Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Điều tra thành phần tảo silic trong một số đầm nuôi tôm ở xã xuân lâm tĩnh gia thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 56 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

VÕ THỊ LỆ QUYÊN

ĐIỀU TRA THÀNH PHẦN TẢO SILIC TRONG
MỘT SỐ ĐẦM NUÔI TÔM Ở XÃ XUÂN LÂM –
TĨNH GIA – THANH HOÁ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Chuyên ngành: Thực vật học

Vinh, 2012

1


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình thực hiện và hồn thành luận văn này, em xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đối với sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của giảng viên
hướng dẫn TS. Lê Thị Thúy Hà.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Nguyễn
TIến Cường, cô giáo Nguyễn Thanh Lam cùng các thầy cô giáo trong Tổ bộ
môn Thực vật học, Tổ bộ mơn Sinh lý – Hóa sinh, tập thể cán bộ phịng thí
nghiệm Bộ mơn thực vật – Khoa Sinh học trường Đại học Vinh đã tạo điều
kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành bài luận
văn này.
Em xin chân thành cảm ơn học viên cao học Đỗ Xuân Dương đã nhiệt tình
giúp đỡ em.
Sau cùng em xin chân thành cảm ơn người thân và bạn bè đã động viên


giúp đỡ em trong suốt thời gian qua.
Vinh, tháng 05 năm 2012
Tác giả
Võ Thị Lệ Quyên

2


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 6
CHƯƠNG I ....................................................................................................... 8
TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................................. 8
1.1. Sơ lược về tình hình nghiên cứu tảo Silic trên thế gới và ở Việt Nam ...... 8
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tảo Silic trên thế giới ........................................... 8
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tảo Silic ở Việt Nam .......................................... 10
1.2. Hình thái tảo Silic..................................................................................... 13
1.3. Vai trị của một số yếu tố mơi trường trong đời sống vi tảo .................... 14
CHƯƠNG II .................................................................................................... 18
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................... 18
2.1. Đối tượng và địa điểm nghiên cứu ........................................................... 18
2.2. Phương pháp thu mẫu .............................................................................. 18
2.2.1. Phương pháp thu mẫu nước .................................................................. 18
2.2.2. Phương pháp thu mẫu tảo...................................................................... 18
2.3. Phương pháp phân tích ............................................................................. 19
2.3.1. Phương pháp phân tích mẫu nước ......................................................... 19
2.3.2. Phương pháp phân tích mẫu tảo ............................................................ 19
2.4. Phương pháp định loại tảo Silic ............................................................... 19
2.5. Phương pháp phân tích định lượng tảo Silic ............................................ 20
CHƯƠNG III................................................................................................... 21

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................................. 21
3.1 Một vài đặc điểm về địa hình nghiên cứu ................................................. 21
3.2. Kết quả phân tích một số chỉ tiêu thủy lý – thủy hóa của đầm tôm......... 23
3.2.1. Một số chỉ tiêu thủy lý .......................................................................... 23
3.2.1.1. Nhiệt độ .............................................................................................. 23
3.2.1.2.Độ trong............................................................................................... 24
3


3.2.1.3. Độ mặn ............................................................................................... 25
3.2.2. Một số chỉ tiêu thủy hóa ........................................................................ 26
3.2.2.1. pH ...................................................................................................... 26
3.2.2.2. Ơxy hịa tan (Dissolved Oxygen - DO).............................................. 26
3.2.2.3. Nhu cầu oxy hóa học (COD - Chemical Oxygen Demand) .............. 27
3.3. Đa dạng về thành phần lồi tảo Silic ở đầm tơm tại Xn Lâm – Tĩnh Gia
– Thanh Hóa .................................................................................................... 29
3.3.1. Đa dạng lồi .......................................................................................... 29
3.3.2. Đặc điểm phân bố của tảo Silic ............................................................. 36
3.3.3. Sự biến động thành phần loài theo các đợt thu mẫu ............................. 36
3.4. Đa dạng tảo Silic phù du trong mối quan hệ với môi trường sống .......... 38
3.4.1 Nhiệt độ .................................................................................................. 38
3.4.2. Độ mặn .................................................................................................. 38
3.4.3. Oxy hòa tan – DO ................................................................................. 39
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................................... 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 41

4


DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1: Nhiệt độ môi trường ở các địa điểm nghiên cứu ............................ 23
qua 2 đợt thu mẫu ............................................................................................ 23
Bảng 3.2: Độ trong trung bình ở các địa điểm nghiên cứu ............................. 24
qua 2 đợt thu mẫu ............................................................................................ 24
Bảng 3.3: Độ mặn trung bình ở các địa điểm nghiên cứu qua 2 đợt thu mẫu 25
Bảng 3.4: pH trung bình ở các địa điểm nghiên cứu qua 2 đợt thu mẫu ........ 26
Bảng 3.5: Hàm lượng Oxy hòa tan trung bình tại các điểm nghiên cứu qua các
đợt thu mẫu (đơn vị mgO2/l) ........................................................................... 27
Bảng 3.6: Hàm lượng COD trung bình qua các đợt nghiên cứu..................... 28
Bảng 3.7: Bảng phân bố thành phần loài/dưới loài tảo Silic ở một số đầm tôm
tại xã Xuân Lâm – Tĩnh Gia – Thanh Hóa...................................................... 29
Bảng 3.8: Sự phân bố các taxon tảo Silic trong các đầm nghiên cứu ............. 34
Bảng 3. 9: Sự phân bố các taxon tảo Silic qua 2 đợt thu mẫu ........................ 36

5


MỞ ĐẦU

Vi tảo (microalgae) là những cơ thể tự dưỡng, đã từ lâu có ý nghĩa lớn
trong nền kinh tế quốc dân vì thế đã thu hút được nhiều sự quan tâm của các
nhà khoa học. Người ta đã sử dụng vi tảo như là một biện pháp sinh học
chống ô nhiễm môi trường nước, bởi lẽ chúng có khả năng là tăng hàm lượng
ôxi trong nước đồng thời sử dụng các chất gây ô nhiễm trong nước làm chất
dinh dưỡng hoặc tiết ra các chất hạn chế sự phát triển của các vi sinh vật gây
bệnh trong nước. Ngoài ra vi tảo cùng với các sản phẩm có hoạt tính sinh học
của chúng đã được sử dụng rộng rãi trong ngành y học, chăn nuôi và trồng
trọt….
Tảo Silic (Bacillariophyta) là một ngành thực vật bậc thấp, cơ thể có
cấu trúc đơn bào có khả năng quang hợp, chúng sống đơn độc hoặc sống

thành tập đoàn. Thành phần tảo Silic rất phong phú, trên thế giới có khoảng
10.000 lồi hiện sống thuộc 300 chi [25]. Chúng phân bố khắp nơi, gặp tromg
đất, đá ẩm, băng tuyết, trong các loại hình thủy vực, từ vùng khí hậu hàn đới
đến khí hậu nhiệt đới.
Tảo Silic phù du là thành phần chính của thực vật phù du nước, nhất là ở biển.
Là mắt xích đầu tiên của mạng lưới dinh dưỡng, chúng là một trong những
sinh vật sản xuất quan trọng bậc nhất của hệ sinh thái nước. Nhiều loài động
vật phù du, ấu trùng, động vật thân mềm, các loài cá bột và nhiều loài cá
trưởng thành đã sử dụng trực tiếp hay gián tiếp tảo Silic phù du làm thức ăn.
Chính vì vậy, chúng có ý nghĩa lớn đối với nghề nuôi trồng thủy sản đặc biệt
là nghề nuôi tôm. Tuy nhiên các cơng trình nghiên cứu về tảo Silic ở nước ta
chưa được quan tâm nhiều, đặc biệt trong các đầm ni tơm thì càng ít ỏi. Để
có thể tìm hiểu về tảo Silic và ảnh hưởng của điều kiện môi trường lên sự
phân bố của chúng trong các đầm nuôi tôm, chúng tôi đã tiến hành đề tài:

6


“Điều tra thành phần tảo Silic trong một số đầm nuôi tôm ở xã Xuân Lâm
– Tĩnh Gia – Thanh Hóa”.
Đề tài này nhằm mục đích điều tra thành phần các lồi tảo Silic sinh
sống tại đầm ni tơm, đánh giá mức độ ảnh hưởng của môi trường nước lên
sự phân bố thành phần lồi tảo Silic ở đầm tơm. Bước đầu làm quen với
phương pháp nghiên cứu khoa học.
Nội dung của đề tài gồm:
Xác định một số chỉ tiêu thủy lý thủy hóa ở một số đầm ni tơm ở xã
Xuân Lâm – Tĩnh Gia – Thanh Hóa
Điều tra thành phần loài tảo Silic tại các điểm nghiên cứu
Đánh giá mức độ ảnh hưởng của môi trường nước ở đầm tơm lên sự
phân bố thành phần lồi của tảo Silic


7


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lược về tình hình nghiên cứu tảo Silic trên thế gới và ở Việt Nam
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tảo Silic trên thế giới
Việc nghiên cứu vi tảo nói chung và tảo Silic nói riêng đã có từ rất lâu,
nó gắn liền với việc tìm thấy tế bào và sự ra đời của kính hiển vi quang học
được phát minh bởi nhà tự nhiên học người Anh Robert Hooke (1665). Về
sau các thiết bị nghiên cứu càng được hoàn thiện nên những tri thức về tảo
ngày càng được phát triển cao, không dừng ở mức độ nghiên cứu về hình thái,
cấu trúc mà tìm hiểu sâu vào mức độ vi mô, phân tử [7], từ đó làm cơ sở cho
các hướng nghiên cứu khác nhau, đặc biệt là nghiên cứu ứng dụng chúng
trong nhiều lĩnh vực phục vụ cho đời sống con người.
Tảo Silic được bắt đầu nghiên cứu từ thế kỷ XVIII, tên của lớp
Bacillariophyceae được bắt nguồn từ tên chi Bacillaria Gmelin 1791, trong
khi đó từ “Diatom” được gọi từ tên chi Diatoma De Candolle 1805. Đến
những thập niên đầu của thế kỷ XIX việc nghiên cứu phân loại tảo Silic được
tiến hành với cơng trình đầu tiên là “Systema Algarum” của Agardh C. A.
năm 1824. Sau đó, Ehrenberg C.G., Kuetzing F.T., Smith W., Ralfs J. đã công
bố nhiều hệ thống phân loại tảo Silic. Cơ sở phân loại của cá tác giả còn đơn
giản, chỉ mới dựa vào số lượng thể sắc tố và có rãnh dài hay khơng để làm căn
cứ phân loại [23].
Những năm đầu của thế kỷ XX, vào năm 1928 Karsten đã đưa ra hệ
thống phân loại tảo Silic đầy đủ và chi tiết hơn: bộ Centracae với 4 bộ phụ
(gồm Discoideae, Solenoideae, Biddulphioideae, Rutilaroideae) và bộ
Pennatae với 7 bộ phụ thuộc 4 nhóm: nhóm Araphideae (có Fragilarioideae),
nhóm


Raphidiodeae

(có

Eunotioideae),

nhóm

Monoraphideae

(có

Achnanthoideae), nhóm Biraphideae (có Naviculoideae, Epithemioideae,
Nitzschioideae và Surirelloideae). Sau đó, hệ thống phân loại tảo Silic đã
8


được Kokubo S. (1955), Kim Đức Tường (1965)… bổ sung hợp lý và mang
tính tự nhiên cao [1]. Giữa thế kỷ XX, kính hiển vi điện tử ra đời đã mở ra
một kỷ nguyên mới về nghiên cứu tảo [23].
Theo hướng nghiên cứu về tảo phù du biển, Cupp E.E. (1943) điều tra,
nghiên cứu thành phần loài tảo Silic biển ven bờ khu vực Bắc Mỹ, Crossby và
Cassie (1959) nghiên cứu tảo Silic ở Ôx-trây-lia và Niu Di-lân hay Sournia A.
(1968) khảo sát tảo Silic phù du ở biển ven bờ Mô-dăm-bic [25]. Đáng chú ý
hơn cả là những công trình điều tra, khảo sát tảo Silic trên các vùng biển Ấn
Độ Dương mà Kastern G. là người đầu tiên thực hiện năm 1907. Về sau, vào
những năm 1964 – 1965, một số nhà khoa học đã nghiên cứu đối tượng này
tại 103 điểm, trong đó có một số khu vực mà Kartern G. đã quan tâm 60 năm
trước. Kết quả được Reimer Simonsen (1974) tổng hợp trong “The Diatoms

Plankton of The India Ocean” [26], mô tả 247 taxon bậc lồi và dưới lồi
thuộc 80 chi, trong đó có 15 loài, 1 thứ và 3 chi được coi là mới đối với khoa
học.
Cùng thời gian đó, Hasler G.R. (1965) đã nghiên cứu sâu về mô tả và
so sánh chi tiết 15 loài và dưới loài tảo Silic phù du thuộc chi Nitzschia từ
những mẫu thu vớt được trong khu vực Bắc Đại Tây Dương [24].
Tảo Silic phù du ở những vùng biển gần với biển Đông như: biển Nhật
Bản, Philippin, Inđônêxia….đều được nghiên cứu kỹ từ khá sớm. Allen W.E.,
Cupp E.E. (1935) đã khảo sát, đánh giá nguồn lợi tảo Silic phù du biển Java
(Inđônêxia). Kokubo A. (1955) đã mô tả trong cuốn “Trung Quốc hải dương
phù du khuê tảo loại”, giới thiệu 228 loài và dưới loài tảo Silic trong vùng
lãnh hải Trung Hoa [1].
Các cơng trình nghiên cứu về tảo Silic gần đây không thể không kể đến
“The diatoms: Biology & Morpholory of the genera” của Round và cộng sự
(1990), trên 285 chi được mơ tả và có nhiều chi mới được phát hiện. Các chi
được mô tả rất công phu kèm theo ảnh hiển vi quang học và điện tử minh họa.
Mới đây nhất cịn có các chuyên khảo về các chi tảo Silic cũng được công bố
9


như: Sterrenberg (1992) với “Nghiên cứu chi Gyrosigma và Pleurosigma
(Bacillariophyceae)”, Krammer (2000) mơ tả 236 lồi và dưới lồi thuộc chi
Pinnularia của Châu Âu ( trong đó có 151 lồi và dưới loài mới cho khoa
học), Stefano và cộng sự (2000)… [theo 5].
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tảo Silic ở Việt Nam
Ở Việt Nam việc nghiên cứu tảo Silic phù du được tiến hành khá sớm,
nhất là ở Miền Nam Việt Nam.
Năm 1904 có 38 lồi tảo Silic phù du lần đầu tiên được Bois M.D. và
Petit D. giới thiệu trong báo cáo kết quả điều tra sinh vật nổi trong một số ao
hồ ở Sài Gòn [theo 4]. Từ đó trở về sau, tảo Silic được quan tâm nhiều hơn và

được giới thiệu cùng các ngành tảo khác trong những cơng trình nghiên cứu
thực vật nổi ở các loại hình thủy vực.
Ở vịnh Nha Trang đã có các cơng trình nghiên cứu về tảo Silic nhưng
việc điều tra, khảo sát đối tượng này chỉ trong phạm vi hẹp. Maurice Rose đã
tiến hành khảo sát lần đầu tiên sinh vật phù du vào năm 1926 và hệ thống
thành một bảng danh mục các loài tảo Silic phát hiện được ở Nha Trang,
trong 54 mẫu phân tích có 13 chi với 20 lồi [1]. Sau đó, Dawydoff C. (1936)
tiếp tục nghiên cứu và đã phát hiện có 11 chi, 22 lồi tảo Silic. Về phương
diện số lượng, ông đã mô tả một chu kỳ năm của thực vật phù du với sự luân
phiên giữa 2 mùa là mùa mưa và mùa khô. Trong mùa khô (từ tháng 1 đến
tháng 7 âm lịch), số lượng thực vật phù du ít nhưng đến tháng 8 (khi mùa mưa
bắt đầu) thực vật phù du tăng nhanh về số lượng và đạt đỉnh cao vào tháng 11
và tháng 12 với ưu thế thuộc về ngành tảo Silic. Sang tháng 1, số lượng tế bào
giảm đi và lại bắt đầu một chu kỳ mới. Cũng theo hướng này, tại Vịnh Nha
Trang sau 2 năm (1957 – 1958) điều tra, khảo sát (mỗi tháng lập lại công việc
một lần), Yamashita nhận thấy số lượng sinh vật nổi cũng thay đổi theo chu
kỳ rõ rệt. Sinh vật lượng của tảo đạt đỉnh cao vào tháng 5 còn thấp nhất vào
tháng 2. Như vây, kết luận này hoàn toàn khác so với những kết quả của
Dawydoff đã đưa ra trước đó [19].
10


Cơng trình viết về tảo Silic đầu tiên bằng tiếng Việt do người Việt Nam thực
hiện là “Phiêu sinh vật trong vịnh Nha Trang” của Hoàng Quốc Trương
(1962). Tác giả đã mơ tả 153 lồi tảo Silic (kèm theo các hình vẽ minh họa) từ
các mẫu thu được ở 13 điểm trong vịnh Nha Trang từ tháng 01 đến tháng 02
năm 1961 [19].
Năm 1966, trong cuốn “The plankton of South Việt Nam”, cùng với các
loài tảo nước ngọt, Shirota A. đã giới thiệu 213 loài tảo Silic trong 15 vùng
nước lợ, nước mặn ven biển từ Thừa Thiên Huế đến Kiên Giang [27]. Tuy chỉ

mới trình bày bảng tên lồi cùng với những hình vẽ cịn đơn giản, khơng có
phần mơ tả hình thái mà chỉ nêu các kích thước nhưng đây thực sự là cơng
trình nghiên cứu có giá trị về thực vật phù du biển. Với danh mục lồi phong
phú, cơng trình đã giới thiệu bao qt về thực vật nổi vùng ven biển miên
Nam Việt Nam, điều mà trước đó chưa có tác giả nào thực hiện được.
Nguyễn Văn Tuyên (1980), trong luận án Phó Tiến sĩ khoa học Sinh
học, đã cơng bố 979 taxon lồi và dưới lồi thực vật phù du, trong đó có 260
lồi tảo Silic [theo 20]. Tiếp theo đó là cơng trình lớn của Dương Đức Tiến
(1982) đã phản ánh khá đầy đủ khu hệ tảo trong các loại hình thủy vực nội
địa. Tác giả cơng bố 1402 lồi, trong đó có 388 loài tảo Silic. Đặc biệt hơn,
tác giả đã chú ý nhiều đến mối liên hệ giữa các kiểu hình thủy vực đối với đời
sống của tảo [theo 4]. Theo hướng này, năm 1988 ông xuất bản cuốn “Đời
sống các lồi tảo” khắc họa vai trị, ý nghĩa của tảo trong tự nhiên và đời
sống con người cũng như triển vọng sử dụng chúng [18].
Năm 1982, Viện nghiên cứu biển Nha Trang đã tiến hành khảo sát
nguồn lợi thực vật nổi dải biển ven bờ từ Thuận Hải đến Minh Hải (cũ). Danh
mục lồi được Viện cơng bố có ghi 170 lồi tảo Silic [1].
Cịn ở miền Trung, Vũ Trung Tạng, Đặng Thị Sy (1977 – 1978) khi
điều tra sơ bộ về thực vật nổi trong phá Tam Giang (Thừa Thiên Huế), kết
quả cho thấy trong 86 loài được định danh thì có 65 lồi tảo Silic [theo 4]. Kết
quả này được bổ sung sau đó, khi Tơn Thất Pháp (1993) nghiên cứu về thực
11


vật thủy sinh trong phá, đã cơng bố 159 lồi tảo Silic [theo 11]. Sau đó ơng
và cộng sự đã bổ sung cho danh mục thành phần loài tảo Silic vùng biển ven
bờ tỉnh Thừa Thiên Huế 2 chi và 46 lồi [12].
Năm 2001, Nguyễn Đình San đã phát hiện 196 loài và dưới loài thuộc 5
ngành tảo trong một số thủy vực bị ô nhiễm ở 3 tỉnh Bắc Miền Trung. Riêng
về tảo Silic, trong 56 loài được định danh, tác giả đã bổ sung 5 loài cho khu

hệ tảo Việt Nam, 10 loài cho khu vực Bắc Miền Trung [theo 14].
Võ Hành, Mai Văn Chung, Lê Thị Thúy Hà (2002) đã phát hiện được
99 loài và dưới loài tảo Silic ở một số cửa sông ở Nghệ An (Lạch Quèn, Lạch
Vạn và Cửa Hội) [8].
Năm 2004,Lê Thị Thúy Hà đã cơng bố 164 lồi và dưới lồi tảo Silic
trong tổng số 409 loài và dưới loài đã thống kê được ở Sông Lam [theo 6].
Gần đây nhất, năm 2007, Lương Quang Đốc đã cơng bố 123 lồi và 14 thứ
tảo Silic sống trên nền đáy mềm ở phá Tam Giang – Cầu Hai và đầm Lăng
Cô, tỉnh Thừa Thiên Huế [theo 5].
Nếu như tảo Silic ở miền Nam được tìm hiểu từ đầu thế kỷ XX thì đối
tượng này ở miền Bắc được nghiên cứu muộn hơn. Trong những năm 1959 –
1962 và 1965 – 1966, khi chương trình hợp tác điều tra cơ bản tổng hợp vịnh
Bắc Bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam được tiến hành thì tảo Silic mới được
quan tâm đáng kể. Trong kết quả thu được, bên cạnh nhiều loài thực vật nổi
được định danh có 140 lồi tảo Silic [1]. Trương Ngọc An, Hàn Ngọc Lương
(1980) đã khảo sát thực vật phù du vùng cửa sông Ninh Cơ, cửa sông Đáy và
cửa sông Hồng (cửa Bà Lạt) thuộc tỉnh Hà Nam Ninh (cũ) đã cơng bố 125
taxon, trong đó tảo Silic chiếm ưu thế [2].
Dựa vào nguồn tài liệu trước đó rất phong phú, Trương Ngọc An đã mơ
tả 225 lồi tảo Silic phù du gặp ở biển Việt Nam, chúng thuộc 2 bộ, 18 họ và
60 chi [1].
Những cơng trình nghiên cứu với những kết quả có giá trị đó là nguồn
động lực để mở rộng các hướng nghiên cứu mới nhằm khai thác lợi ích của
12


tảo đồng thời góp phần đề ra phương hướng phát triển mới cho công tác
nghiên cứu tảo ở nước ta, đưa sinh học thực nghiệm ngày càng đi sâu vào
thực tiễn và đời sống.
1.2. Hình thái tảo Silic

Hình thái vỏ (vách tế bào):
Tảo Silic rất đa dạng về mặt hình thái, có ít nhất 16 kiểu khác nhau:
hình que, hình thuyền, hình đĩa, hình chuỗi, sợi, dải, sao… [7]
Tập đồn có thể tách rởi: các tế bào được liên kết lại với nhau nhờ cơ
chất và trong những điều kiện thích hợp, chúng có thể tách ra những tập đồn
nhỏ hơn.
Tập đồn khơng thể tách rời: các tế bào được liên kết lại với nhau nhờ
vách hoặc nhờ các gai, sừng để móc với nhau.
Tập đồn vỏ phân cách: giữa các tế bào liền kề nhau, do có cấu trúc
khác nhau nên chúng có thể nối với nhau thơng qua mặt vỏ.
Chuỗi: các tế bào nối với nhau liên tiếp tạo thành chuỗi dài nhờ vỏ
phân cách, các gai, các lông gai.
Dạng dải: các tế bào nối lại với nhau liên tiếp nhờ các mặt vỏ tiếp xúc
hoặc các gai ở viền mép mặt vỏ.
Dạng chuỗi bậc chồng nhau: các tế bào liền nhau nối với nhau bằng
cách một phần của tế bào này gối lên một phần của tế bào kia.
Dạng chữ chi (zigzag) hay hình sao: đầu mút của mỗi tế bào dính lại
với nhau theo kiểu zigzag hay hình sao nhờ các tấm chất nhầy.
Cấu trúc vỏ tảo:
Tảo Silic có cấu tạo gồm 2 mảnh vỏ lồng vào nhau tương tự như hộp
đĩa petri, nên khi quan sát tảo có thể thấy mặt đai (nhìn ngang) hoặc một vỏ
(nhìn từ trên xuống).
Ngồi các đặc điểm về hình dạng, kích thước (chiều dài, chiều rộng,
chiều cao) của tế bào tảo thì các cấu trúc và vi cấu trúc lỗ trên bề mặt của vỏ

13


tảo như hình dạng, số lượng, cách sắp xếp của chúng cũng phải được quan sát
để căn cứ vào đó mà định danh.

Tảo Silic trung tâm: hình dạng, số lượng, cách sắp xếp dải lỗ vân (đơn
lẻ hay thành nhóm) từ trung tâm đến viền mép của mặt vỏ; bề mặt vỏ (lồi,
lõm, phẳng, hình nón hay gợn sóng); số lượng, hình dạng các u lồi, lơng gai,
gai, mấu, chúng sắp xếp ở trung tâm hay viền mép mặt vỏ.
Tảo Silic lơng chim khơng rãnh: thường có dạng hình que, kích thước
rất nhỏ, đa số sống bám. Những đặc điểm này cần chú ý: hình dạng, cách liên
kết các tế bào, có hay khơng có rãnh giả, số lượng các dải vân, sự sắp xếp các
dải vân, các dải trơn chạy dọc theo mặt vỏ, đặc điểm phân bố các dải vân ở
trung tâm với vùng đầu của mặt vỏ.
Tảo Silic lơng chim có rãnh: rãnh hay khe có phía ngoài rộng và hẹp ở
giữa, chia mặt vỏ thành 2 phần bằng nhau hoặc có thể lệch sang bên, rãnh có
một u lồi ở trung tâm và kết thúc bởi 2 u lồi ở cực tế bào.
Ngoài ra, trong thực tế khi định danh còn phải sử dụng một số các đặc
điểm khác như: gần phía đầu mặt vỏ và hai bên mép mặt vỏ thắt lại rồi mở
rộng ra tạo thành hình đầu; đoạn kết thúc của rãnh ở trung tâm hoặc đầu mặt
vỏ có hình dạng như thế nào; quanh vùng trục có hay khơng có cấu trúc dạng
hạt; cấu trúc trơn dạng chữ H trên bề mặt vỏ; rãnh lệch tâm hay khơng lệch
tâm. Ở nhiều lồi tảo Silic trung tâm chỉ có thể định danh qua hình dạng và
cấu trúc của mặt đai; một số lồi tảo Silic lơng chim có cấu trúc vỏ khác nhau:
một vỏ có rãnh (thường là nắp dưới) và một vỏ khơng có rãnh.
1.3. Vai trị của một số yếu tố môi trường trong đời sống vi tảo
Trên bề mặt vỏ trái đất có khoảng 1,4 tỉ km3 nước, trong đó đất liền
chiếm khoảng 2,4%, đại dương chiếm khoảng 97,6% [10]. Như vậy, có thể
nói trên bề mặt vỏ trái đất hầu như là nước và nước là một trong những môi
trường sống của vi tảo, để tồn tại, sinh trưởng và phát triển thì vi tảo phải
thích nghi được các yếu tố có liên quan mật thiết với mơi trường.

14



Thực vật phù du có khả năng quang tự dưỡng nhờ nguồn năng lượng
ánh sáng mặt trời, mặt trăng và các sinh vật có khả năng phát sáng, trong đó
ánh sáng mặt trời là quan trọng nhất. Ánh sáng ảnh hưởng đến sự phân bố
theo chiều sâu của các loài tảo vì ở độ sâu khác nhau thi cường độ ánh sáng
cũng khác nhau, ánh sáng càng xuống sâu thì cường độ ánh sáng càng giảm
đến độ sâu nhất định thì ánh sáng tắt hẳn [19], do đó các lồi tảo khác nhau sẽ
hấp thụ ánh sáng có bước sóng khác nhau trong quá trình quang hợp. Tảo
Lam, tảo Lục chiếm ưu thế ở tầng mặt nước, tầng giữa là tảo Nâu, sâu hơn là
tảo Silic [9]. Theo Nguyễn Văn Tun (1998) tảo Silic có tính hướng quang
dương , tức là chúng có khả năng chuyển động về phía có ánh sáng [21].
Cũng như ánh sáng, nhiệt độ là một yếu tố có vai trị điều khiển nhịp
điệu cuộc sống của thủy sinh vật. Sự thay đổi nhiệt độ sẽ dẫn đến sự biến
động về số lượng vi tảo. Vào mùa xuân, khi nhiệt độ khoảng 18oC thì vi tảo
phát triển rất mạnh, nhất là tảo Silic, đến mùa hạ khi nhiệt độ tăng lên thì các
lồi tảo ưa lạnh, kể cả tảo Silic sẽ sinh trưởng chậm lại, lúc này tảo Lam và
tảo Lục sẽ phát triển mạnh. Đến mùa thu khi nhiệt độ hạ xuống thì tảo Silic lại
chiếm ưu thế trong thủy vực và phát triển mạnh lần thứ 2 [7].
Tất cả sinh vật đều cần ôxy cho q trình hơ hấp. Khi các sinh vật trên
cạn sử dụng ơxy trong khơng khí khoảng 21% thì thủy sinh vật phải dùng ơxy
ở dạng hịa tan trong nước (DO) với tỷ lệ thấp hơn nhiều. Theo Vũ Trung
Tạng (1997) thì nguồn cung cấp ơxy trong nước là từ khí quyển và q trình
quang hợp của thực vật. Sự hao hụt khí ơxy hịa tan trong nước là do q trình
hơ hấp của thủy sinh vật, do sự khuếch tán vào khí quyển và do sự ơxi hóa các
chất [16]. Mức bão hòa của DO khoảng 8 – 10 mgO2/ 1 lít nước, nhưng thực
tế DO chỉ đạt 70 – 80% so với mức bão hòa. Vào buổi trưa DO sẽ đạt cực đại
do cường độ ánh sáng cao nên q trình quang hợp mạnh làm tăng lượng ơxy
hịa tan trong nước. Vào ban đêm, DO ở mức cực tiểu, vi tảo tập trung nhiều
trên tầng mặt và giảm dần theo chiều sâu do lúc này ánh sáng rất yếu – chủ
yếu là ánh trăng [17].
15



Trong môi trường nước luôn chứa nhiều tạp chất, mùn, phù sa….làm
ảnh hưởng đến độ hấp thụ ánh sáng và phân bố của nhiều lồi sinh vật. Nếu
trong mơi trường nước có chứa nhiều tạp chất (nước đục) thì độ trong càng
giảm khi đó khả năng quang hợp của thực vật giảm, cịn ngược lại nếu mơi
trường nước có chứa ít tạp chất (nước trong) thì khả năng quang hợp tăng. Độ
trong của nước được đo bằng đĩa Secchi do nhà khoa học người Ý Shecchi đề
xuất [16].
Độ pH của nước cũng ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của sinh
vật phù du, ngoài ra độ pH cũng phải phụ thuộc vào mức độ hịa tan của các
muối khống, đặc biệt phụ thuộc vào sự biến đổi hàm lượng O2 và CO2.
Thơng thường nước biển có độ pH từ 8 – 8,4 [15].
Muối đạm NH+4, NO3- là sản phẩm của q trình amin hóa, deamin hóa
các chất hữu cơ hay do thủy sinh vật bài tiết. Nếu muối đạm hịa tan trong
mơi trường nước với lượng thích hợp thì hết sức cần thiết, nhưng khi muối
đạm hòa tan với số lượng lớn thì gây ức chế cho sự phát triển của tảo. Theo
Fogg (1952), vi tảo hấp thụ muối NH4+ nhanh hơn NO3-, vì vậy khi mơi
trường nước đồng thời có cả hai thì NH+4 sẽ được hấp thụ trước tiên. Kết quả
nghiên cứu của Guxeva (1952) cho thấy, nhu cầu về đạm không giống nhau ở
các ngành tảo. So với tảo Lục, tảo Lam, tảo Nâu thì tảo Silic có nhu cầu về
đạm là thấp hơn [7].
Phospho hịa tan trong môi trường nước dưới dạng phosphat hữu cơ là
chủ yếu và phosphat vô cơ. Nhưng thực vật phù du chỉ sử dụng được ở dạng
phosphat vô cơ và chủ yếu là muối phosphat PO3-4 với hàm lượng rất ít và hấp
thụ rất nhanh.
Ngoài các yếu tố ở trên, tảo Silic muốn tồn tại và phát triển cần phải có
silic – chủ yếu tồn tại dưới dạng muối SiO44- (vì 80% trọng lượng vỏ tảo Silic
được xây dựng từ những hợp chất chứa silic). Điều lý thú là hàm lượng SiO44trong các thủy vực trên phạm vi toàn cầu chênh lệch nhau khơng nhiều. Ví dụ,
ở biển Nhật Bản, hàm lượng SiO44- tối đa là 10,9 mg/l, còn ở hồ chứa nước

16


ngọt Kể Gỗ (Hà Tĩnh) hàm lượng trung bình là 11,7 mg/l [3]. Theo Guxeva
(1975), Ergashev (1981) thì sự phát triển của tảo Silic có mối quan hệ trực
tiếp, chặt chẽ với hàm lượng SiO44- trong thủy vực [theo 4]. Như vậy, mơi
trường nghèo silic thì sẽ ảnh hưởng xấu tới sự sinh tồn của tảo Silic.

17


CHƯƠNG II
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và địa điểm nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số chỉ tiêu thủy lý, thủy hóa và
thành phần lồi thuộc ngành tảo Silic (Bacillariophyta) ở một số đầm tôm tại
Tĩnh Gia – Thanh Hóa.
Địa điểm nghiên cứu:
Mẫu được thu tại 3 đầm tơm thuộc Tĩnh Gia – Thanh Hóa
Địa điểm 1: Đầm tôm 1: thu tại 3 điểm là ở giữa và 2 bên bờ đầm tôm.
Địa điểm 2: Đầm tôm 2: cũng thu tại 3 điểm ở giữa và 2 bên bờ đầm
tôm.
Địa điểm 3: Đầm tôm 3: thu tại 3 điểm giữa và 2 bên bờ đầm tôm.
Thời gian thu mẫu: Mẫu được tiến hành thu 2 đợt
Đợt 1: ngày 10/02/2011. Tại thời điểm này thời tiết khá lạnh (thời điểm
cuối đông).
Đợt 2: ngày 08/04/2011. Tại thời điểm này nhiệt độ trong ngày khá cao
(đầu mùa hè).
Cả 2 đợt thu mẫu đều thu vào buổi sáng, thời điểm từ 9h – 11h.

2.2. Phương pháp thu mẫu
2.2.1. Phương pháp thu mẫu nước
Mẫu nước được thu ở tầng mặt 0 – 20 cm cho vào chai nhựa PE 1,2 lit,
bảo quản ở 4oC để phân tích một số chỉ tiêu thủy hóa. Riêng đối với mẫu
nước để xác định ơxi hòa tan (DO) được thu riêng vào lọ thủy tinh nút mài
125ml và cố định ngay ở hiện trường.
2.2.2. Phương pháp thu mẫu tảo
Thu mẫu tảo định tính được thực hiện ngay nơi lấy mẫu nước bằng vợt
vớt thực vật nổi.

18


Dùng lưới vớt thực vật nổi N0 75, vợt qua vợt lại trên tầng mặt (từ mặt
nước sâu xuống khoảng 20 cm) khoảng 100 lần để thu mẫu. Các mẫu được cố
định ngay bằng formol 4%.
Mẫu tảo được bảo quản và phân tích tại phịng thí nghiệm của Bộ mơn
Thực vât, khoa Sinh học, trường Đại học Vinh. Tất cả các lọ mẫu đều được
ghi nhãn, đánh số đầy đủ và bảo quản cận thận.
2.3. Phương pháp phân tích
2.3.1. Phương pháp phân tích mẫu nước
Xác định tại chỗ độ trong của nước bằng đĩa Secchi, nhiệt độ khơng khí
và nhiệt độ nước được đo bằng nhiệt kế, độ mặn được đo bằng tỷ trọng kế và
độ pH được đo bằng bút đo pH.
Các mẫu nước thu về được bảo quản ở 4oC trong tủ lạnh và phân tích
trong 24 giờ tại phịng thí nghiệm Sinh lý – Hóa sinh của Trung tâm thí
nghiêm – thực hành trường Đại học Vinh. Cụ thể là:
Oxy hòa tan (Dissolved Oxygen: DO) được xác định bằng phương
pháp Winkler.
Nhu cầu ơxy hóa học COD (Chemical Oxygen Demand): được xác

định bằng phương pháp Permangannat.
2.3.2. Phương pháp phân tích mẫu tảo
Mẫu tảo Silic định tính được xử lý bằng phương pháp đốt mẫu trên bếp
điện 6 – 8h, sau đó các mẫu được cố định bằng Baume Canada và quan sát
bằng kính hiển vi điện tử có độ phóng đại 400 – 1000 lần. Mỗi loại đều được
đo kích thước bằng trắc vi, lập bản mơ tả và chụp ảnh hiển vi.
2.4. Phương pháp định loại tảo Silic
Để định loại các lồi tảo Silic, chúng tơi đã sử dụng khóa định loại của
M.M. Zabelina và cộng sự [27] và tài liệu tham khảo của Trương Ngọc An
[1]. Ngồi ra, chúng tơi cịn tham khảo thêm tài liệu nước của Carmelo R.
Tomas [23], Shirota A. [27]

19


2.5. Phương pháp phân tích định lượng tảo Silic
Xác định mức độ gặp theo quy ước (10 tiêu bản đối với mỗi mẫu thu).
Nếu một loài xuất hiện:
+ Ở 7 – 10 tiêu bản tức là từ 70 – 100%, loài gặp nhiều: +++
+ Ở 4 – 6 tiêu bản tức là từ 40 – 60%, lồi gặp trung bình: ++
+ Ở 1 – 3 tiêu bản tức là dưới 40%, lồi gặp ít: +

20


CHƯƠNG III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Một vài đặc điểm về địa hình nghiên cứu
Tĩnh Gia là một huyện đồng bằng ven biển thuộc tỉnh Thanh Hoá, trung
tâm huyện cách thành phố Thanh Hố 45 km về phía Nam theo quốc lộ 1A.

Tổng diện tích đất tự nhiên là 45.828,66 ha, dân số trung bình năm 2009 là
214.420 người, mật độ dân số 468 người/km2.
Huyện Tĩnh Gia nằm ở phía Đơng Nam tỉnh Thanh Hóa, phía Bắc giáp
huyện Quảng Xương (ranh giới là sơng Ghép), phía Tây giáp huyện Như
Thanh, Nơng Cống (ranh giới là sơng Thị Long), phía Nam giáp huyện Quỳnh
Lưu (Nghệ An), phía Đơng là biển.
Ở vào vị trí cực Nam của tỉnh Thanh Hóa, có rừng, có biển... Từ trong
hoàn cảnh tự nhiên ấy, để tồn tại và phát triển, nhân dân Tĩnh Gia với truyền
thống lao động cần cù, sáng tạo, giàu lòng yêu nước thương nòi đã hun đúc
nên những giá trị truyền thống cao quý. Cũng như bao miền quê khác của quê
hương Thanh Hóa, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, vùng Tĩnh Gia đã hình
thành tương đối ổn định và trở thành một trong những điểm tụ cư quan trọng
của người Việt cổ ở cực Nam Thanh Hóa.
Tĩnh Gia có tiềm năng về kinh tế. Với vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên
biển của Tĩnh Gia phong phú và đa dạng. Có khu kinh tế tổng hợp Nghi Sơn
một trong những trọng điểm kinh tế của tỉnh với thế mạnh là: dân số của khu
kinh tế Nghi Sơn là 80.590 người, trong đó dân số trong độ tuổi lao động
khoảng 43.598 người (chiếm 54,1% dân số khu vực). Đặc điểm lực lượng lao
động tại đây phần lớn là lao động trẻ, có trình độ văn hóa được phổ cập giáo
dục tốt nghiệp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông, có khả năng tiếp thu
khoa học kỹ thuật và đào tạo thành lao động có tay nghề cao.

21


Tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của huyện rất lớn. Trong những
năm qua cùng với sự lãnh đạo của Đảng bộ, Uỷ ban nhân dân huyện cùng với
sự đoàn kết của toàn thể nhân dân trong huyện Tĩnh Gia đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế và các hoạt động văn hoá, xã hội;
chính trị, an ninh được giữ vững. Tĩnh Gia đang phấn đấu trở thành một

huyện "trọng điểm về kinh tế của tỉnh".
Xã Xuân Lâm nằm ở phía nam trung tâm huyện Tĩnh Gia, cách trung
tâm huyện Tĩnh Gia 3,5 km. Ranh giới xã Xn Lâm: phía đơng giáp xã Hải
Bình và Bình Minh, phía tây và bắc giáp xã Ngun Bình, phía nam giáp xã
Trúc Lâm. Khoảng cách từ đường quốc lộ đến trung tâm xã là 0,2 km.
Khoảng cách từ thị tứ gần nhất đến trung tâm xã là 1 km. Diện tích tự nhiên là
985,79 ha. Chiều dài nhất là 3,3 km, chiều rộng nhất là 3 km.
Về thổ nhưỡng, đất đai thuộc loại đất thịt nhẹ và đất cát pha, phù hợp
cho cây lúa và rau màu phát triển. Về tài nguyên có mỏ cát trắng ở thôn 4,
thuộc khu vực Sa Thôn.
Về tài nguyên nước, xã Xn Lâm có nhiều sơng suối, hồ đập. Sơng
Đơn Xóc là con sơng chính chảy qua địa phận các xã Ngun Bình, Xn
Lâm đổ ra sơng Bạng. Sơng có hai nhánh, nhánh một chảy từ xã Nguyên Bình
theo hướng tây bắc - đông nam và đổ vào sông Bạng (từ cầu Hung, xã
Ngun Bình về cầu Đồi Ngồi), nhánh hai cũng bắt nguồn từ Nguyên Bình
(từ cầu suối Se Thôn đi qua cầu Đại Thuỷ (tức cầu Đồi Trong) đổ về sông
Bạng, tạo thành ba khu vực theo thế chân kiềng của ba làng Dự Quần (còn gọi
làng Dừa), Sa thơn (cịn gọi làng Se) và làng Vạn Xn (cịn gọi làng Vanh).
Sơng Bạng là đường ranh giới giữa hai xã Hải Bình và Xuân Lâm. Trên địa
phận làng Se có con suối Se. Có hai hồ tự nhiên là hồ Mã Trai thuộc Sa thôn 4
và hồ cầu Bến thuộc thơn Dự Quần I.
Phía tây xã, nơi giáp ranh ba xã Xuân Lâm, Nguyên Bình, Trúc Lâm,
núi Lâm Động kết thúc tại đây với đỉnh cao 183 m, đồi Thông thuộc thôn Sa

22


thơn 4. Với địa hình như trên thì Tĩnh Gia là huyện có tiềm năng phát triển
nghề ni tơm.
3.2. Kết quả phân tích một số chỉ tiêu thủy lý – thủy hóa của đầm tơm

Sau 2 đợt thu mẫu và phân tích các chỉ tiêu thủy lý, thủy hóa của 3 đầm
tôm ở xã Xuân Lâm – Tĩnh Gia, chúng tôi thu được kết quả như sau:
3.2.1. Một số chỉ tiêu thủy lý
3.2.1.1. Nhiệt độ
Trong các thủy vực, nhiệt độ nước phụ thuộc vào nhiệt độ khơng khí.
Thơng thường nhiệt độ nước (nhất là tầng nước mặt) có trị số gần với nhiệt độ
khơng khí. Nhiệt độ nước là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của thực
vật nổi. Ở trong khoảng nhiệt độ cực thuận thì chúng sinh trưởng và phát triển
tốt nhất.
Bảng 3.1: Nhiệt độ môi trường ở các địa điểm nghiên cứu
qua 2 đợt thu mẫu
Đầm 1
Chỉ
tiêu

Đầm 2

Đầm 3

Đợt I
Đợt II
Đợt I
Đợt II
Đợt I
Đợt II
Giữa Gần Giữa Gần Giữa Gần Giữa Gần Giữa Gần Giữa Gần
đầm bờ đầm bờ đầm bờ đầm bờ đầm bờ đầm bờ

Nhiệt
độ 23,00 24,00 33,00 34,00 23,00 23,50 33,00 33,50 24,00 22,50 34,00 32,50

khơng
khí
28,50
28,25
28,25
o
( C)
Nhiệt 22,50 22,00 32,00 32,50 22,00 22,00 32,00 32,00 22,00 22,50 32,50 32,00
độ
nước
27,25
27,00
27,25
(oC)
(Ghi chú: đợt 1: tháng 2/2012, đợt 2: tháng 4/2012)
Kết quả đo được qua các đợt thu mẫu tại các điểm nghiên cứu cho thấy:
nhiệt độ khơng khí chênh lệch nhau khá nhiều cịn nhiệt độ mơi trường nước
chệnh lệch nhau là ít. Nhiệt độ khơng khí ở đợt 1 tại các đầm tơm giao động
từ 22,5oC – 24oC, còn nhiệt độ nước giao động từ 22oC – 22,5oC.
23


Đến đợt 2, nhiệt độ khơng khí và nhiệt độ nước tăng lên nhiều so với
đợt 1 (do thời điểm này bước sang đầu mùa hè), nhiệt độ khơng khí tại các
đầm giao động từ 32,5oC – 34oC, còn nhiệt độ nước dao động từ 32 oC –
32,5oC (Bảng 3.1).
Giữa các đầm tơm trong 2 đợt thu mẫu có sự chệnh lệch về nhiệt độ là
do tại thời điểm thu mẫu có sự sai khác về thời gian trong ngày và thời tiết
giữa 2 đợt thu mẫu đối nghịch nhau. Nhìn vào bảng 1 ta thấy, trung bình nhiệt
độ của nước và khơng khí đợt 1 là thấp hơn nhiều so với đợt 2 vì thời gian

này là giai đoạn chuyển từ mùa đông sang mùa xuân nên nhiệt độ là thấp. Ở
đợt thu mẫu lần 2, lúc này thời tiết đã vào mùa nắng nóng nên thời gian chiếu
sáng trong ngày dài, khả năng hấp thu nhiệt của nước cũng cao làm cho nhiệt
độ nước và khơng khí tăng.
3.2.1.2.Độ trong
Độ trong thể hiện khả năng xâm thực của ánh sáng trong nước và chịu
ảnh hưởng của các chất cặn lơ lửng trong nước, thủy sinh vật…Do đó, độ
trong là một yếu tố rất quan trọng đối với sự phân bố theo chiều thẳng đứng
và biến đổi theo mùa của các thực vật nổi.
Nước là môi trường truyền ánh sáng, nó liên quan tới q trình quang
hợp của tảo. Nước càng trong, ánh sáng truyền xuống càng sâu tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình quang hợp của thủy sinh vật nói chung, vi tảo nói
riêng và ngược lại.
Bảng 3.2: Độ trong trung bình ở các địa điểm nghiên cứu
qua 2 đợt thu mẫu
Đầm 1
Chỉ
tiêu

Đầm 2

Đầm 3

Đợt I
Đợt II
Đợt I
Đợt II
Đợt I
Đợt II
Giữa Gần Giữa Gần Giữa Gần Giữa Gần Giữa Gần Giữa Gần

đầm bờ đầm bờ đầm bờ đầm bờ đầm bờ đầm bờ

Độ 75,00 55,00 74,00 54,00 70,00 50,00 68,00 48,00 80,00 50,00 78,00 50,00
trong
(cm)
64,50
59,00
64,50

24


Qua 2 đợt thu mẫu chúng tôi thấy rằng:
Hầu hết tại các điểm nghiên cứu có độ trong là cao do mực nước trong
các đầm tôm nằm trong khoảng 1 – 1,5 m. Ở đợt 1 có độ trong cao hơn so với
đợt 2 là do lúc này người nuôi chưa thả tơm, bón phân nên lượng chất hữu cơ
cũng như các chất lơ lửng thấp còn đợt 2 người ni đã thả tơm và bón phân.
Độ trong ở giữa đầm cũng cao hơn hẳn so với gần bờ là do nước sâu hơn và
lặng hơn.
Độ trong trung bình ở đợt 1 là 63,33 cm, ở đợt 2 là 62 cm.
3.2.1.3. Độ mặn
Độ mặn là một trong yếu tố quan trọng quyết định sự phân bố và phát
triển của vi tảo, đặc biệt là ở đầm tôm.
Bảng 3.3: Độ mặn trung bình ở các địa điểm nghiên cứu qua 2 đợt thu
mẫu
Đầm 1
Đầm 2
Đầm 3
Chỉ
Đợt I

Đợt II
Đợt I
Đợt II
Đợt I
Đợt II
tiêu Giữa Gần Giữa Gần Giữa Gần Giữa Gần Giữa Gần Giữa Gần
đầm bờ đầm bờ đầm bờ đầm bờ đầm bờ đầm bờ
Độ 3,90 4,00 4,90 5,10 3,70 4,20 4,70 5,20 3,80 4,30 4,80 5,30
mặn
(‰)
4,48
4,45
4,55
Qua các đợt thu mẫu ta thấy, độ mặn ở đợt 1 dao động từ 3,7 – 4,3 ‰,
ở đợt 2 dao động từ 4,7 – 5,3 ‰. Độ mặn trung bình tồn đợt 1 là 3,98 ‰ và
đợt 2 là 5 ‰. Như vậy độ mặn đợt 2 là cao hơn so với đợt 1 là do lúc này là
đầu hè nên rất ít mưa và tơm đã được thả cịn đợt 1 do thời tiết cuối xuân nên
lượng mưa đầm tôm nhận được là nhiều hơn nên chúng bị ngọt hóa đi, do vậy
mà độ mặn đợt 1 thấp hơn đợt 2.

25


×