản chất có thể nói “Giáo dục” là quá trình được tổ chúc có
ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi và biến đổi nhận thức, năng lực tình cảm,
thái độ của cả người dạy và người học theo hướng tích cực. Nghĩa là hoàn thiện
nhân cách cả thầy và trò bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, đáp ứng
các yêu cầu tồn tại và phát triển trong xã hội.
Theo Hán tự chữ Nho gồm từ Nhân (người) đứng cận chữ Nhu ( cần, đợi,
chờ). Nhà nho là người đọc sách thánh hiền; được thiên hạ trọng dụng để dạy
bảo người đời ăn ở cho phù hợp với luân thường đạo lý.

7


Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử (559-479 TCN) tên là Khâu, Tự là
Trọng Ni, người nước Lỗ. Khổng Tử đã hệ thống hóa những tri thức cũng như
tư tưởng trước đây thành học thuyết gọi là Nho học hay Nho giáo.
Nho giáo là một trong những dòng tư tưởng lớn (cửu lưu) của Trung Hoa
cổ đại, hơn nữa là một trong những học thuyết tư tưởng lớn nhất thời cổ đại
Trung Hoa. Những tư tưởng về đạo đức, chính trị, giáo dục...của ông được khảo
sát qua các bộ sách “ luận ngữ” ngoài ra bổ cứu thêm trong “ngũ kinh”: thi- thưlễ- dịch và xuân thu. Chính học giả William James Durant trong cuốn “The stay
of civisation” đã nhận xét: “Càng hiểu biết về Nho giáo và người sáng lập ra

Nho giáo là Khổng Tử chúng ta càng ngạc nhiên khi thấy những lời giáo huấn
của ông rất ít bị lỗi thời trước những tiến bộ như vũ bão của khoa học và những
biến đổi của thời thế". Do vậy mà cho đến nay nhiều tư tưởng quan niệm về xã
hội con người, đạo đức, giáo dục ..vẫn còn giá trị và mang tính thời sự. Việc
nghiên cứu và trao đổi những ảnh hưởng của học thuyết này trong xã hội ta hiện
nay là việc làm cần thiết, hữu ích.
Tư tưởng giáo dục trong Nho giáo: Là một đóng góp lớn của Khổng Tử và
các nhà kinh điển của đạo nho - là hệ thống các quan điểm, quan niệm của Nho
giáo về nội dung, phương pháp, đối tượng giáo dục. Đó là hệ tư tưởng của gia
cấp thống trị ở Trung Hoa thời cổ đại.
Tiếp thu một học thuyết bên ngoài để làm lý luận hướng dẫn tư duy và
hướng dẫn hành động cho dân tộc mình là một chân lý phổ biến, là một sự thực
khách quan của các thời đại của các dân tộc. Thực tế này có căn cứ vững chắc
trong sự phát triển. Đó là sự phát triển không đồng đều của các dân tộc qua
không gian và thời gian. Ở cùng một thời đại ta thường thấy ở một vùng này có
một dân tộc hoặc một vài dân tộc khác cao hơn, nhanh hơn, mạnh hơn các dân
tộc khác ở xung quanh. Các dân tộc ở bất cứ đâu, thời đại nào muốn nâng cao
mức sống của mình không thể không tiếp thu những tinh hoa của dân tộc khác.
Do đó mà việc tiếp thu tư tưởng Nho giáo là điều hợp lý. Nho giáo là tư tưởng
triết lý, luân lý đạo đức vốn đã có cơ sở ở Trung Quốc từ thời Tây Chu, đến cuối
8


thời Xuân Thu thế kỷ VI - V TCN thì được Khổng Tử và môn đệ của ông thống
nhất và tập hợp lại trong hai bộ sách kinh điển là Ngũ Kinh và Tứ Thư. Đến thời
Hán Vũ Đế đã cho độc tôn Nho Giáo. Từ đó Nho giáo đã trở thành ý thức hệ
chính thống chi phối văn hóa Trung Quốc và làm nền tảng cho việc xây dụng và
bảo vệ chế độ phong kiến Trung Quốc suốt 2000 năm lịch sử. Cũng kể từ đó với
chính sách bành trướng của các triều đại phong kiến phương bắc ảnh hưởng của
Nho giáo lan tràn ra các nước khác trong đó có Việt Nam. Nho giáo du nhập vào

nước ta từ thời bắc thuộc gắn liền với sự xâm lược của phong kiến phương bắc.
Hẳn từ thời Tây hán Nho giáo đã du nhập vào nước ta, nhưng đến thời Đông hán
về sau mới có tài liệu lịch sử cụ thể nói về vấn đề này. Đến những năm đầu công
nguyên, hai thái thú là Tích Quang và Nhâm Diên đã “dựng nhà học" dẫn dắt
bằng lễ nghĩa (theo sách Đại việt sử ký toàn thư ; tập1 trang 157) ở Giao Chỉ và
Cửu Chân. Vào thời kỳ cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III, thái thú Sỹ Nhiếp đã cho
dựng trường Nho học mở tại thành Luy Lâu đồng thời ông đã tạo điều kiện
thuận lợi cho Nho giáo phát triển. Các nhà Nho sau này đã tôn Sỹ Nhiếp là Nam
giao học tổ (vị tổ việc học ở cõi nam). Khi Nho Giáo vào nước ta đầu tiên là
Hán Nho và chủ yếu là thông qua quan lại và nho sỹ Trung Quốc. Như vậy, dưới
góc nhìn của văn hóa sự du nhập truyền bá Nho Giáo vào Việt Nam là một hiện
tượng tự nhiên.
1.2.Quan điểm của Nho giáo về giáo dục.
Trong xã hội Trung Hoa cổ Đại Nho giáo đã chủ trương thành lập các
trường học hướng mọi người tới con đường học hành để mở mang dân trí, rèn
luyện đạo đức con người, cải tạo nhân tính. Chính tư tưởng về giáo dục, về thái
độ và phương pháp học tập của Khổng Tử bộ phận giàu sức sống nhất trong tư
tưởng Nho giáo. Theo Khổng Tử giáo dục là cải tạo nhân tính. Muốn nhân loại
trở về tính gần nhau, tức là ở chỗ “thiện bản nhiên" thì phải để công vào giáo
dục vì giáo dục có thể hóa ác thành thiện, “tu sửa đạo làm người" làm sáng tỏ
đức sống là mục đích tối cao của giáo dục trong việc cải tạo nhân tính. Nho giáo
coi giáo dục không chỉ mở mang nhân tính tri thức, giải thích vũ trụ mà chú
trọng tới việc hình thành nhân cách con người, lấy giáo dục để mở mang trí,
9


nhân, dũng, cốt dạy con người ta thành con người đạo lý. Với Đạo Khổng giáo
dục học là để ứng dụng cho có ích với đời, với xã hội chứ không phải là để làm
quan bổng lộc, học để hoàn thiện nhân cách, học để hoàn thiện đạo lý! Và phải
học một cách đúng lịch trình đúng với điều kiện tâm sinh lý, coi trọng mối quan

hệ giữa các khâu của giáo dục: học gắn liền với tư, với tập, với hành. Nho giáo
coi trọng giáo dục cho dân đạo lý làm người với tư tưởng “trăm năm trồng
người" nhằm đào tạo lớp người lấy đức trị là chính. Đại diện nho giáo là Khổng
Tử trong việc dạy học trò ông trả lời sâu hay nông, cao hay thấp tùy theo khả
năng của người hỏi. Khổng Tử nói “Tiên học lễ hậu học văn” vì học phải đi đôi
với hành. Trong giáo dục Nho giáo coi trọng sự nêu gương của các tầng lớp vua
quan và mở trường học cho dân “ hữu giáo vô đạo” dạy cho mọi người không
phân biệt đẳng cấp là tư tưởng tiến bộ của Nho giáo và chính Khổng Tử đã thực
hiện tư tưởng tiến bộ này. Nho giáo nhấn mạnh việc học kiến thức, cho rằng con
người ai cũng qua học tập mà trở thành người và “ yêu kiến thức là một cách để
có được sự khôn ngoan” ( luận ngữ,trang 440). Học tập là hậu thiên, là tiền đề
quan trọng của việc giáo dục bởi vì suy cho cùng đạo đức tri thức là do giáo dục
mà có, muốn trở thành người có ích thì phải học. Khi có người cầu học hi vọng
bổng lộc Nho giáo đưa ra “ Đa văn khuyết nghi, thận ngôn kỳ dư, tắc quả vưu.
Đa kiến khuyết đãi, thận hành kỳ dư, tắc quả hối. Ngôn quả vưu, hành quả hối,
lộc tại kỳ trung hỹ” (nghe nhiều có điều còn ngờ thì để khuyết đừng nói, cẩn
thận trong lời nói thì ít lỗi, thấy nhiều kinh nghiệm, có điều gì khuyết đãi thì bỏ
đấy không làm, cẩn thận mà làm những điều không nguy hại thì chắc ít phải ăn
năn. Nói ít lỗi, làm ít ăn năn, lộc ở tại bên trong vậy ( Vi chính- Luận Ngữ)).
Học phải có mục đích ích dụng nên Nho giáo đã dạy rằng: “Tụng thi tam bách,
thụ chi dĩ chính bất đạt, sứ ư tứ phương, bất năng chuyên đối, tuy đa diệc hề dĩ
vi” ( Đọc ba trăm bài Kinh trao cho chính quyền mà không đạt được, sai đi ra
ngoài bốn phương mà không biết đối phó được, thế thì học nhiều để làm gì?( Tử
lộ, Luận ngữ). Trong quan điểm giáo dục của Nho Giáo, “hữu giáo vô loài" (bất
cứ ai, không phân biệt giàu nghèo sang hèn đều có thể dạy) vẫn còn có giá trị
trường tồn đến mai sau.
10


Nho giáo với hệ thống phương pháp giáo dục phong phú và có ý nghĩa về

lâu dài, đặc biệt là ảnh hưởng đến nền giáo dục nước ta. Đặc biệt là những
phương pháp đặc trưng:
Thứ nhất, Học đi đôi với hành: Là một tư tưởng quý báu của học thuyết
Khổng Tử. Nho giáo quan niệm: “Học nhi thời tập chí”. Học lý thuyết mà luôn
luôn thực nghiệm, tập lại như chim non tập bay. Hình ảnh chim non tập bay gợi
lên nơi ta sự đòi hỏi của những nỗ lực và cố gắng bền bỉ. Chính trong những lần
tập bay đó, tuy có gặp phải những đau khổ, cánh chim non mới trở nên cứng
cáp, chim biết mình sẽ bay như thế nào trong từng hoàn cảnh. Vì chủ trương lý
thuyết phải luôn song song với thực hành, cho nên Nho giáo phản đối những
người chỉ nói suông hoặc học suông: “Nói nhiều mà làm ít, quân tử lấy làm hở
thẹn”. Ngược lại, nho giáo đề cao và khún khích mọi người: “Nghe nhiều,
thấy nhiều, để nghi nhớ và lựa chọn những điều hay mà học theo, nhờ vậy mới
trở nên bậc trí giả” hay “Tiên hành kỳ ngôn, nhi hậu tòng chi: làm trước nói rồi
sau đó cứ theo đó dạy”
Học là để tìm những điều hay, điều tốt và đem ra thực hành chớ không phải
chỉ học “thơn thớt” bề ngoài: “Đạo chính đồ thuyết, đức chi khi giã" (nghe ngoài
đường, nói ngoài đường là bỏ được cái đức vậy). Như vậy, việc học đòi hỏi phải
có suy tư, đào sâu kiến thức và thực hành những gì mình đã thu thập, và khi thực
hành cũng chính là lúc ta sẽ có được nhiều kinh nghiệm hữu ích trong nghệ thuật
“xử kỉ tiếp vật”.
Học đi đôi với hành, lời nói kết hợp với việc làm, là thực hành điều đã học
và đem tri thức của mình vận dụng vào trong cuộc sống. Khổng Tử nói: Người
quân tử trước học văn chương (như Kinh Thi, Kinh Thư) đang mở rộng tri thức
của mình, kế đó người nương theo lễ giáo mà kiếm giữ lấy nết mình, nhờ vậy
mà khỏi trái đạo lý. (Quân tử bác học ư văn, ước chi di lễ, diệc khả phất bạn kỹ
phù).
Ông còn cho rằng: “Tri chi giả bất như hiếu chi giả hiếu chi giả bất như lạc
chi giả” (Biết đạo lý không bằng thích nó, thích nó không bằng vui làm theo nó
11



học coi nó là một thú vui) (Luận ngữ - Ung dã, trang18). Bởi lẽ học mà không
hành thì khó nhớ. Chính Lão Tử cũng nói: Những gì ta nghe, ta sẽ quên; những
gì ta thấy tận mắt, ta có thể nhớ phần nào; chính những gì ta làm ta sẽ nhớ đời.
Trong “Kinh thư”: “Biết” không phải là khó, "Làm” mới khó. Châu Hy
cũng dạy như thế: Học rộng điều gì, không bằng biết phần cốt yếu của điều ấy,
biết phần cốt yếu điều ấy, không bằng thực hành điều ấy. Chúng ta đều biết có
học mới biết. Chúng ta cũng thường nghĩ rằng đã biết được thì làm được. Nhưng
trên thực tế, từ học đến biết và từ biết đến làm không phải chỉ là đơn giản, gọn
gàng, dứt khoát. Người thầy đầu tiên của đạo Nho, đức Phu tử của bảy mươi hai
hiền triết và hàng nghìn đệ tử trưởng thành rất coi trọng luyện tập và rất hứng
với luyện tập. Và Phu tử tỏ ra rất mong muốn rằng các đệ tử của mình học đến
đâu thì thực hành, luyện tập đến đấy ngay, học điều gì thì thực hành điều ấy
ngay. Những vị hiền triết học với Phu tử ghi chép lời thầy và sắp xếp các câu lại
thành cuốn “Luận ngữ” gồm 20 thiên đã tỏ ra thấm nhuần tư tưởng của thầy khi
mở đầu cuốn sách hết sức quan trọng đối với Nho giáo ấy bằng câu “Học nhi
thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (Học mà tập cho kịp thời, đúng lúc, chẳng phải là
thích thú ư) (Luận ngữ - Học nhi, tập1). Phan Bội Châu trong cuốn “Khổng học
đăng” đã giải thích ý này: Học cho hiểu biết mà được đem điều hiểu biết ấy ra
thể hiện kịp thời và đúng lúc trong cuộc thì thật là khoan khoái hứng thú.
Nói học để hiểu biết, không phải coi hiểu biết là mục đích cuối cùng. Có
hiểu biết mới làm được. Học để hiểu biết lấy mục đích cuối cùng mà nói cũng
tức là học để hành. Thực hành giúp cho thể nghiệm hiểu biết về điều đã học, do
đó mà nối liền học với tri, cũng mở đầu sự ứng dụng những hiểu biết được vào
hành động do đó mà nối liền tri thức và hành cũng tức là nối liền học với hành.
Nho giáo còn cho rằng “Đức chi bất tu, học chi bất giản, văn nghĩa bất
năng tỷ, bất thiện bất năng cải thi ngô ưu dã” (Đạo đức không sửa tiến, học vấn
chẳng giảng tập, nghe được điều nghĩa mà không làm theo, có lỗi mà không sửa
đổi, đó là những mối lo của ta)(Luận ngữ - Thuật nhi,trang347)


12


Vấn đề học và hành theo đúng quan điểm của Nho giáo là học và hành gắn
bó chặt chẽ với nhau, mở đầu và hoàn chỉnh cho nhau, đi đôi và phát triển củng
cố cho nhau. Khổng Tử đã phân xã hội thành mấy hạng người khác nhau, có
hạng sinh ra mà biết, có hạng học mà biết, có hạng khó khăn khốn khổ mà biết.
Khi nói đến hành cũng phân ra mấy hạng người khác nhau, có hạng cứ tự nhiên
yên nhiên mà hành, có hạng hiểu lợi ích mà hành, có hạng do gắng gượng mà
hành. Dù mức độ cố gắng là khác nhau, song đến khi đạt kết quả, cụ thể là đã
biết được rồi và thành công rồi thì đều như nhau, đều là một.
Cha ông chúng ta cũng từng nhấn mạnh rằng “Văn ôn võ luyện”, “Suy
nghĩ tức hành động”. Học mà vận dụng được điều gì (kể cả nội dung hay
phương pháp) vào công việc hàng ngày của mình thì mới thấy việc học là bổ ích,
đó mới là mục đích của sự học. Rõ ràng “học” mà không hành thì coi như không
học, sự học như vậy cũng giống như “nước đổ đầu vịt”, học xong rồi lại quên
ngay tức khắc. Cha ông ta cũng đã từng quan niệm “Trăm hay không bằng tay
quen”, người lao động xã hội xưa đã từng quan niệm rằng lý thuyết hay không
bằng thực hành giỏi. Điều đó cho thấy người xưa đề cao vai trò của thực hành.
Trong khi đó những kẻ học thức chỉ biết chữ thánh hiền, theo lối học từ chương
sáo mòn cũ kỹ thì thật vô nghĩa.
Học trước hết là việc tiếp thu tri thức đã được tích lũy trong sách vở, là
nắm vững cơ sở lý luận được đúc kết trong các bộ môn khoa học, đồng thời tiếp
thu những kinh nghiệm của thế hệ trước. Học là trau dồi kiến thức, mở mang trí
tuệ, từng bước cập nhật sự hiểu biết của mình, không để thụt lùi, lạc hậu. Học là
tìm hiểu, khám phá những tri thức của loài người nhằm chinh phục thiên nhiên,
chinh phục vũ trụ. Học thuộc khía cạnh của lý thuyết, lý luận. Còn hành nghĩa là
làm, là thực hành, là ứng dụng kiến thức lý thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho
nên học và hành có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, học và hành là hai mặt một
quá trình thống nhất, chúng không thể tách rời mà luôn gắn chặt với nhau.

Chúng ta cũng cần hiểu thêm rằng “hành” vừa là mục đích, vừa là phương pháp
học, một khi đã nắm vững kiến thức, đã tiếp thu lý thuyết mà ta không vận dụng
được vào thực tiễn, thì học chẳng để làm gì cả: “Học mà không hành thì vô ích”.
13


Học mà không hành được là do học không thấu đáo hoặc thiếu môi trường hoạt
động. Ngược lại hành mà không có lý luận chỉ đạo, lý thuyết soi sáng và kinh
nghiệm đã đúc kết dẫn dắt thì việc ứng dụng vào thực tiễn sẽ lúng túng, gặp khó
khăn, trở ngại, thậm chí có khi sai lầm, mù quãng.
Thứ hai, Ôn cũ biết mới: Hạng trung dân là những người có tri thức thủ
đắc, nghĩa là phải học thì mới biết. Vì thế muốn ghi nhớ thì chẳng có cách nào
khác là họ phải lặp đi lặp lại. Vả lại chủ trương của Nho giáo là đem Kinh Thi,
những “lời vàng ngọc” của các bậc hiền nhân từ xưa truyền lại, cho nên người
học phải theo con đường “luận cổ suy kim”. Khởng Tử nói: “Ơn cớ nhi tri ân,
khả dĩ vi sư hi” (Ôn lại những điều cũ mà biết được điều mới như vậy mới có
thể làm thầy được) (Luận ngữ - Vi chính, trang 284). Đây không phải là sự bảo
thủ hay hoài cổ. Bởi tư tưởng của Khổng Tử cũng như tư tưởng của Nho Giáo khởi thủy hoàn toàn xa lạ với sự bảo thủ hay sùng cở mù quáng. “Ơn cớ nhi tri
tân” ở đây là việc sử dụng quá khứ như là một vốn giúp cho người học khám
phá ra hiện tại và nhờ đó mà xây dựng tương lai.
Tâm lý học đã chứng minh vai trò của tri thức cũ trong việc tiếp thu tri
thức mới: “Cái mới” phải được móc với “cái cũ” thông qua cơ chế liên tưởng.
Nhờ đó người học hiểu được sâu hơn. Trong thực tế học sinh nào có vớn tri thức
cũ phong phú thì học sinh ấy sẽ tiếp thu tri thức mới dễ dàng hơn, nhanh chóng
hơn. Cônxtantin Đmitrêvic Usinxky(1824 – 1870), nhà giáo dục học vĩ đại
người Nga khi nói về tính tích cực và tính tự giác, tự lập Usinxky muốn nói đến
giáo dục cho cá nhân biết định hướng trong môi trường xung quanh, biết hành
động trong đó một cách sáng tạo, biết tự mình nâng cao nền học vấn và sự phát
triển của bản thân.
Đây là cách các triết gia Nho giáo thường dạy học trò, học phải ôn luyện cũ

để biết mới; “Người nào ôn lại những việc đã trải qua trong quá khứ từ đó mà
biết thêm những điều mới, người trong quá khứ ấy có thể làm thầy thiên hạ đó”
(Luận ngữ - chương Vi chính). Để làm được, vận dụng được những kiến thức đã

14


học vào cuộc sống thì phải ôn kỹ và nhớ được những gì mình đã được biết, được
giáo dục từ hôm qua.
Muốn đạt được những điều đó, người học không được tự mãn, tự phụ và có
thái độ che dấu sự ngu dốt của mình: “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri
giã" (việc gì mình biết, nhận là biết, việc gì mình chẳng biết, nhận là chẳng biết.
Như thế mới là biết thật).
Hơn nữa, Nho giáo coi trọng thực hiện chân lý hơn là quan niệm chân lý.
Bởi vì, chân lý quan niệm là một chân lý bất động, đã hoàn thành. Trái lại, chân
lý thực hiện là chân lý hiện sinh sống động, đi sát và hoà nhập từng hoàn cảnh
cụ thể.
Thứ ba, Tiên học lễ hậu học văn: Lễ là cách cư xử, giao tiếp có văn hoá
giữa người với người theo chuẩn mực đạo đức được xã hội quy định. Hiểu rộng
hơn đó là đạo đức nói chung. Còn “Văn” là chữ. Hiểu rộng ra là kiến thức của
con người được tích luỹ qua bao thế hệ. “Tiên” và “Hậu” ở đây hiểu là một cách
tương đối. Không nên cho rằng người xưa chỉ chú trọng đến “lễ” mà quên “văn”
đều quan trọng như nhau, đặt đồng hàng.
Thứ tư, Đối thoại gơi mở: Phương pháp này nhằm phát huy tính năng đợng
chủ quan và tính năng động sáng tạo của người. Người thầy chỉ đóng vai trò “hộ
sinh” để giúp học trò tự “sản ý”. Học thuyết Nho giáo chỉ rõ: “Kẻ nào không
biết tức vì không hiểu được tức thì ta không chỉ bảo cho mà biết được. Kẻ nào
chẳng hậm hực vì không tỏ được ý kiến của mình thì ta chẳng khai phá cho mà
nói ra được. Ta vén cho một góc mà không tự suy nghĩ tìm ra ba góc kia, thì ta
không dạy cho nữa” (Luận ngữ - Dương hoá XVII,2). Cái học của Nho giáo là

học trò đem hết cái sáng suốt tự nhiên mà hiểu cho rõ cái nghĩa tinh vi, vào đến
cái thần diệu của sự vật: “Tinh nghĩa nhập thần dĩ trí dụng giã: Hiểu rõ cái nghĩa
tinh vi, vào đến chỗ thần diệu để sự thi dụng cho được đến cùng là vậy”. Nho
giáo chú ý làm cho sáng cái Đức của người ta chỉ đem cái biết của mình mà
truyền đạt lại: “Có đứa quê kệch hỏi đến ta, ta không như không biết gì, đem đầu

15


đuôi trước sau mà nói, làm cho người ấy biết hết mọi lẽ” hay “Người nào không
nói rằng: làm thế nào, làm thế nào. Thì ta cũng chẳng làm thế nào được”.
Vì thế, trong giáo dục Nho giáo luôn yêu cầu học trò phải biết quan sát
tinh tường, suy nghĩ thấu đáo để đạt được cái biết “Dư nhất dĩ quán chi: biết một
mối mà thông suốt tất cả”. Như vậy, theo Nho giáo, trong việc học thì người
thầy chỉ là con đường đi còn chính người học trò phải tự mình, đem hết khả
năng để bước đi trên con đường đó.
1.3. Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo.
Không ai có thể phủ nhận sự ảnh hưởng to lớn của Nho giáo đối với sự phát
triển của Trung Quốc và nhiều nước châu Á khác, trong đó có Việt Nam. Tuy
nhiên, những ảnh hưởng đó không đơn thuần chỉ là những ảnh hưởng mang tính
tích cực mà có cả những ảnh hưởng tiêu cực. Điều này có nguyên nhân từ tư
tưởng giáo dục của Nho giáo, bởi bên cạnh những tư tưởng tích cực thì tư tưởng
của nó bộc lộ không ít hạn chế. Những giá trị cũng như hạn chế này được thể
hiện trong quan điểm của Nho giáo về đối tượng, mục đích, nội dung, phương
pháp giáo dục.
Về mục đích giáo dục: như đã trình bày ở trên, mục đích giáo dục của
Nho giáo là nhằm truyền bá sâu rộng tư tưởng nhân nghĩa vào trong nhân dân,
bao trùm của Nho giáo là nhằm đào tạo những con người phù hợp với địa vị xã
hội mà mình có, nghĩa là sống đúng với danh của mình. Nếu tầng lớp thường
dân được giáo dục để biết phục tùng người trên, thì người quân tử được giáo dục

để làm người cai trị. Trong đó, Nho giáo ưu tiên cho mục tiêu đào tạo lớp người
cai trị. Tư tưởng này của Nho giáo có nhiều yếu tố tích cực nhưng cũng bộc lộ
nhiều hạn chế. Chúng ta đều biết rằng muốn xây dựng xã hội phồn vinh, phát
triển thì yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất đó là con người, nhất là những
người hiền tài. Nho giáo hiểu rõ vấn đề này, nên mục đích giáo dục của học
thuyết là phát hiện và đào tạo những người hiền tài có tri thức và năng lực để
cứu nước, giúp dân, xây dựng một xã hội thái bình, thịnh trị. Tư tưởng đào tạo
người hiền tài để tham gia quản lý xã hội của tư tưởng Nho giáo có giá trị ở chỗ
16


nó đã đánh vào chế độ chuyên chế quý tộc “thế khanh thế lộc” - quan chế và
bổng lộc cha truyền con nối. Nêu lên đòi hỏi của xã hội cần nhiều người tài giỏi
để quản lý xã hội mà không cần để ý đến thành phần xuất thân, điều này là động
lực tạo ra một xã hội học tập, mọi thành phần trong xã hội có thể lấy học tập làm
hy vọng để thay đổi số phận và địa vị của mình.
Bên cạnh những điểm tích cực đó, mục đích giáo dục mà Nho giáo đưa ra
cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Trước hết, đó là tư tưởng coi thường người dân. Nho
giáo luôn đánh giá thấp khả năng nhận thức của tầng lớp dưới so với bậc quan
lại và quý tộc. Do vậy, việc giáo dục họ chỉ là để họ biết nghe lời nhà cầm
quyền. Bên cạnh đó, học thuyết cũng không thấy được sức mạnh của tầng lớp
mới lên. Không thừa nhận địa vị của chư hầu, các quan đại phu. Chính điều đó
làm cho tư tưởng của Nho giáo đi đâu cũng không được trọng dụng đến nỗi
Khổng Tử - triết gia của Nho giáo phải than rằng: “đạo của ta chẳng ai dùng”,
“chẳng ai biết ta”, “biết ta chăng chỉ có trời”… Hơn nữa, do không thấy được sự
suy sụp của nhà Chu là một tất yếu lịch sử cho nên ông vẫn lấy việc khôi phục
lại chế độ tông pháp nhà Chu làm mục đích giáo dục của mình. Cũng chính từ
mục tiêu giáo dục gắn liền và xoay quanh mục đích chính trị, cho nên nó không
tránh khỏi hạn chế là bó buộc con người trong khuôn khổ chật hẹp của những
mối quan hệ đã được định sẵn. Xây dựng con người theo hướng thích hợp với

trật tự xã hội phong kiến đã làm thui chột khả năng sáng tạo của con người,
hướng mục đích của việc học chủ yếu là để đỗ đạt và ra làm quan.
Về đối tượng giáo dục: với tư tưởng “hữu giáo vô loài”, có thể nói Nho
giáo chủ trương “bình dân” trong giáo dục. Mặc dù chế độ chiếm hữu nô lệ ở
Trung Quốc không khắc nghiệt như ở Ấn Độ hay Phương Tây, nhưng việc Nho
giáo chủ trương xây dựng một nền giáo dục cho tất cả mọi người không phân
biệt giai cấp, đẳng cấp, giàu nghèo là một điểm hoàn toàn mới. Đã vượt qua
đẳng cấp, danh phận trong xã hội để góp phần đưa sự nghiệp giáo dục con người
đến với mọi lớp người ở mọi phạm vi và trình độ. Đã phá vỡ đặc quyền của tầng
lớp quan lại, quý tộc làm cho giáo dục mang tính chất phổ cập bình dân. Chính
vì vậy, tư tưởng “hữu giáo vô loài” của Nho giáo “Nó cũng có ý nghĩa như cuộc
17


cách mạng của Thích ca để san bằng các tập cấp ở Ấn Độ” [56, tr.28]. Về sau,
các nhà Nho cũng chủ trương mở rộng đối tượng giáo dục xuống tầng lớp thứ
dân nhằm truyền bá đạo lý làm người theo quan niệm của Nho giáo và nhằm kén
chọn nhân tài tham gia vào các công việc chính trị, xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tiến bộ thì quan niệm về đối tượng giáo
dục của Nho giáo cũng còn nhiều điểm mâu thuẫn và hạn chế. Đó là, dù coi giáo
dục là bình đẳng giữa mọi người nhưng trong giáo dục Nho giáo lại phân biệt
từng loại người khác nhau, từng trình độ khác nhau. Việc phân biệt từng loại
người với những phẩm chất và năng lực khác nhau cho thấy hạn chế về mặt lịch
sử mà bản thân tưởng vượt qua được. Chính quan niệm có hạng người sinh ra đã
biết trở thành chỗ dựa cho giai cấp thống trị lợi dụng, khai thác buộc dân chúng
phải tin rằng: tầng lớp đứng đầu cai trị trong xã hội ngay từ khi được sinh ra đã
hiểu rõ đạo lý nên có thể gánh vác giang sơn, bình định được thiên hạ. Bên cạnh
đó, Nho giáo cũng thể hiện tư tưởng coi thường phụ nữ. Trong tư tưởng, phụ nữ
không thuộc đối tượng được giáo dục. Nho giáo quan niệm: “phụ nữ và tiểu
nhân là hai hạng người khó ở cho vừa lòng nhất. Gần họ thì họ khinh nhờn. Xa

họ thì họ oán trách” (Nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã. Cận chi, tắc bất tốn;
viễn chi tắc oán) [62, tr.282-283]. Vị trí của phụ nữ là ở trong nhà và bếp núc, lo
nuôi sống và phục vụ gia đình.
Tóm lại, với tư tưởng “hữu giáo vô loài”, Nho giáo đã để lại trong lịch sử
nhân loại một quan niệm to lớn: mọi người đều có quyền được giáo dục và xã
hội cần giáo dục cho tất cả mọi người. Khổng Tử đã thể hiện là một tấm gương
dạy học vì lòng yêu thương con người chứ không vì tư lợi cá nhân. Tiếc rằng tư
tưởng “hữu giáo vô loài” của Nho giáo không được thực hiện trọn vẹn nhưng tư
tưởng đó sẽ trở thành phương châm giáo dục tích cực cho sự phát triển của giáo
dục sau này.
Về nội dung giáo dục: nội dung chủ yếu mà Nho giáo muốn truyền dạy
cho mọi người là giáo dục “đạo làm người”. Trong bối cảnh hỗn loạn của thời
kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc khi trật tự xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy đồi, nhân
18


luân xáo trộn… thì việc Nho giáo đưa ra nội dung giáo dục đạo đức cho con
người là hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn nhằm thiết lập lại sự ổn định
của xã hội. Nho giáo coi trọng dạy luân lý, đạo đức cho con người, giúp con
người sống hoà thuận trong các mối quan hệ xã hội mà mình có. Điều này cũng
phù hợp với mục đích chủ yếu của Nho giáo là đào tạo những con người hướng
thiện, có lễ nghĩa. Ngoài ra, nội dung giáo dục của Nho giáo còn hướng tới việc
dạy “đạo trị nước” cho con người với mục đích quan trọng là đào tạo ra những
con người có đức, có tài để bổ sung vào đội ngũ quan lại.
Nội dung cơ bản trong giáo dục Nho giáo còn chú trọng giáo dục trách
nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân đối với gia đình và xã hội, chú trọng đến các giá trị
tinh thần, danh dự, đạo đức và khí tiết. Điều này có thể nhìn nhận theo hai
phương diện: xét đến mặt tích cực, Nho giáo đã dạy cho con người hệ thống
luân lý, nhân bản, dạy đạo làm người. Việc giáo dục con người sống có trách
nhiệm với gia đình, cộng đồng và xã hội đã hạn chế rất nhiều thói hư tật xấu và

sự ích kỷ tiềm ẩn trong con người. Phương châm giáo dục của Nho giáo là coi
việc giáo dục đạo làm người là trước hết rồi mới tiến hành trang bị các tri thức
phục vụ cho công việc chính trị quốc gia. Đây cũng là điểm hết sức hợp lý, bởi
muốn giải quyết các công việc xã hội thì trước hết con người phải có đạo đức.
Nghĩa là, con người trước tiên phải tu thân, tề gia rồi sau đó mới trị quốc, bình
thiên hạ.
Như vậy, Nho giáo đã thấy được vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
và đòi hỏi cá nhân phải luôn luôn rèn luyện bản thân mình song lại quá đề cao
đạo đức con người, coi đó như là tiêu chuẩn hàng đầu của nội dung giáo dục và
đã gạt bỏ những năng lực khác của con người, đặc biệt là tri thức khoa học ra
ngoài nội dung giáo dục của mình. Không những thế, mục đích và nội dung giáo
dục của Nho giáo, trước sau đều nhằm đào tạo ra mẫu người lý tưởng, người
quân tử trung thành với chế độ quý tộc phong kiến và nhằm duy trì trật tự đẳng
cấp của chế độ đó.

19


Mặt khác, tuy thấy được vai trò của giáo dục đối với việc phát triển xã
hội, giáo dục là một trong ba thành tố quan trọng của quốc gia: “thứ, phú, giáo”,
nhưng khi đưa vào thực tiễn Nho giáo lại tách giáo dục ra khỏi hoạt động chính
yếu của xã hội là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất; đánh giá thấp các hoạt
động sản xuất vật chất, định hướng giá trị con người theo một chiều, thiên về cái
tinh thần, xa rời việc chinh phục, chiếm lĩnh các giá trị vật chất, cải tạo tự nhiên.
Chính vì vậy, quan niệm người hiền tài không phải là người hiểu biết về khoa
học, về lao động sản xuất mà là người hiểu biết về lễ, nghĩa,.. Mặt khác, với nội
dung giáo dục, Nho giáo hướng tới mục đích đào tạo những lớp người thích hợp
với trật tự xã hội phong kiến - trật tự mang tính phân biệt đẳng cấp, trên dưới, vì
thế sản phẩm của nó là những thế hệ không thể vượt qua khuôn khổ chật hẹp và
tầm nhìn hạn hẹp của xã hội phong kiến - một xã hội trói buộc con người ta

trong những quan hệ định sẵn.
Về phương pháp giáo dục: Nhìn chung, trong phương pháp giáo dục của
Nho giáo chứa đựng rất nhiều điểm tích cực và tiến bộ. Nho giáo chủ trương dạy
từ xa đến gần, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp theo hướng gợi mở để
người học dễ tiếp thu và phát huy tính chuyên cần cũng như khả năng sáng tạo
của mình. Qua đó mở rộng và đào sâu kiến thức cho người học. Phương pháp
giáo dục đòi hỏi người thầy phải là một tấm gương sáng cho trò noi theo cả về
đạo đức lẫn tài năng uyên bác.
Chú trọng khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học thông
qua phương pháp thảo luận, tranh luận giữa thầy và trò là ưu điểm nổi bật trong
phương pháp dạy và học của Nho giáo. Điểm tiến bộ tiếp theo trong phương
pháp giáo dục của Nho giáo là phương pháp phân lớp các đối tượng trong quá
trình dạy học nhằm trang bị kiến thức phù hợp với khả năng của từng cá nhân để
đạt được hiệu quả cao nhất. Tư tưởng giáo dục của Nho giáo còn đòi hỏi con
người ta phải ôn cũ, biết mới, học những điển tích cũ trong lịch sử để thu thập
kinh nghiệm, giải quyết những vấn đề trong hiện thực, chú trọng vận dụng
những điều đã học vào trong cuộc sống, tức là học phải đi đôi với hành, học là
để giúp nước, giúp dân. Vì lẽ đó, bên cạnh mục đích chủ yếu là đào tạo ra những
20


con người lương thiện, lễ nghĩa, sống đúng với bổn phận của mình thì mục tiêu
cao nhất mà Nho giáo vươn tới là đào tạo lớp người quân tử có đủ đức, đủ tài ra
giúp nước, cứu dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những quan điểm tích cực, phương pháp giáo dục
của Nho giáo bộc lộ nhiều hạn chế. Dễ thấy nhất là mặc dù đề ra chủ trương
phát huy tính tích cực và khả năng sáng tạo của người học nhưng lại bó hẹp sự
sáng tạo đó trong khuôn khổ có sẵn của nhà Chu.
Như vậy, xét về tổng thể, trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo chứa
đựng cả những điểm tích cực lẫn những hạn chế. Những điểm tích cực cho

chúng ta thấy dường như Nho giáo đã vượt qua được những định kiến, khuôn
khổ hà khắc của chế độ phong kiến đưa con người phát triển toàn thiện hơn, tự
do hơn. Ngược lại, những điểm hạn chế cho thấy, ở một khía cạnh nào đó Nho
giáo cũng chỉ là học thuyết đang chịu ảnh hưởng của những định kiến và khuôn
khổ khắc nghiệt đó. Tuy nhiên, những hạn chế đó không lu mờ được những giá
trị mà học thuyết mang lại. Có thể nói, với tất cả những giá trị đó, tư tưởng giáo
dục của Nho giáo xứng đáng là một tư tưởng giáo dục mẫu mực của xã hội
Trung Quốc thời bấy giờ và nhiều điểm nổi bật của nó vẫn còn nguyên giá trị, có
tính phổ biến toàn nhân loại.
Quan điểm giáo dục của Nho giáo không chỉ tồn tại trên mảnh đất đã sinh
ra nó mà còn ảnh hưởng đến nhiều nước như Việt Nam, CHDC nhân dân triều
tiên, Nhật bản, Hàn Quốc…ngày nay cái tinh thần của nó đã thấm sâu vào mọi
ngõ nghách của đời sống người dân Việt Nam. Những tư tưởng của Khổng Tử
sở dĩ có thể tồn tại ở Việt Nam và các nước bởi lẽ trước hết do bản thân chúng
mang những giá trị của toàn nhân loại. Hơn nữa bản thân chúng ta đang sống
trong một thời đại mà loài người càng xích lại gần nhau và sự giao lưu văn hoá
diễn ra trên toàn thế giới. Vì thế các thế hệ người Việt Nam đã sớm biết vận
dụng phần tiến bộ trong quan điểm giáo dục của Nho giáo để góp phần đào tạo
đội ngũ tri thức cho đất nước.

21


×