Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

TIỂU LUẬN bố cục DIỄN NGÔN TIẾNG VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 54 trang )

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN

Tiểu luận

GV HƯỚNG DẪN: PGS.TS TRỊNH SÂM

Nhóm 12

1


Danh sách nhóm và đánh giá - xếp loại:
STT
Họ và tên
MSSV
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Nguyễn Hồng Thanh Thương
Nguyễn Thanh Kiều
Huỳnh Thảo Nguyên


Nguyễn Thị Thanh Nguyên
Nguyễn Thị Mỹ Lành
Phan Hồ Nhật Khanh
Lê Phan Thanh Nhàn
Trần Thị Thanh Đoan
Đậu Thị Trang
Phạm Thị Hiên
Phạm Thị Tú Trinh

Đánh giá

Xếp
loại

Xác
nhận

K40.601.128
K40.601.055
K40.601.094
K40.601.093
K40.601.059
K40.601.053
K40.601.097
K40.601.026
K40.601.130
K40.601.038
K40.601.137
14/11/2017
Xác nhận của nhóm trưởng


2


MỤC LỤC
1. Giới thuyết về bố cục diễn ngôn.................................................................................... 4
2. Phân loại bố cục diễn ngôn............................................................................................ 4
2.1 Bố cục ba thành phần ............................................................................................... 4
2.2 Bố cục hai thành phần ............................................................................................ 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 52

3


1. Giới thuyết về bố cục diễn ngôn
Bố cục là phạm trù thuộc về tổ chức diễn ngôn. Đối với diễn ngôn viết bố cục là
phần dễ quan sát nhất. Bố cục được hình dung là cái khung của diễn ngơn, trong đó nội
dung là vật liệu lấp đầy cái khung ấy1.
Bản chất diễn ngôn là một hành động ngôn từ có tính chất hành động, nên bản chất
của bố cục diễn ngơn chính là các bước của một cuộc thoại. Nói cách khác thành phần
trong bố cục diễn ngơn là các bước thoại.
Mỗi loại hình diễn ngơn thường có từng loại khung riêng, thậm chí mỗi diễn ngơn,
đặc biệt là diễn ngơn viết, thường có bố cục khác nhau ứng với mỗi một diễn ngôn cụ thể.
2. Phân loại bố cục diễn ngôn
Hiện nay người ta thường nhắc đến nhiều loại bố cục, trong đó đáng chú ý là bố
cục hai thành phần và bố cục ba thành phần.
2.1 Bố cục ba thành phần
Có thể hình dung bố cục ba thành phần của diễn ngôn như sau:
Cấu tạo
Phần mở đầu


Chức năng

Tùy thuộc vào độ dài hay Nêu lên vấn đề mà văn bản
ngắn của văn bản mà có thể trình bày, tập trung thu hút
cho một đoạn hoặc một sự chú ý của người đọc và
chương đảm nhiệm làm định hướng cho sự phát
phần mở đầu.

triển vấn đề ở phần triển
khai. Nhìn chung có thể ghi
nhận ba yếu tố nội dung
được nói đến trong phần
mở đầu như sau:
- Nêu đề tài - chủ đề được
đề cập

1

Trịnh Sâm, 2015. Đặc điểm của diễn ngơn viết. Tạp chí khoa học đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 7 (73)

4


- Nêu bối cảnh chung của
đề tài - chủ đề
- Nêu hướng triển khai đề
tài - chủ đề của văn bản
Phần triển khai


Phần triển khai của diễn Triển khai đầy đủ các chi
ngơn có độ dài lớn nhất văn tiết cần thiết của đề tài - chủ
bản. Đối với những văn bản đề đã được xác định trong
có dung lượng lớn, dài có phần mở đầu, trình bày một
thể do nhiều chương đảm cách cụ thể, rõ ràng nhưng
nhiệm. Còn với những văn khơng được trình bày nhiều
bản có dung lượng vừa hơn những gì đã định
phải, bình thường thì do hướng ở phần mở đầu nếu
nhiều đoạn văn đảm nhiệm. khơng sẽ dẫn đến tình trạng
rườm rà, dư thừa về nội
dung đôi khi sẽ dẫn đến
việc lạc đề. Tuy nhiên cũng
cần phải trình bày đầy đủ
về nội dung, tránh tình
trạng khơng đầy đủ những
cái cần thiết phải có trong
phần triển khai.

Phần kết luận

Có thể do đoạn văn hay Đúc kết lại vấn đề. Thể
một chương đảm nhiệm để hiện tính trọn vẹn của vấn
kết thúc, tổng kết lại vấn đề về mặt tổ chức diễn
đề.

ngơn. Nói cách khác, phần
kết sẽ đánh dấu đầu ra của
văn bản, tạo cho văn bản có
tính chất kết thúc, tính chất


5


“đóng” về cả phương diện
nội dung lẫn phương diện
hình thức.
Để làm rõ vấn đề, chúng tơi xin trình bày cụ thể hơn về hai loại diễn ngơn tiêu biểu có bố
cục ba thành phần: Diễn ngôn khoa học và diễn ngôn nghệ thuật

6


BỐ CỤC BA THÀNH PHẦN CỦA DIỄN NGÔN KHOA HỌC
Bố cục ba thành phần trong văn bản khoa học chính là một loại bố cục được sử dụng
trong hầu hết ngành giáo dục. Nó là cái khung (sườn) của một văn bản, bao gồm ba phần:
phần mở đầu, phần triển khai và phần kết luận có tính chất trường qui không cho phép
người viết tự ý sáng tạo thêm. Cụ thể:
❖ PHẦN MỞ ĐẦU
- Về mặt cấu tạo, phần mở đầu của văn bản khoa học sẽ đề cập đến những vấn đề sau: lý
do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, nội dung - đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu,
phạm vi nghiên cứu,…
- Chức năng của phần mở đầu là nêu và khái quát vấn đề nghiên cứu, đồng thời tập trung
thu hút sự chú ý của người đọc.
Ví dụ: Phân tích cấu tạo và chức năng của phần mở đầu luận văn thạc sĩ đề tài BIỂU
TƯỢNG NƯỚC VÀ ĐÁ TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG (chuyên ngành
Văn học Việt Nam, Phan Hoàng Phương, PGS.TS Lê Thu Yến hướng dẫn, 2013)
(Trích nguyên văn)
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử văn học dân tộc, có một nhà thơ nữ mà nhà thơ Xuân Diệu rất ái mộ tài

năng cũng như thơ ca của bà và trân trọng tôn xưng là “Bà chúa thơ Nôm”, kể về độc đáo
thì đứng vào bậc nhất. Tên người ấy là Hồ Xuân Hương. Một cái tên kỳ diệu, sừng sững
trong làng thơ Việt Nam xưa nay. Thơ Hồ Xuân Hương chứa đựng đầy những cảm xúc
trữ tình, lãng mạn, đó là những vần thơ giàu thế giới nội tâm, những rung cảm của một
tâm hồn lớn và một trái tim đa cảm của một nữ sĩ tài hoa độc đáo - đầy cá tính. Hồ Xn
Hương đã tự tìm cho mình một con đường riêng, với những phong cách rất riêng đã đạt
tới đỉnh cao sáng tạo.

7


Đời Hồ Xuân Hương chưa đến mức là một “tấm gương oan khổ” cho bi kịch người
phụ nữ trong xã hội xưa. Nhưng cuộc đời của nữ sĩ là điển hình cho những đau khổ riêng
của người phụ nữ: tình dun trắc trở, thân phận lẽ mọn. Chính vì vậy, Hồ Xn Hương
viết về mình mà tiếng nói của bà lại trở thành lời phát ngôn chung cho giới phụ nữ, khi
Hồ Xuân Hương nói về nỗi đau chung của giới thì người đọc nhận ra ngay những dấu ấn
riêng của chính cuộc đời nhà thơ. Bà đã dám chống lại những truyền thống của thời phong
kiến là gia trưởng, nam tôn nữ ti, xem nhẹ thân phận người phụ nữ. Với tài năng và sự
nhạy cảm sâu sắc của mình, nên tâm hồn nhà thơ ln nhạy cảm với những nỗi đau sâu
lắng của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Đọc những bài thơ của bà viết về thân
phận người phụ nữ, chúng ta cảm nhận được nỗi cảm thông thấm qua từng câu chữ. Nhà
thơ mở rộng lịng mình để cảm nhận một cách đầy đủ nhất những tâm tư, những khao
khát cũng như khẳng định vẻ đẹp trong trắng, thanh tân, tươi nguyên của người con gái
qua hàng loạt những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng mà theo Đỗ Lai Thúy cho rằng
“Những biểu tượng phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương là những biểu tượng văn hóatơn giáo. Chúng là hiện thân của những siêu mẫu được hình thành và tồn tại từ thời con
người chưa có chữ viết.” (Đỗ Lai Thúy,1999, Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, Nxb
văn học, tr111).
Biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương rất phong phú, đa dạng và nó mang nhiều tầng
nghĩa khác nhau. Chẳng hạn, liên quan đến các bộ sinh sản của người phụ nữ như hang
thì có “Hang Cắc Cớ”, “Hang Thánh Hóa”, động thì có “Động Hương Tích”, nước thì có

“Giếng thơi”,... Những biểu tượng gốc nói theo Cao Bá Quát là “kho trời chung” của tất
cả mọi người, nhưng cũng không của riêng ai. Hồ Xuân Hương đã biết chiếm giữ lấy cho
riêng mình, “vơ tận của riêng mình”, mà khơng làm thiệt hại đến ai, thậm chí cịn làm
phong phú cho người khác. Với hàng loạt những biểu tượng được coi là sự sáng tạo của
riêng Hồ Xuân Hương qua những bài thơ Nơm, thì biểu tượng nước và đá được bà thể
hiện một cách rất độc đáo qua tài năng của mình. Hồ Xn Hương chỉ có cảm hứng với
những nước trong hang, hẻm, khe, kẽ, lách, vũng,… nghĩa là những hình thái nước tù
đọng, quy mơ nhỏ hẹp, ở vị trí khuất nẻo, hóc hiểm. Cịn đá thì đơi lúc có quy mơ rộng

8


lớn hơn, bí ẩn hơn như động, đèo, non,… được nhà thơ sử dụng rất tài tình, độc đáo và
đầy sức hấp dẫn. Chính vì thế, người viết ln khao khát tìm hiểu, khám phá cái đẹp, cái
hay, cái lung linh huyền ảo qua những bài thơ Nôm của bà nên chọn đề tài “Biểu tượng
nước và đá trong thơ Nơm Hồ Xn Hương”. Có thể nói, thơ Hồ xn Hương tìm hiểu
mãi cịn bí ẩn mãi, tìm mãi cịn mãi. Bởi bà đã tìm cho mình một phong cách riêng, những
sáng tạo riêng qua tài năng sử dụng những biểu tượng.
2. Mục đích nghiên cứu
Rất nhiều nhà khoa học trong nước lẫn ngồi nước với rất nhiều những cơng trình
nghiên cứu, đã khám phá những điều mới mẻ, những điều diệu kì qua những bài thơ Nơm
của Hồ Xn Hương. Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương thể hiện sự độc đáo của riêng nhà
thơ. Đó là sự dí dỏm, tinh nghịch, đôi lúc thật mạnh mẽ, táo bạo, nhưng rất hồn nhiên và
đầy nữ tính. Ngơn ngữ tài hoa đã khéo léo mở ra trường nghĩa hàm ẩn, gợi cho người đọc
sự suy ngẫm và liên tưởng đến những vấn đề nhạy cảm qua hàng loạt những biểu tượng
liên quan đến các bộ phận của người phụ nữ, cũng như biểu đạt sức sống và cái đẹp của
cơ thể, của tấm thân và trái tim rất trẻ. Đó là sự hồn nhiên, tươi nguyên, thanh tân của
những cô gái đến tuổi dậy thì. Bài nghiên cứu này, người viết khơng xét những vấn đề đó
là dâm hay tục, mà chỉ nghĩ đó là vẻ đẹp, sự trong trắng trinh nguyên mà chúng ta cần
phải trân trọng và ngợi khen. Đó là vẻ đẹp mang tính tạo hóa, nó mang tính văn hóa, mĩ

học.
Bên cạnh đó, bài nghiên cứu muốn làm rõ tại sao người phụ nữ thời phong kiến đẹp
như vậy, đẹp cả ngoại hình lẫn tâm hồn mà cuộc đời, tình dun lại lận đận. Có phải
“Hồng nhan đa trn” chăng? (“Bánh trơi nước”, “Tự tình II”,…). Phải chăng đó là dịng
đời của họ? Phải chăng nữ sĩ tài năng đã mượn những hình ảnh này để đề cao quyền sống
chính đáng của người phụ nữ. Đó là quyền tự do yêu đương, quyền được tự khẳng định
vẻ đẹp của mình mà thời đại của bà bị chơn vùi, dập tắt. Từ đó mới thấy được một Hồ
Xuân Hương, ngồi một nữ sĩ tài năng, cịn là một Hồ Xuân Hương đầy cá tính và nhân
đạo, một Hồ Xuân Hương với một trái tim luôn biết yêu thương, quan tâm, coi trọng
quyền sống, quyền tự do con người được thể hiện qua những bài thơ Nôm với những biểu
9


tượng mang nhiều ý nghĩa. Đặc biệt là bà sử dụng khá nhiều biểu tượng nước và đá để
nói lên điều đó. Người viết muốn tìm hiểu, khám phá và làm rõ những ý nghĩa của biểu
tượng nước và đá trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương để thấy được cái hay, cái đẹp, cái độc
đáo, cái lung linh trong thơ của bà.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
Như tên đề tài của luận văn “Biểu tượng nước và đá trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương”.
Bài nghiên cứu chủ yếu đi sâu tìm hiểu những bài thơ có chứa yếu tố nước và đá trong
thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương. Theo tài liệu Thơ Hồ Xuân Hương của Giáo
sư Nguyễn Lộc (Nhà xuất bản văn học, 1982), xác định trong thơ Nôm truyền tụng của
Hồ Xuân Hương có khoảng bốn mươi bài. Theo tài liệu Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương của
Giáo sư Lê Trí Viễn (Nxb Sở Giáo dục Nghĩa Bình, 1987), tác giả cũng cho rằng thơ
Nơm xác định tương đối chính xác là của Xn Hương thì có độ khoảng bốn mươi bài.
Trong khoảng bốn mươi bài thơ nói trên, người viết thống kê có khoảng hai mươi bài có
chứa yếu tố nước (sương, suối, mưa, dịng, sơng, sóng, thạch nhũ…), và khoảng mười
tám bài có chứa yếu tố đá (hang, động, đèo, thạch nhũ, non, sơn, ghềnh,…).
Luận văn sẽ không xét những bài thơ Nơm có chứa yếu tố nước và đá trong tập thơ
“Lưu hương ký” của tác giả vì có phong cách khác, không liên quan nhiều đến đề tài. Tuy

nhiên, trong q trình nghiên cứu, người viết có thể trích dẫn một vài câu ở một vài bài
để so sánh làm rõ hơn, nỗi bật hơn cho bài nghiên cứu. Ngồi ra, luận văn cịn khảo sát
một số bài thơ, bài ca dao có hình ảnh nước và đá trong văn hoc Việt Nam để so sánh đối
chiếu làm phong phú thêm cho đề tài. Bên cạnh đó, người viết xin mạn phép được tham
khảo một số cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phê bình từ
trước đến nay có nhắc đến hình ảnh nước và đá trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân
Hương.
4. Lịch sử vấn đề
Nữ sĩ tài năng độc đáo Hồ Xuân Hương, một cái tên kì diệu ấy vượt qua mọi không
gian và thời gian, vượt qua mọi cuộc tranh luận xưa nay, tự mình sừng sững chiếm một
10


vị trí đặc biệt quan trọng trong làng thơ Việt Nam. Bởi thơ Nơm của bà có sự thành cơng
rực rỡ cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Hồ Huân Hương đã có những vần thơ để lại ấn
tượng sâu sắc trong lịng người đọc.
Với giọng điệu dí dỏm, hồn nhiên, mạnh mẽ, táo bạo chưa từng có trên thi đàn, thơ của
bà như những lời thách đố với những ai thích tìm tịi, khám phá cái hay, cái đẹp, cái thanh
khiết ẩn đằng sau ngôn từ của nữ sĩ. Tuy nhiên, việc tìm hiểu nghiên cứu thơ Hồ Xuân
Hương gặp khơng ít những vấn đề khó khăn. Hầu hết các vấn đề từ cuộc đời đến sự nghiệp
thơ ca, cũng như phong cách thơ của nữ sĩ chưa có ý kiến thống nhất, có những đánh giá,
những nhận định khác nhau, thậm chí có những ý kiến tranh luận đối lập nhau gay gắt.
Song, khi tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xn Hương, nhìn chung các nhà chun mơn, các nhà
nghiên cứu đều ngợi khen, đều khẳng định vai trò và vị trí quan trọng trong lịch sử văn
học dân tộc. Có thể nói, Hồ Xuân Hương là tác giả huyền ảo nhất, lạ lùng nhất, bí ẩn nhất
từ trước đến nay.
Thơ Nôm Hồ Xuân Hương là một mảng đề tài rất phong phú cho các nhà chuyên môn
nghiên cứu, khảo sát. Và đến nay có rất nhiều nhà khoa học, nhà chun mơn đã nghiên
cứu nhiều cơng trình có giá trị. Tuy nhiên, người viết chưa thấy có một cơng trình khoa
học nào đi sâu nghiên cứu chun biệt biểu tượng nước, đặc biệt là biểu tượng đá trong

thơ Nơm của Hồ Xn Hương, mà chỉ có những cơng trình khi nghiên cứu có nói sơ qua
những hình ảnh của nước và đá trong thơ Nơm của bà.
Theo tìm hiểu, có những cơng trình khoa học khi nghiên cứu có nói qua yếu tố nước
trong thơ Nơm Hồ Xn Hương như: Đỗ Lai Thúy có cơng trình nghiên cứu “Hồ Xn
Hương - hồi niệm phồn thực” (Nxb văn hóa thông tin, 1999) đã nhận xét “Những biểu
tượng phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương đều là những biểu tượng văn hóa - tơn giáo”.
Biểu tượng đáng lưu ý đến âm vật trong thơ Hồ Xuân Hương là giếng (Giếng thơi). Đây
là cái giếng thanh tân ở thời điểm dậy thì của người con gái. Đá cũng vậy, nếu dựa vào
tư duy liên tưởng theo dạng hình dáng thì hang, động cũng là âm vật.

11


Theo Xuân Diệu, trong cuốn sách “Bình luận các nhà thơ cổ điển Việt Nam” (Nxb trẻ,
2006), có bình về bài thơ “Tát nước” của Hồ Xuân Hương. Tác giả cho rằng đến câu thứ
năm thì lại có sự rất lạ: “Xì xịm đáy nước mình nghiêng ngửa”. Đó là “Gàu nước đổ
xuống ruộng, nước kêu xì xịm, gàu khơng lại thả xuống khe vực nước lên, nước cũng xì
xịm, trong khoảng giữa hai lần vực gàu, nước tạm thời lắng lại, in hình người đàn bà tát
nước dốc ngược dưới đáy khe, rồi nước lại đổ, gàu lại vực, lại xì xịm mãi như thế”.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Thu Yến qua cơng trình nghiên cứu “Sức hấp dẫn của thơ Nôm
Hồ Xuân Hương” (Nxb văn học Hà Nội, 2008), có nói qua hình ảnh chứa nước và đá.
Theo tác giả, nước trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương có nhiều tầng nghĩa khác nhau “Nước
là nguồn sống gắn chặt với đời sống con người. Nước tượng trưng cho sự thanh khiết,
trong trẻo, mầu nhiệm. Nhưng ở phương diện khác nước mang tính âm và động…”. Cịn
đá trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ đơn thuần là đá “Đá còn thể hiện ở sức nặng, sự
cứng cỏi, sự rắn chắc….thể hiện cái cao, cái sâu, cái tinh nghịch, cái bí hiểm trong tâm
tưởng của mình.”.
Giáo sư Nguyễn Lộc qua bài viết “Hồ Xuân Hương, nhà thơ trữ tình yêu đời” trong
cuốn sách Hồ Xuân Hương - tác phẩm và lời bình (Nhiều tác giả, 2011, Nxb văn học), có
nói đến một khía cạnh về hình ảnh nước qua bài Tự tình I và Tự tình III. Đó là dịng đời

của người phụ nữ, mà đó là chính tác giả “Xn Hương ví mình như chiếc bách nổi lênh
đênh giữa dịng nước cả”.
Nhà nghiên cứu Hồng Thị Bích Ngọc có bài viết “Một phong cách thơ Hồ Xuân
Hương” qua cuốn sách Đến với thơ Hồ Xuân Hương (Nhiều tác giả, 1997, Nxb Thanh
Niên Hà Nội), có bình về bài thơ Giếng thơi. Tác giả cho rằng “Bài thơ như vẽ ra cảnh
một Động Tiên. Động Tiên này được bao quanh bởi một dịng nước trong ngày đêm
khơng ngừng chảy. Động Tiên ấy chính là “nơi ơ” của nhà thơ”.
Bên cạnh đó, tác giả cịn cho rằng “Giếng ở đây chính là Hồ Xuân Hương, và Hồ Xuân
hương chỉ còn đề cập tới khía cạnh thanh tân của cái giếng. Sự thanh tao, tươi tắn và lành
mạnh của tâm hồn nàng và của chính con người nàng, ai có thể làm vẩn đục đươc chăng?”.

12


Cũng trong tài liệu này, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền có bình “Động Hương Tích”.
Ơng cho rằng, “con thuyền vơ trạo”( thuyền khơng có giầm của Xn Hương) bồng bềnh
rơi vào “cõi Phật”.
Nguyễn Thị Thanh Xuân qua Phê bình cổ mẫu và cổ mẫu nước trong văn chương Việt
Nam có nói về hình ảnh nước trong thơ Nơm Hồ Xuân Hương: “Hồ Xuân Hương có hai
bài thơ viết về hang, trong không gian ấy, nước ở trạng thái giọt, rỉ: Kẽ hầm rêu mốc trơ
toen hoẻn, Luồng gió thơng reo vỗ phập phịm. Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm. Con
đường vô ngạn tối om om (Hang Cắc Cớ); Lách khe nước rỉ, mó lam nham (Hang Thánh
Hóa). Dù vậy, nước vẫn gây ấn tượng, bởi cái thế chủ động của nó. Đặt cổ mẫu nước
trong hang, Hồ Xuân Hương đã chồng cổ mẫu lên cổ mẫu. Và cổ mẫu hang là hình thái
đất núi, khá đặc biệt trong tâm thức nhân loại: “Mẫu gốc của hình ảnh tử cung người mẹ”;
hình ảnh cõi trần”; “biểu tượng hồn hảo về cái vô thức”, “Hang biểu trưng cho sự thám
hiểm cái tôi bên trong, đặc biệt hơn là cái tôi thô sơ, bị nén ẩn dưới những tầng sâu vô
thức”, “túi chứa đựng năng lượng của cõi người, Hang “quá trình nội hố tâm lý, để con
người trở thành chính mình và đạt được sự trưởng thành…”, “cái chủ quan trong cuộc
đối đầu với những vấn đề của sự phân hóa”. Giọt nước trong hang chính là yếu tố động

của sức sống hiền minh, nhỏ nhoi, nép mình như trực giác, nối kết giữa vơ thức và ý
thức”.
Ngồi ra, cịn rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu khi bàn đến đời và thơ Hồ Xuân
Hương có nói sơ qua những hình ảnh có chứa yếu tố nước và đá như Giáo sư Lê Trí Viễn
qua Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương (1987, Nxb Sở Giáo dục Nghĩa Bình), nhà nghiên cứu
Dzuy - DZao qua Sự thật thơ và đời Hồ Xuân Hương (2000, Nxb văn học Hà Nội).
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chỉ có nhắc đến yếu tố nước, chứ chưa có cơng trình
nghiên cứu sâu, nghiên cứu riêng biệt. Người viết trên cơ sở học tập, tiếp thu những ý
kiến của những người đi trước, cộng với sự nỗ lực tìm tịi, khám phá, sáng tạo của bản
thân. Người viết sẽ cố gắng hoàn thành tốt bài nghiên cứu. Tuy nhiên, đây là thử nghiệm
đầu tiên, một dị dẫm tìm tịi bước đầu mà chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn và khơng
tránh khỏi sự sơ suất, thiếu sót.
13


5. Phương pháp nghiên cứu
Do yêu cầu của đề tài luận văn, người viết sẽ vận dụng một số phương pháp chủ yếu
như sau:
5.1. Phương pháp lịch sử
Luận văn khảo sát “Biểu tượng nước và đá trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương” là muốn
làm rõ những yếu tố chứa nước và đá trong những bài thơ Nôm của tác giả.
Muốn vậy phải đề cập đến đời và thơ của tác giả. Đặt tác giả và tác phẩm vào một hoàn
cảnh lịch sử xã hội cụ thể để xem xét, đánh giá là một hướng nghiên cứu tích cực và đạt
hiệu quả. Phương pháp lịch sử hướng đến việc tìm hiểu hồn cảnh chính trị xã hội, văn
hóa, tư tưởng, thời đại mà tác phẩm ra đời. Từ đó có cách nhìn nhận, đánh giá đúng đắn
hơn về cái hay, cái mới lạ, cái lung linh của tác phẩm.
5.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Đây là phương pháp quan trọng được dùng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu. Vì
phải phân tích, chia nhỏ các vấn đề ra để làm sáng tỏ, sau đó tổng hợp lại những kết quả
nghiên cứu để có cái nhìn tổng thể.

5.3. Phương pháp thống kê phân loại
Thơ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng phong phú và đầy phức tạp bởi tính đa nghĩa
của nó. Đặc biệt là thơ Nơm truyền tụng. Người viết sẽ thống kê trong khoảng bốn mươi
bài thơ Nôm của bà thì có bao nhiêu bài có chứa yếu tố nước và đá. Sau đó, phân loại ra
những tác phẩm nào mang ý nghĩa biểu tượng để làm rõ.
5.4. Phương pháp so sánh
Với phương pháp này người viết sẽ so sánh thơ Nơm Hồ Xn Hương có chứa biểu
tượng nước với các tác phẩm khác có chứa yếu tố nước để tìm ra những nét tương đồng,
dị biệt ở một số khía cạnh về nội dung và nghệ thuật. Từ đó, thấy được sự ảnh hưởng qua
lại giữa các nhà thơ. Đồng thời, thấy được cái hay riêng, cái độc đáo của riêng tác giả.

14


Bên cạnh đó, người viết sẽ so sánh một số tác phẩm với nhau của chính tác giả để thấy
được tài năng, sự đa dạng, sức hấp dẫn của thơ Nơm Hồ Xn Hương.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Người viết rất trân trọng tiếp thu những cơng trình nghiên cứu có giá trị về Hồ Xn
Hương từ trước đến nay. Bên cạnh đó, luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu về một phương diện
trong phong cách thơ độc đáo của nữ sĩ: “Biểu tượng nước và đá trong thơ Nôm Hồ Xuân
Hương”.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn sẽ góp phần làm rõ hơn tại sao trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương bà thường
sử dụng yếu tố nước và đá. Vậy nó mang những ý nghĩa biểu tượng gì? Từ đó khẳng định
được tài năng của nữ sĩ. Bên cạnh đó, luận văn sẽ trang bị cho bản thân người viết một
vốn kiến thức về nhà thơ mà mình u thích, nhằm phục vụ, hỗ trợ tốt cho công tác giảng
dạy môn Ngữ văn trong nhà trường. Đồng thời, sẽ trao đổi. thảo luận về chuyên môn với
các đồng mơn, đồng nghiệp với mục đích cùng tiến bộ.
7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Ở chương này sẽ trình bày về thời đại lúc Hồ Xuân Hương sinh sống để thấy được tình
hình lịch sử của đất nước lúc bấy giờ sẽ ảnh hưởng đến sáng tác thơ ca của tác giả. Bên
cạnh đó cũng tìm hiểu về tiểu sử của tác giả, tìm hiểu về số lượng bài thơ Nơm, trong các
bài thơ đó thì bao nhiêu bài có chứa các yếu tố nước và đá để phân tích, lí giải. Ngồi ra
ở chương I cịn trình bày khái niệm biểu tượng và biểu tượng nước và đá nhìn từ góc độ
văn hóa, để thấy rõ tầm quan trọng của nước và đá đối với con người.
Chương 2: Ý nghĩa của biểu tượng nước trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương.

15


Ở chương 2, người viết sẽ thống kê có bao nhiêu bài thơ Nơm của tác giả có nước và
các yếu tố chứa nước và, rồi phân loại ra mỗi bài sẽ mang ý nghĩa biểu tượng về nội dung
gì, rồi đưa dẫn chứng phân tích.
Chương 3: Ý nghĩa của biểu tượng đá trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
Ở chương 3, người viết cũng thống kê có bao nhiêu bài có hình ảnh đá và các hình thức
của đá, rồi phân loại ra mỗi bài sẽ mang ý nghĩa biểu tượng về nội dung gì, rồi đưa dẫn
chứng phân tích.
Chức năng của phần mở đầu có thể thấy đó chính là nêu và khái quát vấn đề nghiên
cứu, đồng thời tập trung thu hút sự chú ý của người đọc.
Vậy có thể tóm tắt cấu tạo của phần mở đầu luận văn này như sau:
- Lý do chọn đề tài: các biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương rất độc đáo, đa dạng và
mang nhiều tầng ý nghĩa. Trong đó biểu tượng nước và đá được bà thể hiện một cách độc
đáo nhất qua tài năng của mình.
- Mục đích nghiên cứu: Người viết muốn tìm hiểu, khám phá và làm rõ những ý nghĩa
của biểu tượng nước và đá trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương để thấy được cái hay, cái đẹp,
cái độc đáo, cái lung linh trong thơ của bà.
- Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát: đi sâu tìm hiểu những bài thơ có chứa yếu

tố nước và đá trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương. Theo tài liệu “Thơ Hồ
Xuân Hương” của Giáo sư Nguyễn Lộc (Nhà xuất bản văn học, 1982; “Nghĩ về thơ Hồ
Xuân Hương” của Giáo sư Lê Trí Viễn (Nxb Sở Giáo dục Nghĩa Bình, 1987); ngồi ra
luận văn còn khảo sát một số bài thơ, bài ca dao có hình ảnh nước và đá trong văn hoc
Việt Nam để so sánh đối chiếu làm phong phú thêm cho đề tài; tham khảo một số cơng
trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phê bình từ trước đến nay có
nhắc đến hình ảnh nước và đá trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương.
- Lịch sử vấn đề:

16


• Đỗ Lai Thúy có cơng trình nghiên cứu “Hồ Xn Hương- hồi niệm phồn
thực”(Nxb văn hóa thơng tin, 1999)
• Theo Xuân Diệu, trong cuốn sách “Bình luận các nhà thơ cổ điển Việt Nam” (Nxb
trẻ, 2006)
• Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Thu Yến qua cơng trình nghiên cứu “Sức hấp dẫn của thơ
Nôm Hồ Xuân Hương” (Nxb văn học Hà Nội, 2008)
• Giáo sư Nguyễn Lộc qua bài viết “Hồ Xuân Hương, nhà thơ trữ tình yêu đời” trong
cuốn sách “Hồ Xuân Hương- tác phẩm và lời bình” (Nhiều tác giả, 2011, Nxb văn
học)
• Nhà nghiên cứu Hồng Thị Bích Ngọc có bài viết “Một phong cách thơ Hồ Xuân
Hương” qua cuốn sách “Đến với thơ Hồ Xuân Hương” ( Nhiều tác giả, 1997, Nxb
Thanh Niên Hà Nội)
• Nguyễn Thị Thanh Xuân qua “Phê bình cổ mẫu và cổ mẫu nước trong văn chương
Việt Nam”
• Giáo sư Lê Trí Viễn qua “Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương” (1987, Nxb Sở Giáo dục
Nghĩa Bình)
• Nhà nghiên cứu DZuy- DZao qua “Sự thật thơ và đời Hồ Xuân Hương” (2000,
Nxb văn hoc Hà Nội),

- Phương pháp nghiên cứu:
• Phương pháp lịch sử
• Phương pháp phân tích - tổng hợp
• Phương pháp thống kê phân loại
• Phương pháp so sánh
- Đóng góp của luận văn
• Ý nghĩa khoa học
• Ý nghĩa thực tiễn

17


Nhận xét:
Đảm bảo đầy đủ các phần bao gồm: lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, đối tượng
nghiên cứu và phạm vi khảo sát, lịch sử vấn đề, phương pháp nghiên cứu, đóng góp của
luận văn, cấu trúc luận văn. Từ việc đảm bảo cấu trúc của một phần mở đầu cần phải có,
diễn ngơn giúp người đọc (nghe) hiểu được khái quát về vấn đề nghiên cứu mà cụ thể là
biểu tượng nước và đá trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Đồng thời nắm được khái quát
về lịch sử vấn đề nghiên cứu cụ thể là cách đánh giá, nhìn nhận về hai biểu tượng ở những
góc độ khác nhau, hay cách thức lựa chọn để nghiên cứu cũng như nội dung chính từng
phần mà diễn ngơn sắp triển khai. Từ sự rõ ràng và thuyết phục của từng phần góp phần
tạo nên sự thu hút cho người xem.
 Đảm bảo chức năng nêu và khái quát vấn đề nghiên cứu, đồng thời tập trung thu hút
sự chú ý của người đọc
❖ PHẦN TRIỂN KHAI
- Về mặt cấu tạo, phần triển khai được xem là phần có độ dài lớn nhất văn bản, có thể do
nhiều đoạn văn, hoặc nhiều chương đảm nhiệm.
- Chức năng của phần triển khai là giải quyết vấn đề đã nêu ở phần mở đầu, tập trung các
luận điểm, luận cứ và luận chứng để làm rõ vấn đề nghiên cứu, đồng thời cũng có vai trị
tiếp tục thu hút sự chú ý của người đọc.

Ví dụ: Phần triển khai của bài báo cáo khoa học Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
(Trần Đắc Hiến) do nhiều đoạn văn đảm nhiệm
(Trích nguyên văn)
Trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, vì tập trung ưu tiên phát triển kinh tế
và cũng một phần do nhận thức hạn chế nên việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi
trường chưa chú trọng đúng mức. Tình trạng tách rời cơng tác bảo vệ môi trường với sự
phát triển kinh tế - xã hội diễn ra phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp, dẫn đến tình trạng
gây ơ nhiễm mơi trường diễn ra phổ biến và ngày càng nghiêm trọng.
18


Đối tượng gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt động sản xuất của nhà máy trong các
khu công nghiệp, hoạt động làng nghề và sinh hoạt tại các đơ thị lớn. Ơ nhiễm mơi trường
bao gồm 3 loại chính là: ơ nhiễm đất, ơ nhiễm nước và ơ nhiễm khơng khí. Trong ba loại
ơ nhiễm đó thì ơ nhiễm khơng khí tại các đơ thị lớn, khu cơng nghiệp và làng nghề là
nghiêm trọng nhất, mức độ ô nhiễm vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép.
Theo Báo cáo của Bộ Tài ngun và Mơi trường, tính đến ngày 20/4/2008 cả nước có
185 khu cơng nghiệp được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập trên địa bàn 56
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đến hết năm 2008, cả nước có khoảng trên 200
khu cơng nghiệp. Ngồi ra, cịn có hàng trăm cụm, điểm cơng nghiệp được Uỷ ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập. Theo báo cáo giám
sát của Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội, tỉ lệ các khu cơng
nghiệp có hệ thống xử lí nước thải tập trung ở một số địa phương rất thấp, có nơi chỉ đạt
15 - 20%, như Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc. Một số khu công nghiệp có xây dựng hệ
thống xử lí nước thải tập trung nhưng hầu như khơng vận hành vì để giảm chi phí. Đến
nay, mới có 60 khu cơng nghiệp đã hoạt động có trạm xử lí nước thải tập trung (chiếm
42% số khu công nghiệp đã vận hành) và 20 khu cơng nghiệp đang xây dựng trạm xử lí
nước thải. Bình qn mỗi ngày, các khu, cụm, điểm cơng nghiệp thải ra khoảng 30.000
tấn chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải độc hại khác. Tại Hội nghị triển khai Đề án bảo vệ

môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai ngày 26/2/2008, các cơ quan chun mơn
đều có chung đánh giá: nguồn nước thuộc lưu vực sông Sài Gịn - Đồng Nai hiện đang bị
ơ nhiễm nặng, khơng đạt chất lượng mặt nước dùng làm nguồn cấp nước sinh hoạt. Theo
số liệu khảo sát do Chi cục Bảo vệ môi trường phối hợp với Công ty Cấp nước Sài Gòn
thực hiện năm 2008 cho thấy, lượng NH3 (amoniac), chất rắn lơ lửng, ô nhiễm hữu cơ
(đặc biệt là ô nhiễm dầu và vi sinh) tăng cao tại hầu hết các rạch, cống và các điểm xả.
Có khu vực, hàm lượng nồng độ NH3 trong nước vượt gấp 30 lần tiêu chuẩn cho phép
(như cửa sơng Thị Tính); hàm lượng chì trong nước vượt tiêu chuẩn quy định nhiều lần;
chất rắn lơ lửng vượt tiêu chuẩn từ 3 - 9 lần... Tác nhân chủ yếu của tình trạng ơ nhiễm
này chính là trên 9.000 cơ sở sản xuất cơng nghiệp nằm phân tán, nằm xen kẽ trong khu

19


dân cư trên lưu vực sơng Đồng Nai. Bình qn mỗi ngày, lưu vực sông phải tiếp nhận
khoảng 48.000m3 nước thải từ các cơ sở sản xuất này. Dọc lưu vực sơng Đồng Nai, có
56 khu cơng nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động nhưng chỉ có 21 khu có hệ thống xử lý
nước thải tập trung, số còn lại đều xả trực tiếp vào nguồn nước, gây tác động xấu đến chất
lượng nước của các nguồn tiếp nhận... Có nơi, hoạt động của các nhà máy trong khu công
nghiệp đã phá vỡ hệ thống thuỷ lợi, tạo ra những cánh đồng hạn hán, ngập úng và ô nhiễm
nguồn nước tưới, gây trở ngại rất lớn cho sản xuất nông nghiệp của bà con nơng dân.
Nhìn chung, hầu hết các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước chưa đáp ứng được
những tiêu chuẩn về môi trường theo quy định. Thực trạng đó làm cho mơi trường sinh
thái ở một số địa phương bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cộng đồng dân cư, nhất là các cộng
đồng dân cư lân cận với các khu công nghiệp, đang phải đối mặt với thảm hoạ về mơi
trường. Họ phải sống chung với khói bụi, uống nước từ nguồn ô nhiễm chất thải công
nghiệp... Từ đó, gây bất bình, dẫn đến những phản ứng, đấu tranh quyết liệt của người
dân đối với những hoạt động gây ơ nhiễm mơi trường, có khi bùng phát thành các xung
đột xã hội gay gắt.
Cùng với sự ra đời ồ ạt các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề thủ cơng truyền

thống cũng có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Việc phát triển các làng nghề có vai
trị quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm ở các địa
phương. Tuy nhiên, hậu quả về môi trường do các hoạt động sản xuất làng nghề đưa lại
cũng ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng ơ nhiễm khơng khí, chủ yếu là do nhiên liệu sử
dụng trong các làng nghề là than, lượng bụi và khí CO, CO2, SO2 và Nox thải ra trong
quá trình sản xuất khá cao. Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện nay
cả nước có 2.790 làng nghề, trong đó có 240 làng nghề truyền thống, đang giải quyết việc
làm cho khoảng 11 triệu lao động, bao gồm cả lao động thường xuyên và lao động không
thường xuyên#. Các làng nghề được phân bố rộng khắp cả nước, trong đó các khu vực
tập trung phát triển nhất là Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ, Tây Bắc bộ, Đồng bằng
sông Cửu Long. Riêng ở Đồng bằng sơng Hồng có 866 làng nghề, chiếm 42,9% cả nước.
Hình thức các đơn vị sản xuất của làng nghề rất đa dạng, có thể là gia đình, hợp tác xã
20


hoặc doanh nghiệp. Tuy nhiên, do sản xuất mang tính tự phát, sử dụng công nghệ thủ
công lạc hậu, chắp vá, mặt bằng sản xuất chật chội, việc đầu tư xây dựng hệ thống xử lý
nước thải ít được quan tâm, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái của người dân làng nghề
cịn kém, bên cạnh đó lại thiếu một cơ chế quản lý, giám sát của các cơ quan chức năng
của Nhà nước, chưa có những chế tài đủ mạnh đối với những hộ làm nghề thủ công gây
ô nhiễm môi trường và cũng chưa kiên quyết loại bỏ những làng nghề gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng, nên tình trạng ơ nhiễm mơi trường tại các làng nghề ngày càng trầm
trọng và hiện nay đã ở mức “báo động đỏ”. Hoạt động gây ô nhiễm môi trường sinh thái
tại các làng nghề không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt và sức khoẻ của
những người dân làng nghề mà còn ảnh hưởng đến cả những người dân sống ở vùng lân
cận, gây phản ứng quyết liệt của bộ phận dân cư này, làm nảy sinh các xung đột xã hội
gay gắt.
Bên cạnh các khu công nghiệp và các làng nghề gây ô nhiễm môi trường, tại các đơ thị
lớn, tình trạng ơ nhiễm cũng ở mức báo động. Đó là các ơ nhiễm về nước thải, rác thải
sinh hoạt, rác thải y tế, không khí, tiếng ồn... Những năm gần đây, dân số ở các đơ thị

tăng nhanh khiến hệ thống cấp thốt nước khơng đáp ứng nổi và xuống cấp nhanh chóng.
Nước thải, rác thải sinh hoạt (vô cơ và hữu cơ) ở đô thị hầu hết đều trực tiếp xả ra môi
trường mà khơng có bất kỳ một biện pháp xử lí nào ngồi việc vận chuyển đến bãi chơn
lấp. Theo thống kê của cơ quan chức năng, mỗi ngày người dân ở các thành phố lớn thải
ra hàng nghìn tấn rác; các cơ sở sản xuất thải ra hàng trăm nghìn mét khối nước thải độc
hại; các phương tiện giao thông thải ra hàng trăm tấn bụi, khí độc. Trong tổng số khoảng
34 tấn rác thải rắn y tế mỗi ngày, thì Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm đến 1/3;
bầu khí quyển của Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có mức benzen và sunfua đioxit
đáng báo động. Theo một kết quả nghiên cứu mới công bố năm 2008 của Ngân hàng thế
giới (WB), trên 10 tỉnh thành phố Việt Nam, xếp theo thứ hạng về ô nhiễm đất, nước,
khơng khí, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là những địa bàn ô nhiễm đất nặng nhất.
Theo báo cáo của Chương trình mơi trường của Liên hợp quốc, Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh đứng đầu châu á về mức độ ô nhiễm bụi.

21


Tình trạng ơ nhiễm mơi trường nêu trên có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác
nhau, song tập trung ở các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường
và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng. Theo thống kê của Bộ Tư pháp,
hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường để điều chỉnh hành vi
của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy trình sử dụng
nguyên liệu trong sản xuất. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn cịn chưa hồn thiện,
thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định khơng cao, tình trạng văn bản mới được ban
hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu quả điều
chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế... trong việc bảo vệ mơi
trường.
Thứ hai, quyền hạn pháp lí của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực lượng Cảnh
sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động nắm tình hình,

phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các
cở sở pháp lí, chế tài xử phạt đối với các loại hành vi gây ô nhiễm môi trường và các loại
tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo dục,
phòng ngừa, răn đe đối với những hành vi xâm hại môi trường. Rất ít trường hợp gây ô
nhiễm môi trường bị xử lí hình sự; cịn các biện pháp xử lí khác như buộc phải di dời ra
khỏi khu vực gây ô nhiễm, đóng cửa và đình chỉnh hoạt động của các cơ sở gây ô nhiễm
môi trường cũng không được áp dụng nhiều, hoặc có áp dụng nhưng các cơ quan chức
năng thiếu kiên quyết, doanh nghiệp trây ỳ nên cũng không có hiệu quả.
Thứ ba, các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với công
tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra,
giám sát về môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường của các cơ quan chức
năng đối với các cơ sở sản xuất dường như vẫn mang tính hình thức, hiện tượng “phạt để
tồn tại” cịn phổ biến. Cơng tác thẩm định và đánh giá tác động môi trường đối với các
dự án đầu tư còn tồn tại nhiều bất cập và chưa được coi trọng đúng mức, thậm chí chỉ

22


được tiến hành một cách hình thức, qua loa đại khái cho đủ thủ tục, dẫn đến chất lượng
thẩm định và phê duyệt không cao.
Thứ tư, công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội còn hạn chế,
dẫn đến chưa phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, cộng
đồng trong việc tham gia gìn giữ và bảo vệ mơi trường.
Thứ năm, trình độ chun mơn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác bảo
vệ môi trường còn hạn chế; phương tiện kỹ thuật phục vụ cơng tác kiểm tra chưa đáp ứng
được địi hỏi của thực tiễn. Do đó, trong nhiều trường hợp, đồn kiểm tra không thể phát
hiện được những thủ đoạn tinh vi của doanh nghiệp thải các chất gây ô nhiễm ra mơi
trường.
Bảo vệ mơi trường sinh thái trong q trình CHN, HĐH hiện nay là yêu cầu cấp thiết đặt
ra đối với cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và của mọi

công dân. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, những năm qua Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về bảo vệ mơi trường, điển hình là
Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (Khố IX) về bảo vệ mơi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Chỉ thị số 29-CT/TW ngày
21/01/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính
trị; Luật Bảo vệ mơi trường (sửa đổi); các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện
Luật Bảo vệ môi trường... Các chỉ thị, nghị quyết, văn bản pháp quy này đi vào cuộc sống
đã bước đầu tạo ra một số chuyển biến tích cực trong hoạt động bảo vệ mơi trường, song
vẫn còn nhiều mặt chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Để ngăn chặn, khắc phục và
xử lí có hiệu quả những hành vi gây ô nhiễm môi trường, cần thực hiện đồng bộ một số
giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ mơi trường, trong đó những chế
tài xử phạt (cưỡng chế hành chính và xử lí hình) phải thực sự đủ mạnh để đủ sức răn đe
các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống quản lí mơi trường

23


trong các nhà máy, các khu công nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tổ chức
giám sát chặt chẽ nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người.
Hai là, tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường
(thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, nhất
là giữa lực lượng thanh tra môi trường với lực lượng cảnh sát môi trường các cấp, nhằm
phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường của
các tổ chức, cá nhân. Đồng thời, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ
cán bộ chuyên trách công tác môi trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để
phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này.
Ba là, chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng
nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính tốn kỹ lưỡng, tồn diện các
xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu

đồng bộ, chồng chéo như ở nhiều địa phương thời gian vừa qua, gây khó khăn cho cơng
tác quản lí nói chung, quản lí mơi trường nói riêng. Đối với các khu cơng nghiệp, cần có
quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu gom, xử lí nước
thải tập trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng thời thường xuyên có báo cáo
định kỳ về hoạt động xử lí nước thải, rác thải tại đó.
Bốn là, chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác động môi
trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chun mơn tham mưu chính xác
cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc cấp hay không cấp giấy phép đầu tư. Việc
quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt
với những ảnh hưởng của nó đến mơi trường về lâu dài. Thực hiện công khai, minh bạch
các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và cơng dân có thể tham
gia phản biện xã hội về tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó.
Năm là, đẩy mạnh cơng tác tun truyền, giáo dục về mơi trường trong tồn xã hội nhằm
tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường,
trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ mơi trường;

24


xây dựng ý thức sinh thái, làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai
trị, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên - con người - xã hội.

Có thể khái quát cấu tạo của phần triển khai này như sau:
- Nguyên nhân của ô nhiễm môi trường: do những năm đầu đổi mới chỉ tập trung phát
triển kinh tế chứ chưa quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ mơi trường. Ngồi ra cịn do
sự lỏng lẻo cũng như thiếu hợp tác của các cơ quan chức năng trong việc bảo vệ môi
trường.
- Đối tượng gây ra ô nhiễm: hoạt động sản xuất của nhà máy trong các khu công nghiệp,
hoạt động làng nghề và sinh hoạt tại các đô thị lớn.
- Các loại ô nhiễm môi trường chính: ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ơ nhiễm khơng khí.

- Thực trạng của ơ nhiễm môi trường tại nước ta (theo báo cáo của Bộ Tài ngun và
Mơi trường)
• Thực trạng
• Một số ngun nhân cụ thể của thực trạng ấy
- Một số giải pháp cho vấn đề bảo vệ mơi trường:
• Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như các chế tài xử phạt
• Tăng cường cơng tác thanh tra, kiểm tra, giám sát…
• Chú trọng cơng tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng
nghề, các đơ thị, đảm bảo tính khoa học cao.
• Chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác động môi
trường đối với các dự án đầu tư để tư đó xem xét việc cấp giấy phép đầu tư
• Đẩy mạnh cơng tác tun truyền, giáo dục về môi trường.
 Phần triển khai gồm 18 đoạn văn đã đảm bảo các phần để làm rõ luận để. Bên cạnh
hệ thống luận điểm rõ ràng là các luận chứng, luận cứ ngắn gọn nhưng vô cùng xác đáng.

25


×