Làm gì để phòng bệnh rubella?
Mỗi năm khi đến mùa đông xuân, bệnh rubella lại nổi lên, nhất là ở các
tỉnh phía Nam. Hiện đã có hàng trăm ca bệnh và con số này sẽ còn gia tăng
trong thời tiết lạnh. Đây là bệnh sốt phát ban lành tính song nó lại nguy hiểm
với phụ nữ mang thai 3 tháng đầu vì có nguy cơ sảy thai, sinh con dị tật...
Cần nhận biết để có cách phòng bệnh tốt nhất.
Sự nguy hiểm của bệnh rubella
Khi bệnh sởi đang dần được loại trừ tại Việt Nam thì các bệnh sốt phát ban
khác, điển hình là bệnh rubella lại đang nổi lên. Tuy đã có vaccin phòng bệnh
nhưng do chưa được đưa vào tiêm chủng mở rộng nên căn bệnh này vẫn còn bị thả
nổi. Nguyên nhân gây bệnh là do virut thuộc nhóm Togavirus họ Togaviridae.
Virut xâm nhập vào cơ thể qua những giọt nhỏ qua đường mũi họng, nhân lên
trong đường hô hấp rồi sau đó xâm nhập vào máu. Nhiễm virut huyết được phát
hiện kéo dài trong 8 ngày trước đó và tồn tại 2 ngày sau khi phát ban. Sự đào thải
virut qua họng miệng kéo dài 8 ngày sau khi có triệu chứng. Rubella bẩm sinh là
do sự lây truyền qua rau thai từ người mẹ bị nhiễm sang thai nhi với các biểu hiện
chậm phát triển, thâm nhiễm gan, lách bởi các tổ chức tạo huyết, viêm phổi kẽ,
giảm số lượng tế bào nhân khổng lồ trong tủy xương, các dị dạng về cấu trúc của
hệ tim mạch và hệ thần kinh trung ương. Virut có thể tồn tại ở bào thai trong thời
gian mang thai và có thể đào thải trong vòng 6 – 31 tháng sau khi sinh.
Phụ nữ mang thai mắc bệnh rubella kể cả thể không có triệu chứng lâm
sàng đều có khả năng gây ra sự phát triển không bình thường của bào thai tới trên
90%. Nguy cơ lớn nhất đối với thai nhi là mẹ bị nhiễm bệnh trong thời gian từ 3 -
6 tuần của thai kỳ, hiếm gặp dị tật nếu người mẹ nhiễm rubella sau tuần thứ 20 của
thai kỳ. Do đó biết được tình trạng miễn dịch của phụ nữ trước khi mang thai hoặc
càng sớm càng tốt trong thời kỳ mang thai thông qua tiền sử tiêm chủng trước đó
hoặc nhờ test huyết thanh học. Nếu kháng thể rubella có mặt trước hoặc trong
vòng 10 ngày sau khi bị phơi nhiễm, bệnh nhân được coi là có miễn dịch và nguy
cơ tổn thương bào thai là không có. Nếu bào thai bị nhiễm rubella sớm sẽ có nguy
cơ cao làm thai chết trong bụng mẹ (thai lưu), sảy thai tự nhiên và mang các dị tật.
Hội chứng Rubella bẩm sinh đã được coi như một dị dạng của tim bao gồm: còn
ống động mạch, thông liên thất, hẹp động mạch phổi, tổn thương ở mắt như đục
giác mạc, đục thủy tinh thể, viêm võng mạc và tật nhãn cầu nhỏ, tật đầu nhỏ, chậm
phát triển trí tuệ và điếc. Một vài trẻ còn có suy giảm miễn dịch dịch thể hoặc tế
bào gây nên giảm đào thải virut kéo dài dẫn đến tử vong. Những trường hợp dị tật
trung bình hoặc nặng có thể phát hiện được ngay sau khi sinh, những trường hợp
nhẹ như mắc bệnh tim nhẹ, điếc thì đến khi trẻ vài tháng tuổi hay vài năm tuổi mới
phát hiện được. Các biểu hiện muộn của rubella bẩm sinh là mắc bệnh đái tháo
đường.
Cần phân biệt rubella với các bệnh sốt phát ban khác
Ở người lớn, có thể có các dấu hiệu trước khi phát ban trong khoảng 1 - 7
ngày: sốt, mệt mỏi, đau đầu, viêm kết mạc nhẹ và sưng hạch. Ở trẻ em, phát ban là
biểu hiện đầu tiên của bệnh. Các biểu hiện về hô hấp rất nhẹ hoặc hầu như không
có. Các ban nhỏ, đỏ (đốm Forschheimer) đôi khi xuất hiện ở màn hầu nhưng
không phải là đặc trưng bệnh lý của bệnh. Sau đó ban bắt đầu mọc ở trán, mặt, lan
xuống dưới lưng và các chi. Các ban dạng dát sẩn nhỏ giống như ban sởi nhưng
màu sáng hơn so với ban sởi nên được gọi là bệnh sởi Đức. Ban thường riêng biệt
nhưng có thể kết hợp thành quầng đỏ rộng như trong sốt tinh hồng nhiệt. Ban có
thể tồn tại từ 1 - 5 ngày nhưng hay gặp nhất kéo dài trong 3 ngày.
Sưng hạch xuất hiện trước phát ban, thường biểu hiện rõ nhất trong giai
đoạn phát ban sớm, tồn tại vài ngày sau khi ban bay. Có thể xuất hiện lách to hoặc
hạch to toàn thân nhưng các hạch sau tai và hạch dưới chẩm thường hay gặp. Đôi
khi gặp đau cơ và sưng khớp nhẹ đặc biệt ở phụ nữ trẻ. Sưng và đau các khớp cổ
tay, ngón tay, khớp gối biểu hiện rõ rệt nhất trong giai đoạn phát ban và có thể kéo
dài từ 1 - 14 ngày sau khi các biểu hiện khác của rubella mất đi. Xuất huyết kèm
theo hoặc không kèm theo giảm tiểu cầu có thể xuất hiện. Viêm não tủy sau
rubella cũng tương tự như các bệnh viêm não khác nhưng ít gặp hơn nhiều so với
viêm não sau sởi. Thời kỳ lui bệnh thì các triệu chứng giảm dần rồi tự khỏi. Sau
khi khỏi bệnh, người bệnh sẽ có miễn dịch suốt đời nghĩa là không bị mắc bệnh
trở lại.
Chẩn đoán xác định dựa vào phân lập virut và huyết thanh học. Có thể
phân lập virut từ họng, máu, nước tiểu và phân bệnh nhân trong thời gian 1 - 2
tuần sau khi phát ban. Huyết thanh chẩn đoán thường sử dụng các kỹ thuật xét
nghiệm như ELISA, ức chế ngưng kết hồng cầu... phát hiện kháng thể đặc hiệu týp
IgM.
Phòng bệnh như thế nào?
Miễn dịch chủ động được tạo thành sau khi mắc bệnh hoặc tiêm phòng
vaccin. Trẻ sơ sinh có kháng thể mẹ truyền sang (miễn dịch thụ động) được bảo vệ
khoảng 6 - 9 tháng sau khi sinh. Vaccin rubella không bao giờ được sử dụng cho
phụ nữ có thai hoặc những người có thể có thai trong vòng 3 tháng. 95% số người
được tiêm vaccin tạo ra kháng thể tồn tại ít nhất 16 năm hoặc có khi cả đời.
Những người bị bệnh rubella phải được cách ly, quản lý, tránh tiếp xúc,
nhất là tuyệt đối không tiếp xúc với phụ nữ mang thai trong 3 tháng đầu. Cho
người bệnh ở trong phòng riêng có cửa sổ thoáng mát, có đủ ánh sáng mặt trời. Sử
dụng riêng biệt các dụng cụ cá nhân: khăn mặt, ly chén, chăn gối...