Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Sự đổi mới tư duy nghệ thuật trong truyện ngắn nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.5 KB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SINH
KHOA NGỮ VĂN

ĐÀM THỊ THU HÀ

SỰ ĐỔI MỚI TƯ DUY NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH
CHÂU SAU 1975

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Người hướng dẫn: ThS.Ngô Thái Lễ
Sinh viên

: Đàm Thị Thu Hà

Lớp

: 49B1 – Ngữ văn

Vinh, 2012
1


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 4
2. Lịch sử vấn đề........................................................................................ 5
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 8


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 9
6. Cấu trúc của khóa luận ........................................................................ 10
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ SỰ ĐỔI MỚI TƯ DUY NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975.............. 11
1.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Minh Châu ........................................ 11
1.2. Hoàn cảnh xã hội Việt Nam sau 1975 với sự đổi mới tư duy nghệ
thuật ............................................................................................................ 14
1.3. Khái niệm tư duy nghệ thuật, tư duy sử thi và tư duy tiểu
thuyết ......................................................................................................... 16
1.3.1. Khái niệm tư duy nghệ thuật ....................................................... 16
1.3.2. Tư duy sử thi và tư duy tiểu thuyêt .............................................. 18
1.4. Bức tranh truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ..................................... 20
1.5. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 theo xu hướng đổi
mới .............................................................................................................. 26
Chương 2. SỰ ĐỔI MỚI TƯ DUY NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975 TRÊN PHƯƠNG DIỆN NỘI
DUNG ............................................................................................................. 29
2.1. Quan niệm về con người .................................................................... 29
2.1.1. Quan niệm về con người trước 1975........................................... 29
2.1.2. Quan niệm về con người sau 1975 .............................................. 32

2


2.2. Đề tài .................................................................................................... 36
2.2.1. Đề tài đời tư thế sự ....................................................................... 37
2.2.2. Đề tài đạo đức xã hội ................................................................... 40
2.3. Nhân vật .............................................................................................. 43
2.3.1 Nhân vật tư tưởng ......................................................................... 44

2.3.2. Nhân vật thế sự ............................................................................ 47
2.3.3. Nhân vật tính cách số phận ......................................................... 51
Chương 3. SỰ ĐỔI MỚI TƯ DUY NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975 TRÊN PHƯƠNG DIỆN
NGHỆ THUẬT .............................................................................................. 57
3.1 Bút pháp trần thuật ............................................................................ 57
3.1.1 Điểm nhìn trần thuật .................................................................... 58
3.1.1.1 Trần thuật thông qua nhân vật “người kể chuyện” ................ 59
3.1.1.2 Trần thuật theo ngôi thứ nhất ................................................. 60
3.1.1.3 Trần thuật khách thể ............................................................... 61
3.1.2 Nhịp điệu trần thuật ...................................................................... 63
3.2. Giọng điệu ........................................................................................... 65
3.3. Ngôn ngữ ............................................................................................. 68
3.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật-khai thác đời sống nội tâm ........... 70
3.5. Các hình thức khác ............................................................................ 71
3.5.1. Về cốt truyện trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn
Minh Châu ............................................................................................ 71
3.5.2 Tình huống truyện ........................................................................ 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 77

3


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn lớn của nền văn
học Việt Nam hiện đại nửa sau thế kỷ XX, là một cây bút trẻ, sung sức,
trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ và phát triển trong thời kỳ đổi mới.

Hành trình sáng tạo sau 1975. Ở giai đoạn sáng tác nào ông cũng thể hiện là
cây bút tài năng, tâm huyết, luôn trăn trở trong lao động sáng tạo nghệ thuật.
Những tác phẩm của ông là một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất của một quá
trình liên tục đổi mới thể hiện khả năng tự vượt mình để hướng đến sự sâu sắc
và hoàn thiện.
1.2. Sau chiến tranh, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Nền văn học
nước nhà lại đứng trước muôn vàn những vận hội và thử thách mới của thời
kỳ hậu chiến. Đời sống mới đòi hỏi phải có một nền văn học mới, đó là một
nền văn học vì cuộc sống con người. Nền văn học sử thi trước 1975 đến giai
đoạn này bắt đầu bộc lộ những yếu điểm, không đủ sức chuyển tải những vấn
đề bức xúc sau chiến tranh. Nhận thấy được điều đó, Nguyễn Minh Châu đã
âm thầm tự tìm hướng đi mới, tự đổi mới chính mình trên trang viết để tìm lại
cội nguồn đích thực cho một nền văn học đi vào ngõ hẻm đời sống tâm hồn
con người.
1.3. Nguyễn Minh Châu là người đi tiên phong trong bước đầu đổi mới
không phải bằng những tuyên ngôn ồn ào mà bằng những tác phẩm có giá trị,
đặt ra nhiều vấn đề cốt tử cho sự phát triển văn học. Giai đoạn trước 1975,
Nguyễn Minh Châu đã khẳng định được vị trí xứng đáng của mình trong nền
văn xi chống Mỹ. Nhưng sự nghiệp sáng tác của ơng nếu nói là đạt được
những thành công lớn trên bước đường nghệ thuật thì phải kể đến những sáng

4


tác sau 1975. Đó là những bước tiến về tư duy nghệ thuật, giúp ông trở thành
một cây bút tiên phong mở đường “tinh anh và tài năng” cho một thời đại văn
học mới. Chính vì vậy những sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu ln
địi hỏi những nhà nghiên cứu không ngừng khám phá vừa để khẳng định vị
thế nhà văn trên văn đàn, vừa để góp phần khẳng định những thành tựu mà
văn học Việt Nam đã đạt được trong quá trình chuyển mình và đổi mới.

1.4. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu nói chung, truyện ngắn sau
1975 nói riêng đã được đưa vào chương trình mơn Văn từ bậc Phổ thơng đến
bậc Đại học. Vì vậy, tìm hiểu đề tài “Sự đổi mới tư duy nghệ thuật trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975” sẽ góp phần thiết thực cho việc
nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thêm sâu sắc và
chất lượng cao.
2. Lịch sử vấn đề
Sáng tác Nguyễn Minh Châu đã được các nhà phê bình văn học để tâm
nghiên cứu từ lâu và càng về sau sự đánh giá về tác giả văn học này càng tỏ ra
thỏa đáng hơn. Điểm qua các cơng trình nghiên cứu chúng ta có thể thấy quá
trình nghiên cứu Nguyễn Minh Châu được diễn ra như sau:
2.1. Các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước 1975 như Cửa sơng,
Dấu chân người lính ngay từ khi ra đời đã được chào đón nồng nhiệt. Cắt
nghĩa sự thành công của Cửa sông, Phong Lê cho rằng: “tác giả của cuốn tiểu
thuyết này tỏ ra có khả năng khái qt hóa cuộc sống, biết chọn lựa những
tình huống, những tính cách điển hình”.
Cịn Tơn Phương Lan thì hướng sự chú ý của mình vào khả năng bao
quát hiện thực của tác phẩm. Nhận xét về Dấu chân người lính nhà nghiên
cứu này cho rằng: “Nguyễn Minh Châu đã cố gắng dựng lại khơng khí dữ dội
của chiến tranh”, “xây dựng nhiều nhân vật đẹp đẽ giàu chất lãng mạn”.

5


Một số nhà nghiên cứu văn học khác như Vương Trí Nhàn, Lại Ngun
Ân, Thiếu Mai… cũng có nhiều biến giải lý thú về giai đoạn sáng tác này của
Nguyễn Minh Châu. Điều gặp gỡ giữa các ý kiến này là từ chỗ nghiên cứu
khả năng nắm bắt một cách nhạy bén đời sống hiện thực của Nguyễn Minh
Châu đều nhận ra đây là một tài năng văn xuôi hứa hẹn.
2.2. Sau ngày giải phóng miền Nam, Nguyễn Minh Châu lần lượt cho

ra đời các tiểu thuyết Lửa từ những ngôi nhà, Những người đi từ trong
rừng ra. Những tác phẩm này được các nhà nghiên cứu phê bình văn học như
Nhị Ca, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Văn Long… đánh giá cao, các nhà nghiên
cứu văn học này cho rằng: Nguyễn Minh Châu khơng chịu dừng lại mà đã có
dấu hiệu tìm tịi đổi mới. Bên cạnh âm điệu trữ tình ngợi ca ngày nào là sự gia
tăng của “cái hàng ngày”, bên cạnh những người anh hùng đã xuất hiện
những nhân vật của đời thường. Về thực chất, những sáng tác của Nguyễn
Minh Châu giai đoạn này chưa hoàn tồn thốt khỏi tư duy nghệ thuật có từ
thời kỳ trước 1975. Nhưng rõ ràng, nó khơng cịn ngun “mơ đen” kiểu “sử
thi” mà đã có dấu hiệu của sự đổi khác. Điều này chứng tỏ Nguyễn Minh
Châu luôn trăn trở để tìm kiếm một lối đi riêng biệt đặng thể hiện một cách
chính xác hơn, chân thực hơn những vấn đề nóng bỏng của đời sống. Nếu coi
sáng tác Nguyễn Minh Châu được chia thành hai giai đoạn cụ thể thì những
sáng tác cuối thập kỷ bảy mươi, đầu thập kỷ tám mươi là một giai đoạn có
tính chất q độ. Để rồi sau đó ít lâu Nguyễn Minh Châu trở thành một trong
những nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học nước ta.
2.3. Dấu hiệu đầu tiên để tạo ra sự đổi mới là nhà văn nhận ra bi kịch
tự đánh mất mình. Trong thời đại mới, nhà văn không thể là người “bao cấp”
về tư tưởng. Với sự ra đời của ba tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành, Bến quê, Cỏ lau, Nguyễn Minh Châu trở nên “khác lạ” so với
những gì ơng có trước đây. Chính cái “khác lạ” đó tạo nên nhiều cách hiểu

6


khác nhau trong giới phê bình văn học. Thậm chí, có lúc các ý kiến đưa ra trái
ngược nhau: Triều Dương thấy “Nguyễn Minh châu bộc lộ một lối viết rối
răm, lan man” để người đọc không nắm được chủ đích, hoặc hiểu như thế nào
cũng được. Vũ Tú Nam coi việc xây dựng loại nhân vật cá biệt của Nguyễn
Minh Châu “có cảm giác giả giả, khơng vào được bạn đọc dễ dàng”. Đào Vũ

“băn khoăn khi đọc truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu”. Xuân Thiều “hoài
nghi về chúng”. Vương Trí Nhàn cho “sự phê phán một chiều là khơng thấu
lý đạt tình”. Cịn Hà Xn Trường thì kết luận “Truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu mới thành cơng một nửa”.
Ngồi một số ý kiến có phần dè dặt trên đây, có nhiều ý kiến đánh giá
cao ba tập truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. Những ý kiến này đều thống
nhất ghi nhận những đóng góp mới mẻ của Nguyễn Minh Châu trong lĩnh vực
truyện ngắn. Lại Nguyên Ân sau khi phân tích truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu đã chỉ ra cái mới của nhà văn này: “sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã
có chiều sâu mới mẻ nảy sinh trong sự đổi mới của các bình diện nhận thức
đời sống, mạnh dạn đi tìm cách thể hiện khác nhau làm phong phú khả năng
nghệ thuật của mình và của văn xi đang bước vào thời kỳ mới”. Trần Đình
Sử cho rằng: “Nguyễn Minh Châu là một hiện tượng đáng chú ý mở rộng
cách quan sát con người”. Nhà nghiên cứu văn học Xô Viết Niculin cũng
khẳng định: “Truyện ngắn bộc lộ những đặc tính của thể loại ưu việt, mở ra
cho văn học những đề tài và vấn đề mới của đời sống nhân dân những hình
tượng văn học mới”.
Trong công cuộc đổi mới văn học, một nhà văn tâm huyết như Nguyễn
Minh Châu ra đi là một tổn thất đối với tất cả chúng ta. Các bài viết tưởng
niệm ông đều khẳng định ông là: “một tài năng quan sát tinh tế độc đáo các
chi tiết đời sống”, “một nhà văn đang trăn trở đào xới những vấn đề sâu thẳm
vô cùng phức tạp của nhân phẩm và đạo đức con người”. Nhìn lại một cách

7


tổng quát quá trình sáng tác của nguyễn Minh Châu, Lã Nguyên đã đi đến kết
luận khá thỏa đáng: “truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu (…) mang đến cho
người đọc một quan niệm mới mẻ về con người và cuộc đời mà nền tảng của
nó là chiều sâu triết học và nhân bản”. Những truyện ngắn sau 1975 thực sự là

những truyện ngắn đặc sắc. Trong số đó, có nhà nghiên cứu văn học đã không
ngần ngại gọi: “Phiên chợ Giát” là một kiệt tác về số phận của người nơng
dân Việt Nam.
Phác thảo một cách sơ bộ q trình nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu
chúng ta có thể rút ra mấy kết luận sau:
Nhìn chung các ý kiến đánh giá cao quá trình sáng tạo nghệ thuật của
Nguyễn Minh Châu. Các nhà nghiên cứu và phê bình văn học đã cố gắng tìm
ra những vấn đề cốt lõi nhất đã làm nên thế giới nghệ thuật Nguyễn Minh
Châu, cắt nghĩa sự thành công và những mặt hạn chế trong văn phẩm của ông.
Về vấn đề sự đổi mới tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu đã
được một số nhà nghiên cứu văn học như Trần Đình Sử, Lã Nguyên,… đề cập
tới và có những kiến giải khá lý thú. Nhưng vì lý do thời gian, những bài viết
trên chưa có điều kiện chứng minh cho các luận điểm của mình. Trong bài
Khóa luận này người viết có ý định khảo sát một cách cụ thể những sáng tác
sau 1975 của Nguyễn Minh Châu và trong khả năng của mình, chứng minh
rằng chính sự đổi mới về tư duy nghệ thuật là yếu tố cốt tử để đưa Nguyễn
Minh Châu trở thành một trong những nhà văn mở đầu cho bản giao hưởng
đổi mới trong một thời kỳ lịch sử mới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đặt truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong bối cảnh chung của
truyện ngắn Việt Nam sau 1975, để từ đó thấy được vai trị, vị trí và những

8


đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 trong tiến trình đổi
mới văn học sau 1975.
3.2. Khảo sát, phân tích sự đổi mới tư duy nghệ thuật trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 trên các phương diện: đổi mới về nội dung
và nghệ thuật.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đúng như tên gọi, đối tượng nghiên cứu của khóa luận là “Đổi mới tư
duy nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975”.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do mục đích nghiên cứu quy định, đề tài tập trung khảo sát toàn bộ
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 được in trong “Tuyển tập truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu”, nhà xuất bản Văn học Hà Nội, 2006. Trong q
trình tìm hiểu, chúng tơi có đối chiếu thêm một số truyện ngắn và tiểu thuyết
trước 1975 của Nguyễn Minh Châu để từ đó thấy được quá trình vân động và
đổi mới tư duy nghệ thuật của ơng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu đề tài “Đổi mới tư duy nghệ thuật trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975”, chúng tôi vận dụng một số
phương pháp sau:
- Phương pháp tiếp cận, hệ thống.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.

9


6. Cấu trúc của khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, khóa luận được
triển khai trong 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về sự đổi mới tư duy nghệ thuật trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975.
Chương 2. Sự đổi mới tư duy nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu sau 1975 trên phương diện nội dung
Chương 3. Sự đổi mới tư duy nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn

Minh Châu sau 1975 trên phương diện nghệ thuật

10


Chương 1.
TỔNG QUAN VỀ SỰ ĐỔI MỚI TƯ DUY NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975

1.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu sinh ngày 20/10/1930, tại làng Thơi, xã Quỳnh
Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ơng trưởng thành trong một gia đình
nghèo. Cha có chút học hành, mẹ làm việc đồng áng nhưng rất giàu lịng vị
tha và tình u thương đối với các con.
Là nhà văn mặc áo lính, Nguyễn Minh Châu ý thức hết sức sâu sắc về
sứ mệnh thiêng liêng của người cầm bút trong giai đoạn khốc liệt nhất của
cuộc chiến. Tâm niệm sáng tác trở thành cháy bỏng trong ơng lúc này là
hướng đến cuộc “đấu tranh vì quyền sống của cả dân tộc”, do vậy nhà văn đã
dành gần nửa cuộc đời để say sưa ngợi ca, mê mải khám phá vẻ đẹp lung linh,
kỳ ảo của cuộc sống và tâm hồn con người trong chiến tranh vệ quốc. Đó là
những con người ngập tràn tình cảm lãng mạn, trẻ trung tươi tắn như Lãm,
Nguyệt (trong Mảnh trăng cuối rừng), cô gái mang “niềm tin mãnh liệt vào
cuộc sống”, niềm tin ấy “như sợi chỉ xanh óng ánh, bao nhiêu bom đạn giội
xuống, cũng không hề đứt, khơng thể nào tàn phá nổi”. Đó là Kinh, Lữ, Khuê,
Cận, Lượng v.v... (trong Dấu chân người lính) - những viên ngọc, sáng đẹp
một cách rực rỡ, khơng có tỳ vết. Khó có thể tìm thấy một khiếm khuyết trong
phẩm chất của họ. “Từ giã gia đình, trường học, từ giã cuộc sống tương lai
đẹp đẽ hết sức bảo đảm bắt đầu dựng cho họ, từ bỏ trái hạnh phúc đang ửng
hồng trong vườn nhà để đi vào cuộc chiến đấu đầy vất vả, hy sinh khá là vô
tư, lạc quan tươi trẻ”, đó là những gì Nguyễn Minh Châu nói về họ. Đúng

như, nhà phê bình N.I.Niculin trong bài viết Nguyễn Minh Châu và sáng tác

11


của anh nhận xét: niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp tinh thần,
cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ, anh đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của
mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu khơng khí vơ trùng…”
Tuy nhiên, khi khẳng định cái đẹp, chất thơ của đời sống Nguyễn Minh
Châu đã khơng thi vị hóa nó, khơng nhìn cuộc sống một chiều, dễ dãi. Ông
hiểu ra rằng, bao giờ cũng vậy “cuộc đấu tranh giữa ánh sáng và bóng tối,
giữa cái thiện và cái ác, giữa nhân bản và phi nhân là cuộc đấu tranh vĩnh
viễn, chất anh hùng ca và chất bi kịch của cuộc đời đi liền nhau. Con người đã
dũng cảm kiên cường biết bao trong cuộc đấu tranh đó. Nhưng nhìn kỹ lại,
mơ ước vẫn xa vời, và dường như cái xấu xa, ác độc không mất đi mà chỉ
thay hình đổi dạng để tiếp tục hồnh hành”. Đất nước đã hịa bình, từ giã cuộc
sống đầy bất trắc với những cách khu xử bất thường của thời chiến, con người
trở về với cái “bản chất người thực sự như nó vốn có”, do vậy văn chương để
phụng sự được con người cũng cần phải khác. Và vì thế ý thức hướng tới một
thứ văn chương sâu xa hơn đã trở thành một nhu cầu hết sức bức xúc trong
ông. Với tiểu luận “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh
họa”, Nguyễn Minh Châu đã tự chia đời văn của mình ra làm hai: chặng
đường minh họa và chặng đường đoạn tuyệt với lối minh họa. Qua dằn vặt rồi
quyết tâm nhà văn đã chọn cho mình hướng đi: lấy con người làm đối tượng
khảo sát thay cho hiện thực đời sống. Do đó, sáng tác của ơng càng về sau
càng có vẻ như là minh chứng xác thực cho qui luật thuộc về bản chất văn học
“trước sau gì con người cũng trèo lên các sự kiện để đòi quyền sống”. Tự tìm
đường đi cho nghệ thuật, khám phá, đào sâu vào bản chất con người với ơng
đó cũng là con đường đến với những giá trị vĩnh hằng. Không phủ nhận việc
văn chương phải quan tâm đến cái chung, cái cộng đồng nhưng theo Nguyễn

Minh Châu văn chương còn phải là câu chuyện của mỗi người.

12


Nguyễn Minh Châu - ngòi bút tiêu biểu của thời kỳ văn học đổi mới người mở đường đầy tài hoa và tinh anh (Nguyên Ngọc). Với một loạt các bài
phê bình, tiểu luận… cùng những tác phẩm khơng chỉ minh họa xuất sắc cho
bước chuyển âm thầm mà quyết liệt trong quan niệm sáng tác mà còn đạt tới
sự hoàn thiện nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu đã tạo cho mình một vị trí
khơng thể thay thế trong giai đoạn quá độ của văn học trước và sau 1975, trở
thành một nhà văn đặt nền móng tồn diện và sâu sắc cho sự đổi mới cả về
quan niệm nghệ thuật lẫn phương thức biểu đạt.
Bức tranh không phải là kiệt tác của Nguyễn Minh Châu nhưng đó là
truyện ngắn đánh mốc cho hành trình sáng tạo văn học, dự báo một quan
niệm, một mơ hình, một bút pháp hồn tồn mới. Trong Bức tranh, con người
lý tưởng biến mất, thay vào đó là con người đa nhân cách: có cả tốt đẹp lẫn
đớn hèn. Từ những dằn vặt, đối chứng của nhân vật người họa sỹ, câu hỏi lớn
- nhức nhối đặt ra cần được trả lời ngay trong tác phẩm là chúng ta có thể vì
vinh quang của cộng đồng dân tộc mà bỏ qua số phận cá nhân khơng?! Rõ
ràng ở đây, cái nhìn của nhà văn đã thay đổi theo hướng tiến dần đến sự thực
hơn. Chiến tranh khơng chỉ mang ánh hào quang mà cịn có cả mất mát, đớn
đau, giả dối; Chiến tranh còn làm “cho người ta hư đi hơn là tốt làm người ta
tốt hơn”; con người cũng khơng cịn lấp lánh vẻ đẹp thiên thần mà hội tụ cả
những ham muốn tầm thường, thấp hèn…
Hàng loạt những thể nghiệm sau Bức tranh như các truyện ngắn Người
đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa, Một lần đối
chứng, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát, đến Cỏ lau đã khẳng định chắn
chắc thêm về cách tiếp cận hiện thực nhìn từ góc độ con người ỏ Nguyễn
Minh Châu, “nhờ quan tâm đến con người mà ơng nhìn đâu cũng ra truyện
ngắn,… đã tạo dựng được một phong cách trần thuật có chiều sâu”. Nếu ở

giai đoạn văn học trước, con người là phương tiện biểu đạt lịch sử thì lúc này

13


ở nhà văn lịch sử lại trở thành phương tiện để biểu đạt con người. Trên cơ sở
đổi mới quan niệm nghệ thuật ấy, Nguyễn Minh Châu đã nhìn sâu vào tâm
thức con người để phát hiện những khao khát riêng tư, sự xung đột kỳ vọng
giữa họ và thực tế khách quan…
Nguyễn Minh Châu là người mở đường xuất sắc cho văn học Việt Nam
thời kỳ đổi mới. Nói như Nguyễn Khải, sau này đã có người đứng trên vai
ơng để mà to lớn hơn nhưng vị trí tiên phong và những cống hiến có tính chất
khai phá của ông là không thể phủ nhận. Tìm ra hướng đi mới cho văn học cả
trên bình diện nội dung phản ánh lẫn bút pháp thể hiện nhà văn đã công khai
với bạn đọc một cách viết mới: hiện đại mà vẫn đậm đà truyền thống. Ông đã
đi được một chặng đường xa, dù nhọc nhằn nhưng thật nhiều ý nghĩa. Từ
Nguyễn Minh Châu vấn đề con người với số phận riêng cùng vô vàn trăn trở
âu lo đã được văn học quan tâm khai thác ở cách nhìn mới. Hình như ơng tự
mình bức phá và giúp một thế hệ nhà văn dám “bước qua lời nguyền”, từ giã
“cái thời lãng mạn” để đến với một thứ văn chương chân thành hơn. Ở đó con
người được sống thật, khơng phải cố tỏ ra “trùng khít với chính mình, với bộ
áo xã hội của nó một cách đau đớn, giả dối” (Bakhtin).
Nguyễn Minh Châu mất ngày 23/01/1989, tại Bệnh viện Quân y 108,
Hà Nội.
1.2. Hoàn cảnh xã hội Việt Nam sau 1975 với sự đổi mới tư duy
nghệ thuật
Ba mươi năm, cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc Việt Nam đã kết
thúc bằng mốc son chói lọi: đại thắng mùa xuân năm 1975. Sự kiện trọng đại
này đã mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên, với một đất nước nhỏ bé để giành được thắng lợi qua

hai cuộc kháng chiến chống đế quốc.Chúng ta đã phải dồn tất cả cho cuộc
kháng chiến.Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm đầu hịa bình

14


khơng phải dễ dàng gì. Nhất là với một đất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh
với bao thương tích nặng nề. Đó khơng chỉ là những thiệt thịi về vật chất mà
cịn hao tổn lớn về sức người, khó có thể bù đắp được trong một thời gian
ngắn. Con đường chúng ta đi không phải là con đường bằng phẳng mà chơng
gai, gập ghềnh, trải qua khơng ít những khó khăn, “vấp váp và trả giá”
(Nguyên Ngọc). Khi vết thương chiến tranh còn chưa lành, chúng ta lại phải
gồng mình bước vào cuộc kiến thiết thời hậu chiến với mn vàn khó khăn và
thử thách. Nền kinh tế sau chiến tranh bị khủng hoảng, trầm trọng. Các mặt
phải, mặt trái, cái phi đạo đức, phi nhân cách hằng ngày vẫn len lỏi trong tất
cả mọi ngõ nghách của đời sống. Mâu thuẫn giai cấp, các tầng lớp xã hội ngày
càng nổi rõ khó bề được giải quyết. Tâm lý con người hoang mang lo lắng khi
đối diện với những biến động và khủng hoảng xã hội. Đó là mơi trường thích
hợp cho những tiêu cực có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Đối với đất nước là
“ngổn ngang bao vấn đề, xóa bỏ khoảng cách cịn lại, từ tư tưởng, lối sống cũ,
hàn gắn vết thương chiến tranh và bước vào xây dựng đời sống mới”. Song
“cái mảnh đất bao lớp người liên tiếp đổ xương máu giành được độc lập, xưa
nay đất dưới chân người thắng giặc có bao giờ nở sẵn đầy hoa” (Nguyễn
Minh Châu). Khó khăn lớn của một đất nước vừa mới được giải phóng như là
một lời thách thức, “như một thứ chiến trường mới lập tức mở ra trên vùng
chiến trường cũ”, đòi hỏi con người phải đầy đủ nghị lực và trí tuệ mới vượt
qua được. Đúng như Nguyễn Minh Châu đã từng đề cập đến trên tiểu thuyết
Miền Cháy: “Bước ra khỏi cuộc chiến tranh cũng cần phải có đầy đủ nghị lực
như bước vào một cuộc chiến tranh”.
Sau 1975, cũng là giai đoạn mà những dư âm của cái cao cả, của anh

hùng ca và cái ta cộng đồng bắt đầu bộc lộ những bất ổn và đổi thay. Nếu
trước chiến tranh, mọi quan hệ của con người đều được đặt trong mối quan hệ
cao nhất đó là tình yêu tổ quốc, thì sau chiến tranh con người phải đối diện

15


với những mối quan hệ xã hội phức tạp. Nguyễn Minh Châu đã từng nói
“cuộc đời đa sự, con người đa đoan”. Con người trong cuộc sống họ nhỏ bé,
bon chen, ganh đua, chà đạp lẫn nhau, “sống ích kỷ và nhỏ nhên chỉ biết
quyền lợi cho riêng mình”. Bên cạnh đó, mối quan hệ của con người đều bị
cân, đo, đong, đếm bởi các nhu cầu về vật chất.
Nếu trong chiến tranh con người luôn phải đối diện với bom đạn, luôn
phải thấp thỏm trong mong manh của sự sống và cái chết, giữa anh dũng và
hèn nhát, thì trong thời bình, dù khơng cịn cái ác liệt của chiến tranh nhưng
hiện thực cuộc sống cũng không đơn giản một tí nào. Vì vậy, con người trong
xã hội ln phải cố tìm kiếm cho mình một điểm tựa vừa để khỏi tự đánh mất
mình, nhưng mặt khác con người cũng bị cuốn hút bởi những phức tạp và tiêu
cực của đời thường. Hiện thực cuộc sống sau chiến tranh và diễn biến tâm lý
phức tạp của con người đòi hỏi các lĩnh vực xã hội phải có một cơ chế quản lý
thích hợp. Đối với văn học, người nghệ sĩ phải nhìn nhận lại mọi vấn đề đa
dạng, phức tạp của cuộc sống. Nghệ sĩ là con mắt, lỗ tai của xã hội, bằng thực
tế của đời sống văn học phải phản ánh đúng bản chất của hiện thực, phải nói
thẳng, nói thật mới mong đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của người đọc. Bởi hơn
bao giờ hết “tầm quan trọng của thị hiếu người đọc là cái nôi cho tác phẩm
thế này hoặc thế khác ra đời và sống được”.
1.3. Khái niệm tư duy nghệ thuật, tư duy sử thi và tư duy
tiểu thuyết
1.3.1. Khái niệm tư duy nghệ thuật
Để phát hiện ra chân lý của đời sống, trong lĩnh vực văn học nghệ thuật

hình thành một kiểu tư duy có tính chất đặc thù - tư duy nghệ thuật.
Khác với loại tư duy hành động - trực quan và tư duy khái niệm lôgic,
tư duy nghệ thuật có cơ sở là tư duy hình tượng cảm tính hoặc tư duy này cho

16


phép nghệ sĩ cùng một lúc vừa phát hiện khách thể vừa bộc lộ nỗi lòng, tâm
trạng của chủ thể sáng tạo. Đặc điểm của loại tư duy này là sự tái hiện từ xa,
tách khỏi khách thể bởi thế tư duy nghệ thuật có thể sử dụng hư cấu tưởng
tượng để hình thành những hình tượng nghệ thuật có tầm khái quát lớn lao có
sự tác động mãnh liệt đến độc giả. Chính vì thế Bêlinxki đã phân biệt: “để tác
động đến trí tuệ của người nghe và người đọc nhà kinh tế chính trị thì “chứng
minh” bằng các số liệu, cịn nhà thơ thì lại “trình bày” hiện thực như nó vốn
có. Khơng phải ngẫu nhiên mà từ Hêghen cho đến Plêkhanôp, Gorki đều nhấn
mạnh tư duy nghệ thuật là tư duy hình tượng. Dĩ nhiên tư duy nghệ thuật có
những đặc trưng khác biệt so với tư duy hình tượng cảm tính. Thơng thường
chính tư duy nghệ thuật đã giúp cho nghệ sĩ có một quan niệm nghệ thuật
riêng biệt về thế giới. Nói khác đi “trong nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật là
giới hạn thực tế của tư duy nghệ thuật. Nó tương tự như một khí quyển
(Mosphere) của hoạt động con người. Như vậy, quan niệm nghệ thuật tạo ra
khả năng lĩnh hội hiện thực đời sống triệt để, sâu sắc trong sự đa dạng phức
tạp của chúng. Cho nên trong thực tiễn, sáng tạo nghệ thuật khơng phải nhà
văn nào cũng có thể tạo ra một thứ tư tưởng cho riêng mình. Trên thực tế
những nhà văn lớn cũng là những nhà tư tưởng. Sáng tác của họ không thể
đơn thuần dùng lại nguyên si cuộc sống mà họ phải tìm ra bản chất và quy
luật vận động của hiện thực khách quan. Mặt khác, nghệ thuật bao giờ cũng là
tiếng nói của tình cảm. Trong một lần phát biểu về thơ, nhà thơ Tố Hữu đã
viết rằng: “thơ là sự thể hiện hồn nhiên của con người trước đất trời và tạo
vật”. Có thể nói cảm hứng chủ đạo của nghệ sĩ là một trong những yếu tố tiên

quyết làm nên giá trị của tác phẩm. “Trong tư duy nghệ thuật, xúc cảm là hiện
tượng xã hội lịch sử, tất yếu, vững bền và có ý nghĩa đối với mọi người”. Cội
nguồn của cảm xúc trong văn nghệ là ước mơ lý tưởng, nó đưa người đọc
vượt lên cao hơn tình cảm hàng ngày “tình cảm và lý tưởng xã hội làm cho tư

17


duy hình tượng cảm tính trong nghệ thuật mang phẩm chất khác. Đó là tính
biểu hiện, tức là khả năng biểu hiện nội dung bên trong của các hiện tượng
hiện thực như tình cảm, ý nghĩ, trạng thái tâm lý, bản chất của sự kiện, sự
vật”. Như vậy, quan niệm nghệ thuật được thể hiện một cách rõ nét trong cảm
hứng sáng tạo, trong quá trình nghệ sĩ chiêm nghiệm phát hiện ra chân lý của
đối tượng.
Tất nhiên ý đồ sáng tạo của nhà văn bao giờ cũng được thông qua
một hình thức nghệ thuật tương ứng. Rất dễ nhận thấy quá trình thể
nghiệm cũng như sự tham gia ứng cứu của trực giác, khả năng hư cấu
trong tư duy nghệ thuật.
1.3.2. Tư duy sử thi và tư duy tiểu thuyêt
Trước năm 1975, khi cả nước còn đấu tranh chống kẻ thù xâm lược thì
văn xi Việt Nam (vũ khí đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc) vẫn chiếm ưu
thế là văn xuôi sử thi. Các nhà văn đều dùng ngịi bút của mình để tơ đậm
hình tượng tổ quốc, hình tượng tập thể, hình tượng người nơng dân hiện lên
rực rỡ, chói lọi trong văn học.
Từ sự ngợi ca dẫn đến cái nhìn của tác giả với đối tượng cũng khá xa.
Đối tượng mà nhà văn ca ngợi ln ở vị trí cao nhất, nhà văn thường đứng ở
vị trí thấp nhất nhìn lên. Vì thế mà đối tượng luôn được ca ngợi hết mực. Và
trong thời chiến như vậy thì đối tượng mà các nhà văn quan tâm là những
người lính, về Đảng, về tổ quốc… Tư duy sử thi chiếm ưu thế chi phối ngòi
bút của nhà văn. Họ tập trung ca ngợi những anh hùng, nói đến những chiến

cơng mà dân tộc ta đạt được, hạn chế nói đến sự hi sinh mất mát.
Sau 1975, hiện thực đất nước ta bước sang một thời kỳ mới - thời
kỳ chiến tranh chuyển sang hịa bình. Song song với hiện thực của đất
nước thì văn học cũng có sự đổi mới. Trong văn xi có sự đổi mới trên

18


bình diện tư duy nghệ thuật, đặc biệt là chuyển dần từ tư duy sử thi sang
tư duy tiểu thuyết. Sự đối lập giữa tư duy sử thi và tư duy tiểu thuyết về
mặt đặc trưng thể loại khơng có ý nghĩa phân biệt thang bậc giá trị. Có
những đề tài có khi tiếp cận bằng tư duy sử thi lại mang giá trị hơn tư duy
tiểu thuyết và ngược lại.
Thật ra, tư duy tiểu thuyết khơng phải khơng có trong văn xuôi giai
đoạn trước. Trong 1930-1945 mà biểu hiện rõ nhất là trong văn xuôi hiện thực
phê phán, tư duy tiểu thuyết đã chiếm một vị trí đáng kể. Nhưng văn học cách
mạng 1945-1975 do đề cập đến những vấn đề lớn lao của dân tộc của cách
mạng nên tư duy sử thi chiếm ưu thế. Đúng như Hoàng Ngọc Hiến nhận xét:
“Trong văn xuôi ta, tư duy tiểu thuyết thảng hoặc bộc lộ một số tác phẩm đơn
lẻ Cha và con (Nguyễn Khải), Thời xa vắng (Lê Lựu). Phải đến sau 1975 và
nhất là từ thập niên 80 tư duy nghệ thuật mới chuyển dần từng bước từ tư duy
sử thi sang tư duy tiểu thuyết. Các tác phẩm: Tâm tưởng (Bùi Hiển), Sống
với thời gian hai chiều (Vũ Tú Nam) đã có sự tiếp cận khác trước. Ở đây
khơng chỉ ngợi ca khâm phục mà cịn là sự phân tích, lý giải các hiện tượng
của hiện thực. Nếu trước đây chủ yếu là cái nhìn đơn diện, rạch rịi thiện-ác,
thấp hèn-cao cả, địch-ta,… thì bây giờ là cách nhìn nhiều chiều hơn, đa diện
hơn, phức tạp hơn. Đến Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu và nhất là
ở lớp nhà văn trẻ sau 1975 cách nhìn tiểu thuyết mới thật sự chiếm vị trí chủ
yếu và trở nên có sức thuyết phục trong việc nắm bắt và lý giải hiện thực.
Trong Bức tranh, tính nhiều chiều ở cách nhìn hiện thực đã làm cho

truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trở nên có chiều sâu, đậm chất triết lí.
Nhà văn Ngun Ngọc đã có một cảm nhận đúng khi cho rằng: “Một số
truyện ngắn hiện nay như Phiên chợ Giát (Nguyễn Minh Châu), Bước qua
lời nguyền (Tạ Duy Anh), truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp chẳng hạn, lại
có tính chất tiểu thuyết hơn cả những sách có ghi là tiểu thuyết hẳn hoi.

19


Sự đổi mới về tư duy chuyển dần từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu
thuyết thì văn xi nói chung và truyện ngắn sau 1975 nói riêng đã hồn
thành tốt nhiệm vụ của mình và đạt được những thành tựu to lớn ghi nhận sự
phát triển của văn xuôi Việt Nam trên diễn đàn văn học Thế giới.
1.4. Bức tranh truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Trong điều kiện thuận lợi, đời sống xã hội bước sang “Một thời kỳ
khác” (Nguyễn Kiên), thời kỳ mà mỗi con người tìm lại được ý nghĩa đích
thực cho cuộc sống của mình. Đó là sự tự do trong sinh hoạt, trong tất cả các
mối quan hệ xã hội. Đối với văn nghệ sĩ, văn học thời kỳ này khơng cịn phải
chun tâm sáng tác vì mục đích phục vụ kháng chiến nữa mà họ được tự do
trong sáng tạo, tự do trong việc lựa chọn đề tài, chủ đề, cách viết… Càng về
sau tinh thần “cởi trói” cho đội ngũ sáng tác càng được thể hiện một cách triệt
để. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến bước phát
triển mới cho văn học sau 1975.
Nếu trước 1975 để tái hiện một khung cảnh hùng tráng với cuộc chiến
đấu anh dũng của nhân dân ta, các nhà văn thường tìm đến với những tiểu
thuyết. Bởi nó là một thể loại tự sự cỡ lớn, có khả năng ơm trùm nhiều sự
kiện, chi tiết. Với những cuốn tiểu thuyết dài như Cửa sơng (1966), Dấu
chân người lính (1972) của Nguyễn Minh Châu có thể dễ dàng miêu tả
khơng khí hào hùng của dân tộc. Cịn truyện ngắn nó chỉ là một lát cắt của đời
sống, khó khăn hơn cho việc dung nạp nhiều sự kiện, nhiều chi tiết. Nhưng

cần phải khẳng định rằng: Truyện ngắn với ưu thế của thể loại, “Nó tự hàm
chứa những cái thi vị, những điều sâu sắc trong một hình thức nhỏ gọn và
truyền dẫn cực nhanh thông tin mới mẻ. Đây là thể loại văn học có nội khí,
một lời mà thiên cổ, một gợi mà trăm suy”. Do đó, truyện ngắn là thể loại gặt
hái được nhiều thành công ở giai đoạn này. Càng về sau truyện ngắn càng
phát triển mạnh hơn với sự xuất hiện của nhiều cây bút trẻ bên cạnh những

20


cây bút trưởng thành trong kháng chiến như: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Kiên, Nguyễn Khải, Xuân Thiều,…
Chỉ trong vòng 10 năm đầu sau chiến tranh (1975-1985) truyện ngắn đã
có những bước đi mới. Truyện ngắn sau 1975 đã có sự phát triển mạnh mẽ cả
về số lượng lẫn chất lượng với đội ngũ sáng tác ưa tìm tịi và khám phá. Thời
kỳ này âm hưởng anh hùng ca với những dư âm chiến thắng vẫn còn vang
vọng trong các tác phẩm. Nhưng nhìn chung truyện ngắn sau 1975 đã có sự
chuyển biến mạnh mẽ trong việc khai thác tư tưởng, chủ đề mới và sự tìm tịi
sáng tạo với phong cách thể hiện mới.
Hiện tượng đáng chú ý nhất trong 10 năm này là Nguyễn Minh Châu
với 2 tập truyện ngắn xuất sắc Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành
(1983), Bến quê (1985). Báo văn nghệ đã tổ chức một cuộc hội thảo luận về
truyện ngắn của ông. Các ý kiến khen chê phong phú và trái chiều nhau
nhưng thống nhất ở một điểm-khẳng định sự tìm tịi và đóng góp của nhà văn
để đổi mới văn học, để tạo ra chất lượng cao của truyện ngắn. Giai đoạn này
có những tác giả viết khỏe trong vòng 10 năm in 5 tập truyện như Dương Thu
Hương, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Minh Khuê.
Truyện ngắn ra đời đầu tiên sau 1975 là Hai người trở lại trung đoàn
(1976) của nhà văn Thái Bá Lợi. Truyện ngắn này đã từ bỏ lối nhìn đơn giản
về con người, tác giả đã mạnh dạn trình bày tính cách phức tạp của con người

đương thời và đã được thử thách qua chiến tranh đang chuẩn bị hành trang
cho mình bước vào cuộc sống đời thường. Con người được phát hiện trên
bình diện đạo đức, được tìm hiểu trên tiến trình hình thành nhân cách mới.
Sau 1975 là giai đoạn chuyển tiếp từ nền văn học cách mạng sang
văn học thời kỳ hậu chiến. Do vậy, ở thời kỳ này một số nhà văn vẫn theo
đà quán tính cũ, vẫn viết về đề tài chiến tranh và khuynh hướng sử thi vẫn
nổi trội trong những năm đầu sau chiến tranh. Mặc dù vẫn có những bước

21


tìm tịi phát triển mới, song mạch cảm hứng trữ tình sử thi vẫn tiếp tục
dịng chảy mạnh mẽ cùng với xu hướng nhận thức lại chiến tranh và số
phận con người. Thời kỳ này vẫn có sự phát triển của một loạt trường ca, là
bản tổng kết của một thế hệ “dàn hàng ngang gánh đất nước trên vai”, là
những bài ca “thô sơ” và “hực sáng” gửi tới ngày mai. Đó là các tác phẩm:
Những người tới biển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của Hữu
Thỉnh, Sư đồn của Nguyễn Đức Mậu, Mặt trời trong lịng đất của Trần
Mạnh Hảo,… Ở văn xuôi giai đoạn này, các tác phẩm viết về chiến tranh
được nhìn từ nhiều góc độ, có hướng tiếp cận cự li và có cái nhìn tồn cục
về chiến tranh. Đó là các tác phẩm: Trong cơn gió lốc của Khuất Quang
Thụy, Tháng ba ở Tây Nguyên của Nguyễn Khải, Đất trắng của Nguyễn
Trọng Oánh, Nắng đồng bằng của Chu Lai.
Trong ý thức nghệ thuật của hầu hết các nhà văn thời kỳ này vẫn còn bị
chi phối bởi anh hùng ca cách mạng. Cả người viết và người đọc vẫn chưa kịp
bắt nhịp với thực tiễn xã hội. Vì thế, đây là khoảng thời gian mà Nguyên
Ngọc gọi là “Khoảng chân không trong văn học”. Nhưng cũng chính trong
những năm này đã diễn ra sự vận động chiều sâu của đời sống văn học với
những trăn trở, vật vã tìm tịi quyết liệt ở một số nhà văn mẫn cảm với đời
sống và có ý thức trách nhiệm trong lao động nghệ thuật. Cũng từ đây với yêu

cầu mới của lịch sử, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn khơng cịn
phù hợp, không đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ của người tiếp nhận. Do đó,
văn học cần phải có sự đổi mới buộc nhà văn phải thay đổi cách nhìn, thay
đổi cảm quan hiện thực cũng như tư duy nghệ thuật. Nhà văn phải viết theo
những điều mắt thấy tai nghe, gắn liền với sự công bằng trong đối xử, quan hệ
giữa người với người. Quan niệm về con người giai đoạn này cũng khác trước
được bổ sung toàn diện hơn, con người được nhìn nhiều chiều khơng những
thấy được những mặt tốt đẹp mà cịn thấy được những nét tính cách đời

22


thường trong sự đa dạng và phức tạp của nó. Tất cả những điều đó được nhà
văn truyền tải vào truyện ngắn.
Nhìn chung trong 10 năm đầu sau chiến tranh truyện ngắn tập trung
nghiên cứu về hiện trạng sau chiến tranh, tinh thần xã hội. Đó là các hiện
trạng phức tạp, đan xen các mặt tích cực và tiêu cực, tính chất phức tạp của
đời sống xã hội, kết quả tất yếu của hậu quả tàn dư chiến tranh để lại. Thời kỳ
này, “các nhà văn đã quan tâm đưa ngịi bút của mình tham gia trợ lực vào
cuộc giao tranh giữa cái tốt và cái xấu trong mỗi con người-một cuộc giao
tranh khơng có gì ồn ào nhưng xảy ra từng ngày, từng giờ và khắp các lĩnh
vực của đời sống”.
Các truyện ngắn đã đề cập đến những vẫn đề gai góc của cuộc sống. Đề
tài đời tư thế sự là đề tài nổi bật trong truyện ngắn giai đoạn này, càng về sau
đề tài này càng được phát huy trong hầu hết các truyện ngắn. Theo Bùi Việt
Thắng “Giai đoạn này thậm chí đã hình thành quan niệm văn học thế sự”. Nhà
văn có thể tự do sáng tạo, tự do bày tỏ những khúc mắc, những nỗi niềm,
truyền tải những quan niệm, tư tưởng, tình cảm của mình qua truyện ngắn, có
thể là nỗi cơ đơn, sự dằn vặt, phán xét,… Các truyện ngắn đã len lỏi vào tận
các ngõ ngách của đời sống, đã nhìn sâu hơn vào các cảnh ngộ và số phận đời

tư con người, tiêu biểu như Nguyễn Minh Châu viết Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Quang Thân viết Người khơng đi cùng
chuyến tàu, Lê Hồng viết Lời cuối cùng trong kịch bản,… đã phản ánh các
sự kiện, hiện tượng của đời sống một cách chân thực nhất.
Nếu trong chiến tranh mọi tình cảm ủy mị đều được các nhà văn né
tránh, họ ít nói đến cái ác liệt dữ dội của bom đạn thì sau chiến tranh tất cả
mọi đau khổ ấy đều được hiện lên trang viết của các nhà văn. Các tác phẩm
như Bức tranh, Cơn giông, Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu; Mùa lá rụng
trong vườn của Ma Văn Kháng; Thời xa vắng của Lê Lựu; Nỗi buồn chiến

23


tranh của Bảo Ninh; …không chỉ viết về cuộc chiến tranh đã đi qua mà còn
phản ánh chân thực cuộc sống hơm nay-một cuộc sống thơ ráp, xù xì, góc
cạnh mà ít nhiều trong kháng chiến nó bị coi là ngoại trừ để nhường chỗ cho
chất thi vị, lãng mạn. Dưới ngòi bút của các nhà văn sau 1975, chất đời tư
hiện lên một cách sinh động hơn, chân thực hơn. Các truyện ngắn sau 1975
còn đi sâu vào khám phá đời sống nội tâm con người với mục đích “tìm con
người bên trong con người” (Bakhtin). Nhà văn chú ý đào sâu vào nội tâm
con người với mục đích thấy được suy tư trăn trở dằn vặt của con người khi
đối diện với các mối quan hệ phức tạp. Truyện ngắn thời kỳ này nhìn con
người dưới góc độ đa diện có sự phân tuyến giữa: tơt-xấu, thiện-ác, trắng-đen,
cao cả-thấp hèn.
Sau 1986 truyện ngắn có bước đột phá là do khơng khí dân chủ, cởi mở
trong cơng cuộc đổi mới văn học. Nhà văn khơng cịn bị bó buộc bởi “cái
hành lang hẹp” và “thấp” kia nữa mà ý thức của các nhà văn sau đổi mới đã tự
khuyên nhủ lẫn nhau”tự bạt cái thấp” đi để khỏi chạm trần, để được tự do đi
lại thoải mái trong “cái hành lang” kia. Tinh thần tự do sáng tạo của nhà văn
đã được “cởi trói”. Điều này đã được đề cập trong cuộc nói chuyện giữa Tổng

Bí thư Nguyễn Văn Linh và 100 văn nghệ sĩ, là cuộc gặp gỡ đầu tiên thể hiện
tư duy mới của người lãnh đạo cao nhất của Đảng với văn học nghệ thuật.
Với văn nghệ sĩ thì nghị quyết 05 của Bộ chính trị-BCH TW Đảng Cộng Sản
Việt Nam là nghị quyết đầu tiên về đổi mới nâng cao trình độ quản lý văn học
văn hóa phát triển nâng lên một bước mới. Sự kiện chính trị quan trọng đó đã
tạo điều kiện, động lực thúc đẩy cho văn học sau 1975, đặc biệt là sau 1986
có sự đổi mới vượt bậc. Chính vì lẽ đó mà trơng các truyện ngắn thời kỳ này,
đời sống xã hội càng được phản ánh trong tác phẩm một cách chân thực hơn.
Các truyện ngắn về sau mật độ càng tăng lên nhiều với các tên tuổi mới càng

24


làm phong phú thêm cho bức tranhg truyện ngắn sau 1975 đa dạng hơn bao
giờ hết.
Phát triển trong điều kiện mới, đội ngũ sáng tác văn học thời kỳ này
được tự do thể hiện mình. Nhiều tác phẩm truyện ngắn ra đời đã đáp ứng
được nhu cầu của xã hội. Chính vì vậy vào thời điểm này truyện ngắn phát
triển với tốc độ nhanh. “Đến đây thấy một quy luật rất thú vị về sự phát trienr
thể loại văn hóa. Truyện ngắn bỗng nổi bật lên hàng đầu. Những năm trước
đây truyện ngắn dường như lịm đi, bị đè bẹp bởi sức nặng của tiểu thuyết đã
chiếm ngồn ngộn. Bây giờ len qua vô số kẽ hở của truyện ngắn ngổn ngang
kia nó ngoi lên và bùng nổ. Tơi có cảm giác như đứng trước một vụ mùa
truyện ngắn. Truyện ngắn đơng và thật sự có một số truyện ngắn hay”.
Truyện ngắn giai đoạn này đã mở rộng phạm vi đề tài, các nội dung
phản ánh, cách viết và hình thức đa dạng nên nhanh chóng đáp ứng được nhu
cầu của độc giả. Người đọc tìm đến với truyện ngắn nhiều hơn vì gần gũi hơn
với đời sống hằng ngày, dung lượng lại ngắn, câu chữ lại súc tích dễ đọc. Vì
vậy truyện ngắn đã đi sâu vào đề tài thế sự, những thực trạng còn tồn tại của
xã hội, những tư tưởng phiến diện, bảo thủ, trì trệ của một số con người, kiểu

làm ăn cá thể trên môi trường tập thể. Tiêu biểu như Khách ở quê ra và
Phiên Chợ Giát của Nguyễn Minh Châu. Các nhà văn đã lột tả hết mọi cung
bậc của đời sống truyện ngắn ở thời kỳ này khơng cịn là “mũi khoan thăm dò
nhỏ nhẹ” (Nguyên Ngọc) nữa mà đã mang một sức mạnh mới của sự khái
quát đời sống xã hội Việt Nam sau 1986. Thời kỳ này vẫn là sự đóng góp của
những cây bút trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ và phát triển trong
thời kỳ đổi mới như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Kiên,…
Trong đó Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn sớm nhận ra nhu
cầu bức thiết của lịch sử. Ông là người cảm nhận ra sớm nhận, sâu xa nhất tận
máu thịt tâm tưởng của mình cái u cầu bức bách sống cịn của công cuộc

25


×