Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

He thong hoa kien thuc bien dao Binh Thuan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.19 MB, 49 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>GIẢI PHÁP DỰ THI HỘI THI SÁNG TẠO KỸ THUẬT TỈNH BÌNH THUẬN LẦN THỨ VI (2014-2015) ĐỀ TÀI. HỆ THỐNG HÓA KIẾN THỨC BIỂN ĐẢO BÌNH THUẬN Người thực hiện LÊ MINH ĐẠO (Giáo viên Lịch sử, phó hiệu trưởng Trường THPT Dân tộc Nội trú tỉnh Bình Thuận). HUỲNH VĂN THÔNG (Giáo viên Giáo dục Công dân, tổ trưởng chuyên môn Tổ Sử - GDCD Trường THPT Dân tộc Nội trú tỉnh Bình Thuận). MỤC LỤC Trang. I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI……………….……………...…..….….………..2 II. KHẢO SÁT THỰC TRẠNG…...………………….…..…….….……….3 III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU……………………….…..………..………7 IV. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU…………………………….…..……….……….7 V. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU…………………….…..………...….…….7 VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU…………..…………………….…….………7 VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…………………….…………….….7 VIII. NỘI DUNG …………...……………………..………………..………9 1. Biển và các làng chài ven biển Bình Thuận………………………..9 2. Các đảo ở Bình Thuận…………………………………………….23 IX. BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH…………………………………………….42 1. Về phía học sinh…………………………………………………..42 2. Về phía giáo viên………………………………………………… 42 X. HIỆU QUẢ VÀ KHẢ NĂNG PHỔ BIẾN CỦA ĐỀ TÀI………..…… 43 1. Kết quả bước đầu: ………………………………………………..43 2. Khả năng phổ biến của đề tài: ………………………………….... 45.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Đất nước - hai tiếng ấy gợi nhắc chúng ta biết bao điều thiêng liêng, ấm áp. Yêu nước, yêu Tổ quốc là tình cảm quý báu luôn thường trực trong trái tim của mỗi người con đất Việt. Tự nó đã đan dệt thành lịch sử và có thể nói lịch sử dân tộc Việt Nam cũng chính là lịch sử của lòng yêu nước. Đất nước ta không chỉ là đất liền mà còn gắn với vùng trời, vùng biển và các đảo. Trong khi đó, biển đảo Việt Nam hiện nay đang là đề tài mà cả nước luôn quan tâm hướng đến. Chính vì tầm quan trọng của nó mà từ 2002, tài liệu tuyên truyền về biển đảo được đưa vào giảng dạy cho học sinh, sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Còn đối với bậc THPT, đặc biệt học sinh trường PT. DTNT tỉnh thì chưa được dịp tiếp cận, các em chỉ biết đến qua các cuộc thi kể chuyện, tìm hiểu biển đảo Việt Nam, viết thư thăm hỏi các chú lính hải quân..., phần lớn nội dung này đều gắn với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Việt Nam với chiều dài bờ biển hơn 3200km, bao gồm hàng trăm đảo lớn, nhỏ với hàng nghìn dinh, vạn dọc theo bờ biển để phục vụ cho việc ra khơi đánh bắt góp phần thể hiện chủ quyền biển đảo nơi nghìn trùng. Bình Thuận là một tỉnh duyên hải, lưng tựa vào dãy Trường Sơn mắt nhìn ra biển đông với bờ biển dài hơn 205 km từ Tuy Phong đến LaGi với rất nhiều hòn, đảo, dinh, vạn khác nhau. Do đó việc tăng cường nhận thức về biển đảo quê hương, biết thêm được nhiều nguồn cội của biển đảo tỉnh nhà không chỉ là mong muốn của học sinh trường PT. DTNT tỉnh mà còn là mong muốn của những giáo viên làm công tác giảng dạy như chúng tôi. Để rồi mai đây, hành trang các em bước vào đời không chỉ là kiến thức được tiếp thu trên lớp mà còn là cả một niềm tự hào về biển đảo, đất và người Bình Thuận - một trong những nhân tố không thể thiếu trong quá trình giữ vững, bảo vệ chủ quyền biển đảo trong tình hình mới. Với vốn hiểu biết của mình các em có thể góp phần tuyên truyền, phổ biến đến người thân, bạn bè, bà con nơi bản làng của mình về biển, đảo Bình Thuận, góp phần xây dựng vững chắc “thế trận lòng dân” trong công cuộc bảo vệ, giữ gìn đất nước. Đó là lí do thôi thúc chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Hệ thống hóa kiến thức biển đảo Bình Thuận” cho học sinh trung học phổ thông..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> II. KHẢO SÁT THỰC TRẠNG Cho đến nay, đa số học sinh trường PT. DTNT Tỉnh đều được xét tuyển đầu vào nên chất lượng học sinh còn yếu, khả năng thông hiểu và diễn đạt tiếng Việt ở một số em còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, các em phải sống xa nhà, thiếu sự quan tâm nhắc nhở kịp thời của cha mẹ. Vào trường, các em chỉ chú trọng học văn hóa, đặc biệt đối với các kiến thức thuộc lĩnh vực văn hóa xã hội các em biết rất ít. Khi được hỏi: em biết gì về biển, đảo Bình Thuận? chỉ có một số ít em biết được qua…các chương trình trên tivi. Chính vì thế góp phần nâng cao nhận thức về biển đảo Bình Thuận trong tình hình mới là điều mà giáo viên như chúng tôi mong muốn được làm. Trong khuôn khổ đề tài này, thông qua việc sử dụng tiết hoạt động ngoại khóa với thời lượng không phải là nhiều, chúng tôi mong muốn rằng học sinh trường PT.DTNT tỉnh có thêm được những kiến thức nhất định về biển, đảo Bình Thuận, từ đó càng củng cố tinh thần yêu quê hương đất nước và ý thức bảo vệ giữ gìn chủ quyền biển, đảo của đất nước. Để làm đề tài này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát đối với học sinh khối 11 và khối 12 một số câu hỏi như sau: 1. Cù lao câu thuộc địa phương nào của tỉnh Bình Thuận: a. Huyện Tuy Phong. b. Huyện Bắc Bình. c. Huyện Hàm Thuận Bắc. d. Huyện Hàm Thuận Nam. 2. Dinh vạn Thủy Tú ở Phan Thiết thờ Cá Ông (cá Voi) nhằm mục đích gì? a. Cầu mưa thuận gió hòa. b. Cầu mùa màng tốt tươi. c. Cầu trời yên biển lặng. d. Cầu con cháu đầy đàn. 3. Sách Đại Nam nhất thống chí (tập 12) có ghi rằng: “Đảo ấy chu vi hơn 200 trượng, từ mặt nước đến trên đỉnh 30 trượng, cây cổ thụ sum suê. Trên đỉnh núi có ngôi đền cổ thờ tượng đá A-diễn-bà…” là nói đến hòn đảo nào của tỉnh Bình Thuận: a. Đảo Phú Quý. b. Đảo Hòn nghề. c. Đảo Hòn Ghềnh. d. Đảo Hòn Bà..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> 4. Tấm ảnh bên là phong cảnh nơi nào của tỉnh Bình Thuận?. a. Làng chài Phước Lộc, LaGi. b. Làng Chài Văn kê, Hàm Thuận Nam. c. Gành Son, Tuy Phong. d. Bàu Trắng, Bắc Bình.. 5. Các vua triều Nguyễn ban tặng sắc phong cho Công Chúa Bàn Tranh và giao cho các làng trên đảo Phú Quý thờ phụng vì: a. Công nhận công chúa Bàn Tranh là người đầu tiên có mặt trên đảo Phú Quý. b. Muốn ghi nhận những công lao to lớn của công chúa Bàn Tranh về tạo lập làng mạc, bảo vệ vùng hải đảo phía Nam của đất nước. c. Vì công chúa Bàn Tranh đã lãnh đạo nhân dân Phú Quý chống nạn cướp biển. d. Muốn ghi nhận những công lao to lớn của công chúa Bàn Tranh trong việc dạy dân Phú Quý đánh bắt cá. 6. Đảo cách đảo Phú Quý 70 km, có hình dạng là một khối đá vuông cạnh mọc thẳng đứng; Là một trong các điểm cơ sở nằm trên đường cơ sở của Việt Nam, đó là: a. Hòn Tranh. b. Hòn Trứng. c. Hòn Giữa. d. Hòn Hải..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> 7. Hải đăng kê gà cổ kính nhất Việt Nam nằm trên đảo Khe Gà thuộc thôn nào? a. Thôn Tả Tân. b. Thôn Văn Kê. c. Thôn Tam Tân. d. Thôn Phước Lộc. 8. Đây là ảnh hòn đảo nào thuộc huyện Phú Quý, Bình Thuận?. a. Hòn Đỏ. b. Hòn Đen. c. Hòn Đồ Nhỏ. d. Hòn Đá Tý.. 9. Cù Lao Thu hay Cù Lao Khoai xứ là tên gọi khác của: a. Đảo Phú Quốc. b. Đảo Hòn Bà. c. Đảo Hòn Tranh. d. Đảo Phú Quý. 10. Huyện đảo Phú Quý cách thành phố Phan Thiết: a. Khoảng 56 hải lý. b. Khoảng 156 hải lý. c. Khoảng 65 hải lý. d. Khoảng 165 hải lý. 11. Hòn đảo nào nằm phía đông nam và cách Phú Quý 60 km, là hòn đảo mới hình thành năm 1923 do hoạt động phun trào dưới lòng biển Đông? a. Hòn Đỏ. b. Hòn Đồ Lớn. c. Hòn Đồ Nhỏ. d. Hòn Giữa. 12. Theo Đại Nam nhất thống chí của triều Nguyễn: “một hòn đảo đột khởi giữa biển khơi, tiếp thẳng bờ biển Phan Rí, đảo dài 150 dặm, bốn bên đều là bãi cát” là hòn đảo nào? a. Cù Lao Câu. b. Đảo Phú Quý. c. Hòn Ghềnh. d. Hòn Nghề..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> 13. Chiều dài bờ biển Bình Thuận từ Cà Ná đến Bình Châu là: a. Dài 192 km. b. Dài 129 km. c. Dài 292 km. d. Dài 200 km. 14. Dinh Vạn Thủy Tú (Phan Thiết) hiện đang trưng bày một bộ xương cá voi được xem là: a. Lớn nhất Việt Nam. b. Lớn nhất thế giới. c. Lớn nhất Đông Nam Á. d. Lớn nhất Châu Á. 15. Hiện nay, hình thức các tàu cá liên kết thành các tổ, đội khai thác thủy sản trên biển còn nhằm: a. Giúp tăng sản lượng đánh bắt. b. Giảm chi phí. c. Tăng tính an toàn trên những chuyến biển. d. Là những “cột mốc sống” góp phần khẳng định và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc ở khơi xa. Kết quả:. Sĩ số học sinh. Học sinh Học sinh Học sinh Học sinh Học sinh trả lời trả lời trả lời trả lời trả lời đúng từ đúng từ đúng từ 79 đúng từ 46 đúng dưới 1315 câu. 1012 câu. câu. câu. <= 3 câu. K11/270hs. 25. 31. 59. 78. 37. K12/240hs. 32. 71. 84. 58. 35. TC: 510hs. 57. 102. 143. 136. 72.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: - Giúp học sinh hiểu, biết có hệ thống tiêu biểu các làng chài, dinh vạn, các hòn, đảo nằm trong địa bàn của tỉnh Bình Thuận - Đề tài làm rõ thực trạng nhận thức về biển, đảo quê hương Bình Thuận của học sinh trường TP.DTNT tỉnh như thế nào? Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện tốt việc tổ chức sinh hoạt ngoại khóa về biển, đảo cho các đối tượng học sinh khác nhau trong những năm sau. - Góp phần tuyên truyền đến gia đình, địa phương nơi học sinh sinh sống nhằm nâng cao ý thức yêu quê hương đất nước và trách nhiệm bảo vệ biển, đảo của tổ quốc. IV. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU: - Xuất phát từ nhận thức của học sinh về ý thức chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. - Thực tế dạy học và tìm hiểu về biển đảo của học sinh cấp THPT. - Tài liệu tìm hiểu biển đảo của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo. - Buổi sinh hoạt ngoại khóa tuyên truyền về biển, đảo Bình Thuận do nhà trường tổ chức. V. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Học sinh trường PT. Dân Tộc Nội Trú Tỉnh. VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: - Làm rõ cơ sở lý luận trong việc thực hiện việc tuyên truyền biển, đảo cho học sinh cấp trung học trên địa bàn tỉnh Bình Thuận. - Phân tích thực trạng nhận thức của học sinh về biển, đảo tỉnh nhà. - Đề xuất những giải pháp nhằm giúp học sinh nâng cao ý thức giữ gìn chủ quyền quốc gia. VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Các phương pháp nghiên cứu bao gồm: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp xử lý thông tin. - Phương pháp trực quan. - Phương pháp đàm thoại. - Phương pháp quan sát thực tiễn. - Phương pháp tổ chức sinh hoạt tập thể..

<span class='text_page_counter'>(8)</span>

<span class='text_page_counter'>(9)</span> VIII. NỘI DUNG 1. Biển và các làng chài ven biển Bình Thuận: Bình Thuận là tỉnh có dãy đất bắt đầu chuyển hướng từ nam sang tây của phần còn lại của Việt Nam trên bản đồ hình chữ S, có tọa độ địa lý từ 10o33'42" đến 11o33'18" vĩ độ Bắc, từ 107o23'41" đến 108o52'18" kinh độ Ðông. Phía bắc của tỉnh Bình Thuận giáp với tỉnh Lâm Đồng, phía đông bắc giáp tỉnh Ninh Thuận, Phía tây giáp tỉnh Đồng Nai, phía tây nam giáp Bà Rịa-Vũng Tàu, ở phía đông và nam giáp biển Đông. Bình Thuận có bờ biển dài 192 km kéo dài từ mũi Đá Chẹt giáp Cà Ná thuộc Ninh Thuận đến bãi bồi Bình Châu thuộc địa phận tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bình Thuận là một tỉnh duyên hải có vùng biển rộng, có hải đảo và nằm cạnh đường hàng hải quốc tế. Hiện tại, cảng Phan Thiết có thể tiếp nhận tàu 2.000 tấn và cảng biển Phú Quý đã xây dựng xong, tiếp nhận tàu 10.000 tấn ra vào. Bình Thuận có vũng lãnh hải rộng 52 nghìn km² nên Bình Thuận là một trong ba ngư trường lớn của Việt Nam trữ lượng khai thác đánh bắt hải sản đạt 240.000 tấn hải sản các loại, là điều kiện chế biến thủy sản xuất khẩu. Sò điệp là đặc sản của biển Bình Thuận, tập trung ở 4 bãi chính là: La Khế, Hòn Rơm, Hòn Cau và Phan Rí, cho phép đánh bắt 25-30 nghìn tấn/năm. Ai về Bình Thuận quê tôi Mà xem Mũi Né, Hòn Bà, Đồi Dương Hòn Rơm, Cà Ná mến thương Lầu Ông Hoàng đó, Gành Son, Tháp Chàm…” Những câu ca dao mộc mạc đã giới thiệu khái quát được những cảnh đẹp sơn thủy hữu tình nổi tiếng của một tỉnh Nam Trung bộ với biển xanh, cát trắng, nắng vàng. Nói đến làng chài, Bình Thuận có rất nhiều làng chài yên ắng, thơ mộng nằm rải rác từ huyện Tuy Phong cho đến thị xã LaGi. Tuy Phong, có bờ biển thật đẹp, hoang sơ, quyến rũ kéo dài từ Cà Ná đến Hòa Phú. Nơi có bãi đá đẹp nhiều màu sắc nhất phải kể đến Bình Thạnh. Chùa Cổ Thạch nổi tiếng cũng được người xưa xây dựng trong các hang đá nguyên sơ nằm sát.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> bờ biển. Vào buổi sáng tinh sương hay những buổi chiều êm ả, biển lặng, từ trên Gành Son có thể nhìn thấy toàn cảnh làng chài nhộn nhịp, ấm cúng ở gần đó. Cũng chính nơi này, 165 năm trước vua Tự Đức ban sắc chỉ, sắc phong cho các cai đội thủy binh Bình Thuận ra khơi bảo vệ biển đảo, tuần tra trên biển từ Khánh Hòa đến Bình Thuận (tức gồm cả Trường Sa) “Thí sai Suất đội Lê Non thuộc đội 5 đội thủy vệ Bình Thuận đã kinh qua chức Thí sai do viên Cai tỉnh đề cử. Nay Bộ binh đồng ý chuẩn y bổ thụ giữ chức Chánh đội trưởng Suất đội Suất nội đội binh thủy đồng thời cai quản việc điều động người thi hành công vụ. Nhược bằng không làm tròn nhiệm vụ thì theo luật binh mà xử phạt. Kính đấy!”. Ngày 29 tháng 5 năm Tự Đức thứ 17 (1863). Và: “Hiệp quản Lê Non thuộc Tinh binh Suất đội thủy vệ Bình Thuận đã được ân chuẩn thăng một trật, nay Cai tỉnh y theo đó chuẩn thăng làm Cai đội tinh binh đồng thời cai quản đội biện binh. Phàm mọi việc cứ y theo lệ mà thừa hành. Nhược bằng không làm tròn nhiệm vụ thì theo luật binh mà xử phạt. Kính đấy!”. Ngày 8 tháng 5 năm Tự Đức thứ 23 (năm 1869). Theo thạc sĩ Nguyễn Xuân Lý - Giám đốc Bảo tàng Bình Thuận, đây không chỉ là tài liệu quý giá mà gia đình dòng họ lưu giữ hơn một trăm năm qua, mà nó còn minh chứng cho chủ quyền của Tổ quốc; là báu vật vô giá mà bậc tiền nhân dòng họ Lê để lại. Biển Tuy Phong có nguồn hải sản phong phú, đa dạng, trữ lượng lớn nên rất phát triển các ngành công nghiệp nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy hải sản. Qua khỏi Gành Son là thị trấn Phan Rí Cửa nằm bên bờ sông Lũy và bên kia sông đã là xã Hòa Phú. Khoảng nửa cuối thế kỷ XVIII, tộc họ Phan đã tạo lập nên một vạn lưới bên bờ tả con sông Lũy, có tên gọi là vạn Nam Bình. Nam Bình có nghĩa đây là vạn lưới của cư dân Quảng Nam trên đất Bình Thuận. Theo dần dòng thời gian, vạn Nam Bình ngày càng thu nạp thêm nhiều thuyền viên, chủ hộ để trở thành một vạn lớn và năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) đã đổi tên là vạn Tả Tân như hiện nay. Ngôi vạn được xem là trung tâm văn hóa tinh thần của cư dân sinh sống bằng nghề biển ở Phan Rí Cửa. Đây cũng là loại hình tín ngưỡng ngư nghiệp truyền thống đặc trưng nhất của ngư dân ở các tỉnh duyên hải từ Bắc Trung bộ trở vào. Cũng như những lăng vạn ở ven biển Bình Thuận, vừa là nơi thờ phụng các vị Hải thần, vừa.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> là nơi diễn ra nhiều nghi thức lễ lạc, hội hè liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng cá Ông và mùa màng làm ăn của ngư dân.. Sắc phong của vua Triều Nguyễn ban tặng cho vạn Tả Tân Hàng năm, tại vạn Tả Tân diễn ra ba kỳ lễ hội Cầu ngư. Trước khi thực hiện chánh lễ tế thần tại vạn, bà con ngư dân tổ chức đoàn ghe thuyền ra cửa biển để nghinh rước ông Nam Hải về vạn hưởng lễ. Đoàn rước mang theo các loại cờ lễ, bát bửu, đội nhạc lễ, đội chèo bả trạo, hương án… Kèm theo đó là những lễ nghi tín ngưỡng mang đậm sắc thái văn hóa biển để khấn cầu được chở che và phù hộ cho ngư dân đánh bắt trên biển được bình an, cầu cho mưa thuận gió hòa, ngư dân trúng mùa biển, tôm cá đầy ghe, cuộc sống yên vui và hạnh phúc. Lễ hội Cầu ngư thể hiện cách ứng xử đầy tính nhân văn giữa con người với môi trường tự nhiên cũng như giữa con người với con người. Giáp liền với Hòa Phú (Tuy Phong) là hàng chục cây số bờ biển hoang sơ, rất sạch của xã Hòa Thắng (Bắc Bình). Núi Hòn Hồng ngay sát bờ biển (Bãi Chùa - Hòa Thắng) có độ cao 236m, từ đó có thể phóng tầm mắt về vịnh Mũi Né bên cạnh. Nhìn từ phía xa, Hòn Hồng khoác lên mình chiếc áo màu đỏ của đất trông kỳ vĩ, hiên ngang, bất khuất giữa đất trời. Trải dài theo Hòn Hồng là một eo biển gồm những bãi đá thạch nham hùng vĩ như bãi Gành, bãi Xếp,.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> bãi Dơi nằm cạnh dãy động cát vàng óng tạo thành cảnh biển hiếm nơi nào có được. Hòn Nghề, một hòn đảo nhỏ nằm sát bờ, tô điểm thêm cho Hòa Thắng cảnh non nước hữu tình. Xa xa, giữa đồi cát trắng bỗng thấy xuất hiện một hồ sen chập chờn những chiếc lá xanh, những đóa hoa màu đỏ, nhị vàng tạo sự thanh bình, tươi mát. Ta có cảm giác như lạc vào chốn thiên thai. Đó là Bàu Trắng, một hồ nước hình thành từ lâu đời. Nước trong hồ rất ngọt và trong, một màu xanh mát dịu phủ lên những đồi cát trắng. Bàu Trắng chia thành 2 phần bởi một đồi cát vắt ngang qua. Nhân dân ở đây từ xưa đã gọi là Bàu ông và Bàu Bà, mặc dù Bàu nước do thiên nhiên tạo nên nhưng trong dân gian vẫn tỏ lòng biết ơn vì đã cung cấp nguồn nước nuôi sống con người và động vật rừng ở đây vào mùa khô. Người Chăm xưa đã dựng cạnh Bàu một đền thờ, nay dấu vết vẫn còn. Dưới ánh nắng chan hòa, trên xe vượt cát chạy dọc bờ biển qua Hòn Rơm đến Bàu Trắng, ta lắng nghe tiếng sóng, cảm nhận ngọn gió biển mát lạnh, hòa mình vào thiên nhiên thơ mộng mới cảm hết được sự mặn mà, cuốn hút của cát, của biển. Con đường nối Hòn Hồng về Phan Thiết, men theo bờ biển uốn lượn, một bên là mặt biển xanh dài và rộng như vô tận, một bên là những đồi cát trắng, vàng nhấp nhô. Chỉ có rừng, những ngọn đồi và biển nhưng cũng đủ để phác họa nên một khung cảnh như tranh vẽ. Được sự ưu đãi từ thiên nhiên, vùng đất Phan Thiết có nhiều bãi biển hoang sơ đẹp đến say đắm lòng người. Từ Mũi Né đến Tiến Thành, một hệ thống resort mọc lên san sát ven các bãi biển đã tạo nên một Phan Thiết năng động, nhộn nhịp. Làng chài Mũi Né không chỉ êm đềm và quyến rũ bởi cảnh quan thiên nhiên độc đáo, mà còn ẩn chứa nhiều âm điệu nhộn nhịp của cuộc sống miền biển. Dọc theo bãi ngang Mũi Né, tiếng trao đổi mua bán như xua tan không khí còn hơi sương của buổi sớm mai. Thanh âm cuộc sống ở vùng bãi ngang khởi đầu một ngày mới là như thế. Nó đã được lặp đi lặp lại trong suốt hàng trăm năm qua là âm thanh lao động của bà con ngư dân làng chài. Đặc điểm của nghề đánh bắt cá ven bờ ở Mũi Né là chỉ một ngày đêm. Thông thường bà con bắt đầu mỗi chuyến biển vào chiều tối và kết thúc vào.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> lúc mờ sáng. Thời gian đánh bắt còn phụ thuộc theo từng con nước và mùa vụ. Thường thì vào mùa cá Nam, khoảng 24 giờ khuya, các thuyền nghề đã bắt đầu nhổ neo. Còn vào các mùa đánh bắt khác trong năm, thì mỗi chuyến biển thường bắt đầu khuya ngày hôm trước cho đến 5 - 6 giờ hôm sau là kết thúc. Sau mỗi chuyến đánh bắt, ghe thuyền của ngư dân neo đậu ngoài xa, lúc này thúng chai là phương tiện hữu hiệu nhất để vận chuyển hải sản từ thuyền vào bờ.. Bãi ngang Mũi Né (Phan Thiết) Các làng chài bây giờ không đơn thuần làm biển để kiếm sống, mà bà con ngư dân ở đây vừa đánh lưới và vừa làm du lịch. Đây chính là một nét độc đáo ở làng chài Hàm Tiến - Mũi Né. Sở dĩ nói như vậy bởi hầu hết các sản phẩm đánh bắt dưới biển đa phần bà con chỉ bán cho khách du lịch chứ ít đi bán chợ như trước đây. Không những bán hải sản tươi sống, bà con làng chài còn chế biến hải đặc sản liên quan đến nghề biển như làm nước mắm. Biển Rạng nằm cách thành phố Phan Thiết khoảng 15 cây số về hướng Đông Bắc. Bình minh biển Rạng tuyệt đẹp. Từ mờ sáng, những chiếc thuyền con, thuyền thúng vào gần bờ chở đầy cá, mực, ghẹ... Giữa những tiện nghi, hiện đại của các khu resort, làng chài bãi Rạng như một điểm nhấn.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> của văn hóa biển. Đây thật sự là một không gian thư giãn thuần khiết thiên nhiên. Bãi Rạng rất cạn với bờ cát thoai thoải trải dài ra biển. Sóng biển không quá lớn nhưng cũng không phẳng lặng, đủ để vỗ về, tạo âm thanh rất riêng của biển. Trở lại hướng thành phố Phan Thiết vài ba cây số là bãi đá Ông Địa. Đây là khu vực tâm linh của người dân miền biển. Sóng bào mòn khối đá vô tình thành hình hài như một Ông Địa trong tín ngưỡng dân gian. Người ta đã lập miếu thờ, xem đó như một vị thần linh. Từ thời cổ đại, đã có cư dân sinh sống tại vùng đất này nên vẫn còn đó những dấu tích nét đẹp của văn hóa Chăm. Lầu Ông Hoàng nằm trong một quần thể núi, đồi, sông, biển, chùa, tháp… và đã để lại trong lòng đất di chỉ khảo cổ chứng minh có cuộc sống con người cách đây 2500 năm. Đó là những rìu đá thuộc thời đại đồ đá mới, những mộ vò bằng gốm thô, rất gần với nền văn hóa cổ Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam. Cách đó không xa là đô thị cổ Pajai (Phú Hài), khác với Phú Hài ngày hôm nay là nơi cửa biển, cuối nguồn con sông Cái. Chính từ cửa sông này, từng đoàn thuyền đã đi vào đô thị cổ Pajai, nơi có di chỉ khảo cổ Phú Trường (niên đại khoảng thể kỉ IV - I trước công nguyên). Những bằng chứng vật chất cho thấy người cổ Phú Trường là những cư dân nông nghiệp và thủ công nghiệp (làm gốm, dệt vải, luyện kim) chứ không phải những nhà buôn. Những trang trí hoa văn hình xương cá và in mép vỏ sò được sử dụng nhiều trên đồ gốm cho thấy có liên quan ít nhiều đến văn hóa biển. Từ khoảng giữa thiên niên kỷ I trước công nguyên, cư dân cổ ở Bình Thuận đã bắt đầu biết sử dụng đồ sắt, hình thành nền văn hóa “nông nghiệp ven biển” (Ha - mu - Li Thít tên gọi gốc của địa danh Phan Thiết, theo tiếng Chăm có nghĩa là Ruộng biển). Do ngư nghiệp là một nghề quan trọng nên không thể thiếu nghề đóng thuyền. Ban đầu là những chiếc thuyền đan từ tre, trét dầu rái để khỏi thấm nước. Sau đó, do nhu cầu đánh bắt xa khơi và trao đổi buôn bán với các nước lân cận nên những chiếc thuyền lớn được ra đời. Người Chăm thời trung đại từng có những đội thuyền chiến và thương thuyền nổi tiếng trong lịch sử. Cửa biển Phan Rí (Sông Lũy) và cửa biển Phú Hài (Sông Cái) từng là những hải cảng quan trọng của Bình Thuận thời trung đại. Tháp Chăm Pô.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> SanInư (xây dựng thế kỷ VIII) nhìn xuống cửa biển Phú Hài với trước mặt là đại dương mênh mông của vịnh Phan Thiết. Tuy tháp thờ nữ thần Pô Bia Tikuk là thần bảo hộ vùng Phan Thiết (con gái nữ thần PôInưNagar – thiên Yana) nhưng tháp cũng đóng vai trò như một ngọn “hải đăng” vì từ xa ngư dân đã có thể nhìn thấy trên đồi cao, tháp màu đỏ gạch vươn lên bầu trời xanh thẳm. Cũng chính từ nơi này đã có những mối tình mang niềm đớn đau qua nhiều thế kỷ. Một công chúa Chăm ngày ngày lên đồi cao trông chờ đoàn thuyền của người tình không bao giờ trở lại. Một bá tước người Pháp bị cuốn hút bởi biển trời Phú Hài đã xây một tòa lâu đài ở lại cho đến lúc qua đời. Để rồi Hàn Mặc Tử lại đến đây, mất người yêu vĩnh viễn và đau đớn thốt lên: “…Ôi trời ôi! là Phan Thiết Phan Thiết Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi Ta đến nơi Nường ấy vắng lâu rồi Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ…” Trước thế kỷ X, quan hệ trao đổi với nước ngoài chưa nhiều, nhất là bằng đường biển, do điều kiện kỹ thuật bấy giờ bị hạn chế. Quan hệ trao đổi với các thuyền bè nước ngoài chỉ trong phạm vi cung cấp cho họ nước uống, thực phẩm và bán lâm sản, …. Nhiều tư liệu của BaTư, Ả Rập từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ XIV cho biết người Chăm đào giếng rất trong, ngọt và không bao giờ cạn nước - Ở dưới chân cồn cát ven biển để “xuất khẩu nước lã cho các thương thuyền quốc tế đi vào biển Chăm pa”. Hiện nay di tích giếng cổ vẫn còn ở nhiều nơi trên đất Bình Thuận. Khi người Kinh, người Hoa đến định cư thì việc thương mại, đặc biệt là ngoại thương của cộng đồng người Hoa có bước phát triển rất lớn. Số lượng hàng hóa được trao đổi buôn bán bằng đường biển rất nhiều. Phan Rí, Phan Thiết dần dần mang dáng dấp của một đô thị. “Đại Nam nhất thống chí” đã viết: “Còn như thuyền chài cá, thuyền buôn bán qua lại tấp nập, cư dân trù mật, phố xá liền nhau, thì Phan Thiết cũng là một nơi đô hội nhỏ, mà Phan Rí là thứ hai”. Câu ca dao xưa “Cơm Nông Nại, cá Rí Rang” hay “Con trai Lại Yên, cưới vợ bằng một thiên cá mòi” (Tổng Lại Yên là nơi có cửa biển Phú Hài) cũng cho ta thấy, nghề biển là một ngành nghề tiêu biểu nhất và lâu đời trên đất Bình Thuận. Những sản vật từ biển đã nuôi sống và hun đúc lên ý chí và.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> nghị lực của con người Bình Thuận. Biển không những cho cư dân Bình Thuận cá, mực, tôm, sò mà từ nước biển còn làm ra những ruộng muối tập trung nhiều ở Phan Thiết, Phan Rí, Vĩnh Hảo và Cà Ná. Chính từ những nguồn lợi của biển, các cư dân đã quen thạo việc muối mắm và làm nước mắm, được truyền đời cho đến tận hôm nay. Tuy muộn hơn các ngành nghề khác nhưng nước mắm Phan Thiết đã nổi tiếng từ cuối thời trung đại và nước mắm đã sớm trở thành hàng hóa được các thuyền buôn trao đổi khắp trong Nam ngoài Bắc. Cá Ông là vị Thần thủy chung với ngư dân, thường cứu giúp ngư dân mỗi khi gặp nạn trên biển, nên được ngư dân kính yêu và tôn trọng. Xuất phát từ những lễ nghi tín ngưỡng xưa của người Chăm trở thành tín ngưỡng dân gian gắn với tín ngưỡng nghề nghiệp từ đời này qua đời khác theo phong tục và truyền thống của ngư dân. Ở Phan Thiết có các vạn lớn như vạn Hưng Long, vạn Nam Hải, vạn Phú Bình, vạn Khánh Long… và mỗi vạn đều có một nơi để thờ cá Ông... nhưng lớn nhất là Dinh Vạn Thủy Tú.. Dinh Vạn Thủy Tú.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Vạn Thủy Tú được ngư dân thiết lập vào năm Nhâm Ngọ 1762 bố trí theo hình chữ Tam mặt chính quay ra hướng Ðông. Chức năng của đình làng thường xây dựng để thờ Thành Hoàng làng và đình làng thường đi liền với các làng mạc nông nghiệp, còn Dinh, Vạn lại thờ cá Ông (cá Voi) và thường được xây dựng ngay sát bờ biển của các làng chài. Vạn Thủy Tú chứa gần 100 bộ xương cá Voi và quá nửa có niên đại trên 100 – 150 năm, trong đó có những bộ xương to lớn được thờ phụng tôn nghiêm. Trong khuôn viên của Vạn có một doi đất rộng, dùng để mai táng cá Ông mỗi khi ông “lụy” và dạt từ biển vào. Mỗi lần mai táng xong, sau 3 năm mới được thương cốt, nhập tẩm theo phong tục. Trong số ngư dân hễ người nào trông thấy “Ông” trước là người đó được làm “con trưởng” của Ngài, và người này phải lo làm đám tang chu đáo, để tang sau 3 năm mới hết hạn v.v… Ðiều đó cho thấy những phong tục, cử chỉ của ngư dân đối với cá Ông theo tín ngưỡng gần như quan hệ giữa người với người. Vạn Thủy Tú là một trong những Dinh, Vạn cổ xưa nhất của nghề biển ở Bình Thuận, được ngư dân làm nghề biển coi như Thủy tổ nghề biển. Trong Vạn chứa nhiều di sản văn hóa Hán – Nôm liên quan đến nghề biển và một số lượng lớn, sắc phong của các vị Vua Triều Nguyễn ban tặng để thờ cá Ông và các vị Hải Thần, vì trước đây trong chiến tranh phong kiến với nghĩa quân Tây Sơn, các tướng lĩnh nhà Nguyễn đã nhiều lần được cá Voi cứu nạn trên biển. Có 24 sắc phong của các đời vua: Thiệu Trị, Tự Ðức, Ðồng Khánh, Duy Tân, Khải Ðịnh, riêng Vua Thiệu Trị (1841 – 1847) đã ban tặng 10 sắc Thần là điều hiếm thấy so với các di tích khác. Vạn Thủy Tú đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 1996. Nói đến những danh lam thắng cảnh, những vùng địa linh nhân kiệt, bao giờ ta cũng thấy nó gắn liền với những lễ hội. Lễ hội Cầu Yên, chèo Bá Trạo, hội đua thuyền diễn ra rất sôi nổi, tươi vui, đẹp mắt. Tất cả đều in đậm dấu ấn của một nền văn minh từ quá khứ vọng về. Như thông lệ, mùng 2 tết Nguyên đán hàng năm hàng nghìn ngư dân vạn chài ở Phú Hài, Mũi Né, Bình Hưng, Đức Thắng, Hưng Long… và ngư dân vạn chài các huyện lân cận vẫn kéo về bờ kè sông Cà Ty để vui mừng với lễ hội đua thuyền truyền thống. Đầu tiên bao giờ cũng là lễ rước Thần Nam Hải, phản ánh tập tục văn hóa bao đời của ngư dân luôn cầu cho gió yên biển lặng, mưa thuận gió hòa..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Lễ rước lệnh Ông Sanh (Thần Nam Hải) từ Hòn Lao vào Cồn Chà Nằm ngay trung tâm vịnh Phan Thiết, Bãi biển Đồi Dương-Thương Chánh, cát trắng mịn chạy dài hàng chục cây số, thoải dần ra biển, là một bãi tắm lý tưởng, là nơi công cộng phục vụ cho cư dân thành phố và du khách. Xuôi về phía Nam của Vịnh Phan Thiết, qua hết làng cổ Tú Luông cũng là một trung tâm du lịch biển của Phan Thiết đang trở mình thức giấc nhưng đã sớm nổi tiếng vì sự hoang sơ rất riêng biệt của nó, đó là Tiến Thành – Thuận Quý. Theo “Đại Nam nhất thống chí” nơi đây xưa là “Xã Toàn Thịnh, thời Nhà Nguyễn đặt Trạm Thuận Lý cách 26 dặm là thôn Văn Kê”. Thôn Văn Kê vốn là một Làng chài cổ, nay cư dân vẫn làm nghề đánh cá là chủ yếu. Làng chài Văn Kê đẹp đến lạ kỳ, nét đẹp mặn mà bình dị như vài trăm năm trước đã có. Văn Kê dường như đẹp hơn, nổi tiếng hơn khi người Pháp xây trên đảo Khe Gà, cách bờ biển của Thôn có vài trăm mét, một ngọn Hải Đăng đẹp nhất Việt Nam. Tuy không nổi tiếng và sôi động như làng Tam Tân gần đó nhưng trên suốt dọc hành trình bờ biển Bình Thuận thì Làng chài Văn Kê luôn là điểm dừng không thể bỏ qua của lữ khách và là nỗi nhớ day dứt của những người con xa quê. Nói đến đất Tam Tân, một địa danh gần 200 năm dân lưu tán về đây hội tụ, là nói đến Dinh Thầy Thím. Sách Đại Nam nhất thống chí (quyển 12).

<span class='text_page_counter'>(19)</span> có ghi: “Ở thôn Tam Tân gần cửa Maly, từ đây người ta xuất khẩu cá tôm đi Tân Gia Ba mỗi ngày một nhiều… Đây là vùng khai hoang của nhóm Trương Định và những người yêu nước vượt ngục từ Côn Lôn về”. Đất Tam Tân, nơi ngày xưa có cửa tấn Ma ly, dưới triều Nguyễn lập Trạm dịch Thuận Trình và có lính canh giữ. Biển trời Tam Tân được vẽ qua câu thơ cổ đầy cảm xúc: “Phong táp sơn yêu truyền pháo hưởng Triều phiên hải giác trợ bề thanh” (có thể dịch là: Gió thổi vào sườn núi rền tựa súng Sóng cuộn góc biển như trống dồn vang). Từ câu chuyện sự tích Thầy Thím sâu sắc trong đời sống tâm linh cho đến một địa danh Tam Tân trở thành nơi phát tích bao sự kiện lạ lùng, thấm đẫm truyền thống dân tộc của địa phương. Sự kiện 6 người tù Côn Lôn vượt biển tấp vào ngảnh Tam Tân năm 1917, trong đó có Nguyễn Đình Kiên (Tú Kiên) hoạt động trong phong trào Đông Du, sau này là Bí thư kỳ bộ Tân Việt Nam kỳ, được người dân ở đây cứu thoát. Dinh Thầy Thím nối với Dốc Ông Bằng là di tích lịch sử cách mạng của thời kỳ xây dựng Đảng 1930 1931, đó là nơi hội họp thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của Bình Thuận. Nằm bên hữu ngạn sông Dinh, nơi có cửa biển LaGi nổi tiếng là Làng biển Phước Lộc hình thành từ thời nhà Nguyễn theo hành trình mở cõi về phương Nam. Do đời sống khắc nghiệt, nên cư dân vùng Ngũ Quảng đến cửa biển La Gi thấy có địa thế hưng thịnh, quyết định dừng chân lập nghiệp. Ban đầu chỉ vài nhóm nhỏ, sau đông dần. Hầu hết họ làm nghề đánh bắt hải sản, chỉ một số ít làm nghề nông. Khi quá trình khai khẩn đất đai và tạo lập xóm làng đi vào ổn định, người ta bắt đầu quan tâm đến việc xây dựng các thiết chế văn hóa tín ngưỡng, giữ gìn phong tục tập quán vốn có ở cố hương. Cuối thế kỷ XIX, Đình và vạn Phước Lộc được ra đời nằm cùng một khuôn viên rộng hơn 2.000m2 gần bến Chương Dương, chính điện thờ thần Nam Hải và Thành hoàng Bổn Cảnh. Vào đầu triều Nguyễn, làng Phước Lộc được chọn đặt một trạm dịch đưa công văn thư từ, gọi là trạm Thuận Phước, thuộc huyện Tuy Lý, phủ Hàm Thuận. Ngoài các nhóm dân cư Ngũ Quảng, năm 1867 sau khi ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp, làng Phước Lộc đã đón nhận.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> thêm một số hộ dân từ Nam bộ ra Bình Thuận tỵ địa. Một số người cho biết, lúc mới đến, làng Phước Lộc còn rất hoang sơ. “Sau khi ổn định nhà cửa, chúng tôi bắt đầu đóng thuyền, đóng ghe. Cá nhiều lắm. Sáng chỉ cần ra khu vực hòn Bà trở vào là đầy ghe hết. Có thể nói, cuộc sống làm ăn ở đây dễ dàng hơn ở quê cũ rất nhiều. Ai cũng lấy làm vui sướng và tin tưởng vào tương lai của vùng đất mới”.. Đình và Vạn Phước Lộc Từ đó Phước Lộc trở thành đất tụ cư của người tứ xứ. Cùng với sự phát triển chung của thị xã LaGi, làng biển Phước Lộc đang vươn lên từng ngày. Nhờ cần cù lao động mà người dân Phước Lộc có được cuộc sống ổn định. Diện mạo làng biển đổi mới rất nhiều. Đường phố trông thật khang trang. Dọc theo các ngõ phố là những dãy nhà kiên cố hiện đại. Cảnh sống phố phường trở nên đông vui. Sự thay đổi rõ nét ấy, ai đã từng sống một thời nơi đây đều có thể cảm nhận được. Dầu khí đang được xem là thế mạnh kinh tế mới của tỉnh Bình Thuận, với nhiều mỏ dầu có trữ lượng lớn đã được phát hiện, cách bờ biển La Gi 60 km có 3 mỏ dầu Rạng Đông, Sư Tử Đen và Rubi đang khai thác. Hai mỏ dầu Sư Tử Trắng và Sư Tử Vàng chuẩn bị khai thác. Bình Thuận được quy.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> hoạch để hình thành trung tâm dự trữ dầu mỏ nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và xuất khẩu. LaGi gần lắm với Xã Thắng Hải, là xã ven biển cuối cùng của tỉnh Bình Thuận, nơi giáp với Bình Châu – Xuyên Mộc tại cầu Nước Mặn … là chúng ta đã đi hết chiều dài bờ biển và các làng chài nổi tiếng của tỉnh Bình Thuận.. Làng chài Tuy phong.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Làng chài bãi Rạng (Phan Thiết).

<span class='text_page_counter'>(23)</span> 2. Các đảo ở Bình Thuận: Ngoài quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nước ta còn có trên 4000 hòn đảo chìm nổi, lớn nhỏ khác nhau trải theo chiều dài của đất nước. Riêng Bình Thuận, xa nhất về phía bắc của tỉnh là Cù Lao Câu. Cù Lao Câu (tên khác là Hòn Cau) là một hòn đảo nhỏ chỉ cách bờ biển xã Vĩnh Tân, Huyện Tuy Phong (Bình Thuận) khoảng 9 km và cách TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận khoảng 110km về hướng Đông Bắc, có chiều dài trên 1.500m, nơi rộng nhất gần 700m, nơi cao nhất chỉ 7m, nổi lên giữa biển khơi như một “chiến hạm”. Tùy theo từng bến đi nhưng trung bình đi ghe máy độ 40 phút sẽ đến đảo. Toàn đảo bao quanh bởi hàng vạn khối đá có nhiều màu sắc và hình thù khác nhau. Đảo khá nhiều đá chồng, đất ít. Cả đảo chỉ có một cái giếng nước ngọt, nước tuy ít nhưng đó là nước nhỉ thường xuyên nên sách xưa gọi là giếng Tiên. Sở hữu làn nước biển trong veo cùng các bãi đá trải dài, Cù Lao Câu dường như đẹp trong mọi thời điểm. Quanh đảo có nhiều loại hải sản sinh sống, mà người giỏi nghề biển với công cụ đơn giản cũng có thể kiếm được thức ăn tươi. Là vùng đất nắng và gió, khí hậu khắc nghiệt nhất của tỉnh Bình Thuận, cái tên Tuy Phong cũng có nguồn gốc từ nơi giàu gió này mà ra. Theo địa thế của từng khu, nhiều cái tên độc đáo được dân đi biển đặt cho các bãi đá của hòn đảo nhỏ này như hang Yến, hang Ba Hòn, hang Tình Yêu, khe Sung Sướng, bãi Tắm Tiên, bãi San Hô, bãi Cá Suốt... Hang Yến một cái hang có hàng trăm con chim yến xây tổ, dân đi biển mùa hè thường ghé lại lấy trứng, lấy tổ yến, gần đây yến sinh sôi ngày càng nhiều do việc khai thác tự do đã bị ngăn cấm. Cạnh hang Yến là hang Ba Hòn, một hang động lớn được tạo nên từ 3 hòn đá lớn dựng đứng. Đảo không có bóng cây, không quán xá, nên hang Ba Hòn là điểm dừng chân để nghỉ ngơi, tránh nắng và cảm nhận cái bao la, rộng lớn của đất trời và đón gió biển. Cùng với hang Ba Hòn, bãi Tắm Tiên cũng là một sự kỳ diệu được đá tạo nên. Đó là một khu vực khép kín với các dãy đá dựng đứng bao quanh. Nhưng điểm đặc biệt nhất của Cù Lao Câu là vùng nước xung quanh có sự hiện diện của các hệ sinh thái biển nhiệt đới điển hình, đó là những rạn san hô và thảm cỏ biển, có giá trị lớn về đa dạng sinh học. Đây còn là nơi.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> sinh sống và là bãi đẻ của nhiều loài thủy sinh vật quý hiếm. Nước trong veo, xanh ngắt để lộ bên dưới những rặng san hô sống đủ hình dáng, màu sắc. Do nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của hiện tượng nước trồi, nên khu vực này được xem là nơi có ý nghĩa lớn trong việc duy trì và bổ sung đa dạng sinh học, nhờ vào khả năng thích ứng san hô với sự thay đổi khí hậu. Đây là nơi mà cứ mỗi năm vào mùa gió Nam, ngành nông nghiệp Bình Thuận thả hàng tỉ con tôm, cá giống ra biển, để bổ sung nguồn giống hải sản cho địa phương.. Cù Lao Câu Từ xa xưa, ngư dân đã xây dựng miếu thờ vị nữ thần Thiên Yana (vị nữ thần Chăm) trên Cù Lao Câu. Ngày 14.4 Âm lịch hàng năm, trên Cù Lao Câu ngư dân Tuy Phong sẽ tổ chức lễ nghinh cúng tại miếu thần Thiên Yana và lễ cúng thỉnh ngư cùng với hát bá trạo cầu cho mùa yên biển lặng. Lễ hội cầu ngư trên đảo Cù Lao Câu thu hút rất nhiều người dân địa phương và du khách. Ngày nay, Cù Lao Câu được UBND tỉnh Bình Thuận thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên biển với diện tích mặt nước hơn 22 km2 xung quanh được bảo vệ nghiêm ngặt. Hòn Nghề có diện tích khoảng 700 m2, cách bờ biển thôn Hồng Chính xã Hòa Thắng (Bắc Bình) khoảng 1km. Hòn nghề là một đảo nhỏ chỉ.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> toàn đá, không có người sinh sống. Đã có lúc, một nhà doanh nhân dự định xây dựng trên hòn nghề một Casino nhưng chính quyền địa phương không đồng ý nên dự án này phải hủy bỏ. Ngày nay, hòn Nghề vẫn lẻ loi đứng nhìn từng đoàn thuyền đánh cá của các làng chài ven biển sớm chiều vào ra.. Hòn Nghề Hòn Ghềnh, ngư dân địa phương thường gọi hòn Lao hay hòn Lau, nằm ngoài khơi, cách Mũi Né chưa đầy 1 km, cao 30 mét so với mực nước biển. Từ trong đất liền nhìn ra, hòn Ghềnh tựa như con rùa biển khổng lồ đang bơi vào bờ. Cho đến bây giờ, hòn Ghềnh vẫn là ốc đảo hoang sơ, chỉ có cây dại, ghềnh đá và nhiều loài chim sinh sống, không có nhà dân, chỉ có một ngôi miếu thờ ông Nam Hải, ngư dân thay nhau hương khói quanh năm. Chung quanh đảo là những ghềnh đá lớn nhỏ chồng chất lên nhau, tạo nên những hang động. Bên dưới là những tầng san hô rất đẹp và lạ mắt. Đứng trên đỉnh hòn Ghềnh là nhìn bao quát được cả một vùng trời biển bao la … trái là dãy Mũi Né đâm ra biển, phải là hòn Rơm tạo thành vòng cung như đôi cánh tay ôm lấy biển. Đặc biệt, khu vực này có nhiều hải sâm (ngư dân gọi là đỉa biển) nằm ẩn mình trong những khe đá, được xếp vào loại hải sản.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> quý, nhiều chất dinh dưỡng. Hòn Ghềnh trong tương lai sẽ trở thành một điểm du lịch dã ngoại - sinh thái biển của Bình Thuận.. Hòn Ghềnh Hải đăng Kê Gà: Cho đến nay ngọn hải đăng này được xem là cổ kính nhất Việt Nam. Hải đăng nằm trên đảo Khe Gà, hòn đảo được đánh giá là nơi có cảnh trí đẹp nhất vùng biển Hàm Thuận Nam, Phan Thiết. Ngọn hải đăng Kê Gà với dáng đứng mạnh mẽ, cao vút trên nền trời xanh ngắt như khẳng định vị thế giữa một vùng biển trời tuyệt đẹp, màu xanh ngọc của nước biển hoà cùng màu xanh lơ của mây trời, màu trắng của những bãi cát dài, màu xanh của những rặng thùy dương và những ghềnh đá hoa cương trắng hồng đã tạo cho nơi đây một vẻ quyến rũ khó tả, nguyên sơ và yên bình. Ngọn Hải đăng này được xây dựng vào tháng 2/1897 do kiến trúc sư người Pháp Snavat thiết kế. Trên đỉnh ngọn tháp có bóng đèn lớn 2000W, có bán kính quét sáng là 22 hải lý, tương đương 40km, dùng làm tín hiệu hướng dẫn tàu thuyền qua lại xác định được vị trí và tọa độ. Dưới chân tháp có một con đường bê tông chạy thẳng xuống chân đồi, hai bên là hai.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> hàng hoa sứ dọc theo lối đi do người Pháp trồng từ khi bắt đầu xây ngọn hải đăng Kê Gà, cho đến nay vẫn còn nguyên vẹn và tỏa bóng mát quanh năm. Trải qua 112 năm, ngọn hải đăng Kê Gà hầu như không hề bị hư hại gì mặc cho mưa gió bão táp, muối mặn của biển cả. Tại đảo Kê Gà có hàng trăm hộ dân sinh sống. Nghề chính của họ là đánh bắt hải sản. Cứ mỗi sớm tinh mơ, từng đoàn thuyền chở đầy cá tôm vào trong bờ. Vùng biển nơi đây đã đem lại cho người dân có một cuộc sống ấm no.. Hải đăng nằm trên đảo Khe Gà Hòn Bà: Sách Đại Nam nhất thống chí (tập 12) có ghi rằng: “Đảo thiên Y ở ngoài cửa tấn La Di, phía nam huyện, tục gọi là Hòn Bà. Đảo ấy chu vi hơn 200 trượng, từ mặt nước đến trên đỉnh 30 trượng, cây cổ thụ sum suê. Trên đỉnh núi có ngôi đền cổ thờ tượng đá A-diễn-bà…”. Thực tế hiện nay, hòn bà là một hòn đảo nhô cao lên giữa biển có diện tích 2,8 ha, cách bờ biển LaGi gần 2km về hướng Ðông, cách Phan Thiết khoảng 70km về phía Ðông Nam. Hòn Bà là ngọn núi trẻ có đỉnh cao so mặt biển 38m, diện tích khoảng 2,8ha và đường chu vi chân đảo từ 700m - 800m. Dưới chân đảo là những bãi đá ngầm chỉ có một mảnh cát bồi nơi cặp.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> thuyền lên đảo. Đáy biển khu vực hòn bà là một dải rạn đá bí ẩn thể hiện qua bài vè thủy trình của những các lái ghe bầu ngày xưa thuộc nằm lòng: “Sóng ào ào buồm giương ba cạnh Chạy một hồi tỏ rạn La Gi Hòn Bà, rạn Gõ một khi Ngoài khơi rạn Đập, trong ni rạn Hồ…”. Cho nên biển La Gi nổi tiếng nhiều cá, đặc biệt là loài cá ở rạn như hồng, mú, kẽm, đỏ dạ…và cua ghẹ, ốc sò nhờ bởi chốn ẩn náu êm ả để sinh trưởng bầy đàn. Từ hòn Bà ra hướng biển khoảng 1 hải lý còn có một vài hòn đảo nhỏ như hòn Ngọc, hòn Chà… là những dải đá có khi bị chìm dưới mặt nước. Đứng từ bờ biển làng chài Tân Long (Thị xã LaGi), ta thấy rõ Hòn Bà đứng trơ vơ giữa biển Đông như thách đố trước giông tố của đại dương mênh mông. Một màu xanh rì phủ lấy hòn đảo nhỏ hình dáng như con rùa đang vội vã bơi về phương Nam. Cả hòn đảo gần như phủ kín màu xanh của các loại cây cổ thụ có nhiều năm tuổi, một khu rừng giữa biển khơi, khẳng định một sức sống mãnh liệt mà thiên nhiên đã ưu đãi và tạo nên một bức tranh thủy mặc quyến rũ, thơ mộng và đầy thách thức đối với con người. Hòn Bà là một thắng cảnh nổi tiếng từ xưa đến nay, có sức hấp dẫn ngoài thưởng ngoạn cảnh đẹp hoang sơ của đảo còn có thể nghiên cứu nền văn hóa Chăm tồn tại lâu đời ở đây. Đảo không có người dân sinh sống, chỉ có 1 - 2 người già ở trông coi đền thờ Nữ thần Thiên Ya Na được xây dựng trên đỉnh (có cao độ 49m so với mực nước biển). Tương truyền, ngôi đền này đã có từ thế kỷ thứ XVI do người Chăm xây dựng, để thờ nữ thần Thiên Y, với ước mong bà sẽ chở che và mang đến những điều bình an cho những con người đã trót chọn cái nghiệp lênh đênh trên biển cả làm sự sống... Giữa một không gian tĩnh mịch, chỉ có tiếng lao xao của rừng cây, tiếng rì rào của sóng, người giữ đền kể cho bạn nghe truyền thuyết về Hòn Bà, một câu chuyện tình đầy chất sử thi. Chuyện kể rằng, xưa có đôi vợ chồng trẻ sống thật hạnh phúc bên nhau trên mảnh đất LaGi chưa thêm dấu chân người. Họ ở với bếp lửa của người vợ và sống bằng muông thú chồng săn về trong động Bà Sang. Một hôm người chồng nghe tiếng con chim lạ hót. Chàng nghĩ ngợi, bàng hoàng. Thế rồi chàng xách ná, đeo tên đi theo tiếng chim về.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> hướng núi xa. Đến một vùng đất lạ, thú rừng không gặp nhưng ở quanh chàng hiện ra khung cảnh của ngàn hoa và những hình bóng mỹ nữ diễm kiều. Chàng quên cả lối về với người vợ chân quê. Ở nhà, nàng nóng lòng bên chảo nước réo sôi, lửa lại sắp tàn, mòn mỏi ngóng chờ chàng mang về những con thịt rừng và tấm da thú màu lông sặc sỡ. Ngày tiếp ngày, nàng vẫn kiên trì giữ hồng bếp lửa để chảo nước luôn sôi. Nhưng trong một đêm được báo mộng, người vợ hiểu ra chàng đã phụ bạc, quay lưng với tình yêu nồng ấm ngày nào. Nàng phẫn uất hất đổ chảo nước đang sôi như một lời thề đoạn tuyệt. Nàng dậm chân ba dậm, Động Bà Sang bỗng tách một phần đất để trở thành hòn đảo cô đơn chia lìa với bao kỷ niệm. Đó là Hòn Bà! Người ta nói có một thương buôn khi cập thuyền ghé đảo tránh gió, rung động trước nhan sắc của người chủ đảo, không cầm lòng được nên đã lỡ lời thô lỗ, suýt vong mạng. Nhưng Bà đã tha thứ và người thương buôn này xin tình nguyện làm kẻ hầu hạ bà suốt đời. Một truyền thuyết mang màu sắc đạo đức và chế độ mẫu hệ của người Chăm. Vào những thế kỷ trước, đi biển là nghề chính thu hút đông đảo ngư dân Chăm ven bờ mà dấu vết của những làng ngư cổ vẫn còn. Do vậy, việc thờ tượng Nữ thần ở đây cũng là sự cầu mong cho Nữ thần phù hộ, cứu nạn cho họ trên biển. Người Chăm đã xây ngôi đền trên ngọn của đảo để tôn vinh nữ thần của mình. Ngôi đền được kiến tạo hai tầng mái, tầng mái dưới tỏa rộng ra 4 hướng và tầng mái trên thu nhỏ vút cao lên như hình dáng một ngôi tháp Chăm, trung tâm đặt tượng thờ Thiên Ya Na bằng đá xanh được tạc trực tiếp trên tảng đá nguyên sinh ở đỉnh Hòn Bà, phần chân của pho tượng kết nối trực tiếp với khối đá lớn bên dưới. Tế lễ chính tại đền thờ Thiên Ya Na diễn ra và kéo dài trong 3 ngày từ ngày 21-23 tháng 3 âm lịch hàng năm. Trong những ngày diễn ra tế lễ hầu như cả hòn đảo chật cứng, người tấp nập lên xuống và quanh chân hòn đảo hàng trăm ghe thuyền neo đậu. Qua bao nhiêu thăng trầm, người Việt, người Chăm làng biển có dịp lại đến thắp hương cúng viếng ở đền để cầu nguyện những điều bình an cho mình và gia đình. Ngư dân địa phương và các tỉnh lân cận tề tựu về đây cùng có chung mục đích chiêm bái, thỉnh nguyện Thiên Ya Na phù trợ được an lành, cuộc sống mưu sinh, lao động trên biển của họ được thuận buồm, xuôi gió và đánh bắt được nhiều tôm cá. Bên cạnh niềm.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> tin tín ngưỡng, những người đến đây gần như hòa vào không khí của lễ hội, họ cùng nhau trò chuyện, thăm hỏi và cùng ca hát, biểu diễn những điệu múa dân gian suốt đêm trong thời gian diễn ra lễ hội tại đảo. Người ta ngưỡng mộ và đến Hòn Bà vì ngôi đền cổ, vì sự ẩn hiện cổ tích của truyền thuyết và cũng vì vẻ đẹp lạ lùng của hòn đảo vừa gần gũi thị xã đất liền, vừa dạt dào biển cả. Thiên nhiên hoang sơ, sóng biển vỗ nhịp đều, từ Hòn Bà ta có thể thưởng ngoạn bầu không khí trong lành, mát mẻ, yên tĩnh và phóng tầm nhìn bao quanh cả dải đất liền rộng lớn từ cửa LaGi đến mũi Kê Gà.. Hòn Bà Không xa mấy với đất liền và gần lắm với Trường Sa là đảo Phú Quý. Phú Quý có diện tích 16 km² nằm ngoài khơi bờ biển Nam Trung Bộ (vị trí 10o29'B-10o31'B và 108o55'Đ- 108o59Đ), số dân 24.000 (2006). Huyện đảo Phú Quý cách thành phố Phan Thiết khoảng 56 hải lý (hơn 100 km) về hướng đông nam. Đã từ lâu đảo Phú Quý trở nên rất quen thuộc với nhiều người qua sử sách xưa dưới nhiều tên gọi: Cổ Long, Thuận Tịnh, Cù Lao.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Khoai Xứ, Cù Lao Thu... Từ năm Thiệu trị thứ 4 (1844) vì tiềm năng kinh tế dồi dào và số lượng đặc sản đáng kể biệt nạp cho Triều đình Huế, đảo được đổi tên từ Tổng Hạ sang Tổng Phú Quý trực thuộc huyện Tuy Phong, phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận. Theo Đại Nam nhất thống chí của triều Nguyễn: Đó là “một hòn đảo đột khởi giữa biển khơi, tiếp thẳng bờ biển Phan Rí, đảo dài 150 dặm, bốn bên đều là bãi cát”. Trong báo cáo ngày 1 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 13 (1832) của Cai đội Cao Văn Biên cho biết, đảo Thuận Tĩnh (một trong những tên trước đây của đảo Phú Quý) nếu dùng thuyền bè đi vòng quanh sườn núi chừng 4 tiếng đồng hồ thì giáp (từ đảo này nếu thuyền thuận gió thì đi 1 ngày đêm là đến bờ). Báo cáo đã ghi lại những phát hiện về địa lý tự nhiên và khảo tả đầy đủ, những địa danh được khảo sát về căn bản như tên gọi ngày nay. Trong đó ghi chép đầy đủ về vị trí, diện tích, thủy triều, độ sâu… có những vịnh có đá ngầm như Vịnh Đá Dù, Vịnh Thuế, Bãi Lăng, Vịnh Ông Lường, Vịnh Cây Chổi, Vịnh Núi, Vịnh Bãi Chùa, Vịnh Chà Tre …những chỗ này thuyền bè nên tránh xa. Nội dung của báo cáo này có từ năm Minh Mạng thứ 13 (1832), nhưng những vấn đề lưu lại trong đó không phải chỉ giúp cho triều đình nhà Nguyễn biết tường tận về địa lý hòn đảo và ngư dân Phú Quý tránh được những chướng ngại của tự nhiên, mà ngày nay vẫn rất cần cho ngư dân, đặc biệt là ngành hàng hải, giao thông đường biển tham khảo khi thiết lập những tuyến hải trình. Tuy là một hòn đảo nằm biệt lập giữa trùng dương nhưng dấu tích phát hiện được cho thấy trước khi có con người đến từ lục địa, ở đây đã có người cổ đại sinh sống bằng nghề hái lượm và bắt cá ven biển. Người ta đã tìm thấy những mộ vò lớn, trong mộ có chôn theo một số công cụ lao động như rìu, bôn và cả những chiếc vòng đeo tay bằng đá với kỹ thuật chế tác rất tinh xảo. Những di tích và phần mộ còn xót lại trên đảo cùng sự tích công chúa Bàn Tranh chứng tỏ người Chăm đã có mặt ở đảo này từ rất sớm. Chuyện xưa kể lại rằng: Lâu lắm rồi khi trên đảo chưa có người ở, một hôm, hàng chục chiếc thuyền lớn dẫn giải một người con gái xinh đẹp cùng đoàn tùy tùng hơn 100 người cả nam lẫn nữ ngược sóng ra khơi và cập vào đảo. Về sau người ta mới biết đoàn thuyền năm xưa là của Hoàng tộc Chăm. Còn người con gái trẻ đẹp xưa kia chính là công chúa Bàn Tranh, con gái út của.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> nhà vua Chăm, vì không vâng lời vua cha nên bị đày ra đảo. Hàng trăm năm sau, ở trên đảo đã hình thành nhiều làng mạc rộng lớn nối liền từ bờ Đông sang bờ Tây của đảo. Đó là những làng Chăm xưa do công chúa Bàn Tranh và đoàn tùy tùng lập nên. Sau khi nàng chết, người Chăm trên đảo đã xây đền thờ để thờ nàng tại đây.. Đền thờ công chúa Bàn Tranh Khi bắt đầu phát triển mạnh kỹ thuật đóng thuyền buồm ra được khơi xa cùng với sự bất mãn của nhân dân với triều đình phong kiến thì cũng là lúc có nhiều người từ lục địa đặt chân lên đảo, tìm đường ra đây lập kế sinh nhai. Ở các tỉnh miền trung lúc bấy giờ, những người cùng khổ phải phiêu dạt đi khắp nơi để kiếm sống thì Phú Quý là một điểm đến an lành mà họ đã tình cờ bắt gặp. Trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh (1627–1672), rất nhiều ngư dân thuộc các tỉnh duyên hải miền trung, hoặc chạy giặc lánh nạn, hoặc đi tìm nguồn cá, thuyền của họ vượt sóng trùng dương đã gặp phải những trận cuồng phong khốc liệt và dạt lên đảo. Cùng với người Kinh, vàơ thế kỷ 17, một số quan lại nhà Minh sau khi chống nhà Thanh thất bại, từng đoàn thuyền vượt biển tiến về phía nam, trong số đó có hàng chục thuyền đã quyết định dừng chân lập nghiệp ở Phú Quý. Người Hoa đến đây sống dựa vào các ngành nghề như dệt tơ lụa, buôn bán. Về sau, một số người do làm.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> ăn trở nên giàu có đã lần lượt tìm vào các thành phố lớn ở đất liền, chỉ một số ít còn lại trên đảo. Trải qua những biến thiên của lịch sử, Phú Quý là nơi hội tụ của nhiều luồng di dân với nhiều thành phần dân tộc khác nhau. Người Kinh nhìn nhận công chúa Bàn Tranh là người có công khai phá đảo đầu tiên và các thế hệ cư dân Phú Quý tôn vinh Bà là Chúa đảo. Những thửa ruộng trồng hoa màu của người dân bao quanh đền thờ được gọi là ruộng vua. Vẫn còn đó một số giếng Chăm cổ, phía dưới phần tiếp nước lát gỗ và phần trên xây đá, đó là những đặc trưng trong kỹ thuật xây giếng của người Chăm xưa. Những công lao to lớn của công chúa Bàn Tranh về tạo lập làng mạc, bảo vệ vùng hải đảo phía Nam của đất nước đã được các vua triều Nguyễn ghi nhận và ban tặng sắc phong, giao cho các làng trên đảo Phú Quý thờ phụng: “Hiển hách miếu thần ngàn năm còn đó Linh thiêng cung thánh vạn thuở chẳng dời” Câu đối khắc bằng chữ Hán gắn ở cột đền thờ với nội dung: “Linh thần hiển hách phù trong đảo Giúp nước thay trời cứu vạn dân” Khi dân cư ngày một đông hơn thì các hình thức tổ chức xã hội cũng dần được hình thành. Vào thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), chính quyền Đàng Trong đã tổ chức trên đảo thành ấp và làng. Từ một vài làng ban sơ đã sát nhập, chia tách và hình thành nên nhiều làng. Mỗi làng chỉ vài chục nóc nhà nhưng cũng phải phân chia ra như vậy, có lẽ theo từng nhóm địa phương nơi cố hương để hợp với phong tục tập quán và dễ sinh hoạt. Một phần nữa phân chia như vậy để vừa bảo vệ làng mạc của mình, đồng thời bảo vệ chủ quyền của đảo. Đến đời Lê Hiển Tông - Cảnh Hưng (1740 1786), nhà Lê đã tổ chức trên đảo thành 14 làng và 1 ấp. Tiếp đến từ năm Minh Mạng thứ 2 (1821), Phú Quý còn 11 làng và trong Đại Nam nhất thống chí cũng cho biết: “Dân ở bao quanh có 11 làng, dùng người thổ hào quản lãnh, thường năm phải biệt nạp thuế …”. Hiện nay, đảo được chia làm 3 xã: Long Hải, Ngũ Phụng, Tam Thanh. Bên cạnh đình làng, trên đảo Phú Quý còn có rất nhiều ngôi lăng, vạn thờ cá voi, đền thờ bà Chúa Ngọc (còn gọi là Pô Inư Na Gar hay Thiên Ya Na Diễn Ngọc Phi – được người Chăm tôn kính coi là Bà Mẹ Xứ Sở), đền.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> thờ Quan Thánh Đế Quân và đền thờ Bạch Mã Thái Giám… Đáng kể nhất là những di sản Hán Nôm ghi lại quá trình di dân, khai hoang, dựng đền thờ và vạn của cư dân làng Thương Hải ngày trước. Di tích được các vua triều Nguyễn ban tặng 10 sắc phong, trong số đó có 5 sắc phong thần cho Thiên Ya Na Diễn Bà Chúa Ngọc, 3 sắc phong cho Thần Nam Hải và 2 sắc phong thần cho Bắc trấn đô đốc Bùi Quận Công. Vua Gia Long nhà Nguyễn đã xếp Thiên Ya Na vào bậc “Hồng nhân phổ tế linh ứng Thượng đẳng Thần”. Đình Triều Dương là nơi tôn thờ Thành hoàng bổn cảnh làng và các bậc tiền nhân đã có công khai mở đất và tạo lập làng. Theo các nguồn tư liệu còn lưu lại trên đảo, đình Triều Dương được khởi dựng vào năm 1773 theo lối kiến trúc dân gian truyền thống của người Việt ở thế kỷ XVIII. Hiện nay, tại đình làng Triều Dương vẫn giữ được 5 sắc phong các vua triều Nguyễn ban tặng cho Thành hoàng bổn cảnh và chỉ dụ dân làng phụng thờ, phản ánh quá trình hình thành làng, tạo dựng đình ngày trước. Hàng năm, tại di tích diễn ra hai kỳ tế lễ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của dân cư trong làng với niềm tin cầu mong cuộc sống được an lành, no ấm… Xung quanh đảo chính Phú Quý còn có các đảo khác nằm dưới sự quản lí của huyện Phú Quý như: Hòn Tranh - Cách cảng Phú Quý 600m, nằm phía đông nam đảo Phú Quý với diện tích gần 40 ha (2.8Km2). Trước đây là một hoang đảo chủ yếu là cỏ tranh, không có dân cư sinh sống. Hiện là nơi đặt trạm ra-đa quan sát biển của lực lượng hải quân nhân dân Việt Nam. Hòn Đen - Nằm phía đông bắc thuộc xã Long Hải, cách bờ khoảng 1.5 km. Gồm toàn đá mẹ Bazan chưa phong hóa. Vào những lúc nước ròng có thể lội bộ ra Hòn Đen. Hòn Giữa - Đây là một dãy gành đá bén nhọn nằm cạnh Hòn Đen, nằm vắt ngang như một nhịp cầu nối liền Hòn Đen và Hòn Đỏ thuộc xã Long Hải. Hòn Đỏ - Nằm phía đông bắc thuộc xã Long Hải, cách bờ khoảng 1.5 km. Có tên là Hòn Đỏ vì ở đây toàn là đá màu đỏ. Hòn Đá Tý - Cách đảo Phú Quý 80–100 m..

<span class='text_page_counter'>(35)</span> Hòn Trứng - Nằm phía tây bắc, là cửa ngõ ra vào đảo, cách Phú Quý 13 km. Là điểm tựa của nhiều loại ghe thuyền. Mùa gió Nam thuyền có thể neo đậu ở phía bắc. Mùa gió Bắc có thể neo đậu ở phía nam. Hòn Đồ Lớn - Nằm phía đông nam và cách Phú Quý 60 km, là hòn đảo mới hình thành năm 1923 do hoạt động phun trào dưới lòng biển Đông. Lúc đầu có dạnh hình tròn với đường kính 40m, trên mặt có cát trắng và xung quanh có cạnh bậc thang thoai thoải. Hiện nay hình thành một bãi đá ngầm dài 700m và rộng gần 500m. Hòn Đồ Nhỏ - Nằm về hướng nam, cách đảo Phú Quý chừng 60 km. Hòn Hải - Cách đảo Phú Quý 70 km. Có hình dạng là một khối đá vuông cạnh mọc thẳng đứng; Là một trong các điểm cơ sở nằm trên đường cơ sở của Việt Nam. Đường cơ sở là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngoài của nội thủy, do quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo định ra phù hợp với công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 để làm cơ sở xác định phạm vi của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia (lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa).. Ví dụ minh họa về phạm vi của các vùng biển..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> Phú Quý trong một thời gian dài đã sống trong điều kiện khép kín tự cung tự cấp với những hoạt động kinh tế như trồng trọt, đánh bắt hải sản, một số ngành nghề thủ công như dệt vải, đan võng, ép dầu... Trong đó, ngư nghiệp đóng vai trò chủ đạo. Nằm giữa đại dương mênh mông, đảo Phú Quý dường như bị thu nhỏ lại, cuộc sống ở đây phải vật lộn với sóng to gió lớn hàng ngày, hàng giờ đòi hỏi con người phải tự lực tự cường, cùng đoàn kết đấu tranh chống lại những thế lực thù địch bên ngoài, nhất là bọn cướp biển. Theo tài liệu viết bằng chữ Hán Nôm “Vào thế kỷ XVIII - XIX, nạn hải tặc Tàu Ô (đi trên những chiếc tàu sơn đen), Đồ Bà (Java) đang hoành hành trên các đảo nhỏ và các vùng ven biển Việt Nam. Giặc Tàu Ô hay đột nhập vào cửa sông Bến Nghé đón đường cướp bóc tiền bạc, hàng hóa, bắt cóc người trên các thuyền buôn, gây bất ổn và cản trở việc thông thương giữa Gia Định với các tỉnh miền Trung”. Ở một văn bản đề ngày 10 tháng 9 năm Minh Mạng 14 (1833), Lý trưởng làng Thới An (của đảo Phú Quý) gửi cho triều đình Huế có báo cáo rằng, vào ngày 9 tháng 7 trong năm (1833), thình lình 23 chiếc thuyền của giặc Đồ Bà xuất hiện cập đến gần bờ và bắn chết 32 người dân trên đảo, trong đó có 4 người là dân làng Thới An. Cũng theo báo cáo của Lý trưởng 2 thôn Thới An và Hải Châu trình về việc ngày 7 tháng 2 năm Minh Mạng 18 (1837), lệnh vua truyền xuống 11 thôn trên đảo Thuận Tĩnh phải chia thành 5 toán. Riêng thôn Thới An và Hải Châu phải chia thành 2 toán để chống bọn cướp biển. Súng ống phân chia như sau: thôn Thới An 1 khẩu thần công, 4 khẩu điểu thương, 20 khẩu hỏa hổ, 5 cây trường thương, 5 cân thuốc súng. Thôn Hải Châu 1 khẩu thần công, 4 khẩu điểu thương, 20 khẩu hỏa hổ, 5 cây trường thương, 1 yến 2 cân thuốc súng (tương đương 12 kg). Trong vòng 36 năm kể từ năm 1797 đến 1833, nhân dân đảo Phú Quý đã ba lần bị hải tặc tấn công và phải chiến đấu để tự bảo vệ mình, giữ yên bình cho biển đảo. Bảo tàng Bình Thuận nay vẫn lưu giữ được một văn bản bằng chữ Chăm phản ánh triều đình nhà Nguyễn huy động dân làng Ko (làng dân tộc Chăm, thuộc đảo Phú Quý): “Làng Ko trình tấu với quan phủ về việc cử 3 chiếc thuyền đến Hoàng Sa và Trường Sa hỗ trợ việc cắm các mốc giới theo chỉ dụ”. Huyện đảo Phú Quý cũng là nơi có nhiều hùng binh tham gia hải đội Hoàng Sa và đội thủy.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> quân Triều Nguyễn sau này lập nên những kỳ tích của “Soái đội Hoàng Sa – Bắc Hải” nổi tiếng, tức là Hoàng Sa – Trường Sa ngày nay.. Văn bản bằng chữ Chăm phản ánh Triều Nguyễn huy động dân. làng Ko (Phú Quý) đến Hoàng Sa, Trường Sa cắm mốc giới biển. Nhờ những tài liệu gốc được lưu trữ chúng ta mới biết được người dân đảo Phú Quý bảo vệ và giữ gìn hòn đảo thiêng liêng của mình như thế nào. Những tài liệu đó cũng đã phần nào khắc họa nên cuộc sống đầy biến động của cư dân trên đảo, là bài học cảnh giác để sẵn sàng bảo vệ chủ quyền biển đảo của chúng ta; Là niềm tự hào của quê hương Bình Thuận đã có đóng góp xứng đáng vào việc khai phá và xây dựng chủ quyền lịch sử biển đảo của Việt Nam. Hiện nay, hình thức các tàu cá liên kết thành các tổ, đội khai thác thủy sản trên biển đã được nhiều địa phương trên cả nước triển khai mà đi đầu là tỉnh Bình Thuận đã mang lại hiệu quả thiết thực. Sự liên kết này không chỉ giúp tăng sản lượng đánh bắt, giảm chi phí mà còn tăng tính an toàn trên những chuyến biển. Trường Sa là một ngư trường lớn và quen thuộc của cư dân trên đảo Phú Quý từ nhiều đời nay. Không ít người trong số họ đã từng đặt chân lên gần hết các đảo của quần đảo Trường Sa. Những chuyến đi dài ngày của ngư dân Phú Quý luôn xem Trường Sa là nhà, nơi dừng chân quen thuộc để tiếp nguyên liệu, lương thực và nước uống hoặc đơn giản là đến để đặt chân lên mảnh đất xa xôi nhất của đất nước. Sự có mặt của họ trên các vùng biển xa bờ còn là những “cột mốc sống” góp phần khẳng định và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc ở khơi xa..

<span class='text_page_counter'>(38)</span> Hòn Tranh. Hòn Đen.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> Hòn Giữa. Hòn Giữa. Hòn Đỏ.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Hòn Đá Tý. Hòn Đá Tý. Hòn Trứng.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> Hòn Hải. Sắc phong của vua Tự Đức cho đội thủy binh Bình Thuận tuần tra trên biển từ Khánh Hòa đến Bình Thuận (tức gồm cả Trường Sa) IX. BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> 1. Về phía học sinh: Đây là đối tượng trực tiếp tiếp nhận kiến thức thông qua buổi sinh hoạt ngoại khóa, nên yêu cầu các em phải: + Tập trung đúng giờ, nghiêm túc. + Hăng hái cùng tham gia các trò chơi vận động, trắc nghiệm có thưởng, góp phần xây dựng buổi ngoại khóa hiệu quả, sinh động. Mạnh dạn nêu những thắc mắc mà các em vướng phải trong quá trình tìm hiểu. + Chủ động sưu tầm, tìm hiểu những thông tin để tham gia viết bài thu hoạch đạt hiệu quả cao. 2. Về phía giáo viên: - Xin ý kiến hiệu trưởng về chủ trương tổ chức ngoại khóa chuyên đề biển đảo Bình Thuận. - Lập kế hoạch, trình ban giám hiệu duyệt. - Thành lập ban tổ chức, phân công nhiệm vụ, dự trù kinh phí, chọn thời gian địa điểm tổ chức và cách tiến hành. - Tổ chức thực hiện theo kế hoạch. - Phát thưởng, kết thúc chương trình ngoại khóa, họp rút kinh nghiệm.. Đêm sinh hoạt ngoại khóa về biển đảo Bình Thuận tại trường PT.DTNT tỉnh..

<span class='text_page_counter'>(43)</span> Đêm sinh hoạt ngoại khóa về biển đảoBình Thuận tại trường PT.DTNT tỉnh. X. HIỆU QUẢ VỀ KHẢ NĂNG PHỔ BIẾN CỦA ĐỀ TÀI: 1. Kết quả bước đầu: Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng: học sinh trả lời đúng các câu trắc nghiệm đạt 100% (so với 59,2% các em làm đúng từ 7 đến 15 câu ở học kì I). Cuối học kì II chúng tôi đã tổ chức sinh hoạt ngoại khóa cho học sinh toàn trường (học kì I chỉ tổ chức tại lớp cho 2 khối 11 và 12), ngoài câu hỏi trắc nghiệm có yêu cầu học sinh viết câu hỏi tự luận và kết quả đạt được rất tốt, học sinh rất quan tâm chú ý và hào hứng. Điều này chứng minh được chương trình ngoại khóa tuyên truyền về biển đảo bình thuận đã thành công, bước đầu cùng với các hình thức tuyên truyền khác, hình thức tổ chức sinh hoạt ngoại khóa góp phần mang lại hiệu quả cao trong việc nâng cao ý thức chủ quyền biển đảo cho học sinh trường PT.DTNT tỉnh nói riêng và cho tất cả những ai quan tâm. Đó là nguồn động viên, khích lệ bản thân chúng tôi rất nhiều trong công tác giảng dạy. Chúng tôi tin chắc chắn rằng trong một tương lai không xa các em sẽ là một phần không thể thiếu trong hành trình bảo vệ chủ quyền biển, đảo bằng sức trẻ và.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> ý thức tự giác của mình, nhằm tiếp bước các thế hệ cha anh đi trước đã hy sinh một phần xương máu vì biển, đảo thân thương. Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của một em học sinh trình bày sau khi được tham gia sinh hoạt ngoại khóa: “…Bình Thuận là một tỉnh nằm ven biển, nơi đây là xứ sở của nắng và gió. Gió trời lồng lộng cuốn theo cái nắng gay gắt được hòa tan vào trong nước biển mặn nồng vị yêu thương. Chỉ có những ai đã từng sinh ra và gắn bó với mảnh đất này thì mới hiểu được cái cảm giác kỳ diệu ấy... tôi nguyện làm một người con của biển cả Bình Thuận, để có thể đón ánh bình minh trên biển vào mỗi buổi sáng, được cảm nhận sự kết thúc của ngày dài trong khoảnh khắc hoàng hôn, được nghe tiếng thở dài của bà mẹ biển khơi mỗi khi buồn và được vỗ về trong tiếng sóng yêu thương…và hơn hết là được góp một phần sức trẻ của mình vào công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước”…(Lô Thị Thanh Trúc, lớp 12.3).

<span class='text_page_counter'>(45)</span> 2. Khả năng phổ biến của đề tài: - Trong giờ ngoại khóa các em say mê theo dõi, háo hức khi lần đầu được biết nhiều về biển đảo ở tỉnh nhà. - Nhờ có hình ảnh và các tư liệu chân thật mà giáo viên có thể truyền đạt lượng thông tin về những vùng biển, hòn, đảo mà các em khó có dịp quan sát trực tiếp trong cuộc sống, giảm tính trừu tượng của kiến thức. - Góp phần tuyên truyền chủ quyền biển đảo tỉnh nhà, kịp thời uốn nắn những suy nghĩ, hành vi chưa đúng trên con đường khẳng định chủ quyền biển đảo. - Đề tài này còn là tài liệu tham khảo thiết thực cho các giáo viên, học sinh ở địa phương khác để phục vụ mục đích học tập, nghiên cứu tìm hiểu về biển, đảo Bình Thuận. Trong năm học vừa qua, đã có một số trường THPT trong tỉnh đã sử dụng đề tài của chúng tôi để giảng dạy tuyên truyền về Biển đảo theo chủ trương lớn của Đảng và nhà nước hiện nay. - Chúng tôi chắc chắn rằng, nếu được quan tâm đúng mức, đề tài này sẽ được sử dụng rộng rãi không chỉ ở trường PT. DTNT tỉnh mà còn cho học sinh bậc trung học phổ thông trong toàn tỉnh nhằm không ngừng nâng cao nhận thức chủ quyền về biển, đảo quê hương Bình Thuận. Tuy nhiên, đây mới chỉ là kết quả của riêng học sinh trường PT DTNT tỉnh, chắc chắn cần phải bổ sung thêm. Bản thân chúng tôi cùng các đồng nghiệp luôn nỗ lực hết mình trong những năm tiếp theo nhằm phát huy những kết quả đã đạt được, đồng thời tìm ra phương cách tối ưu nhất để khắc phục những hạn chế với mong muốn học sinh trường PT. DTNT sẽ học ngày càng tiến bộ, ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo không ngừng tăng cao..

<span class='text_page_counter'>(46)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. 2. 3. 4. 5.. Đại Nam Nhất thống chí - Quốc Sử quán Triều Nguyễn. Minh Mệnh chính yếu - Quốc Sử quán Triều Nguyễn. Nguyễn Siêu, Phương Đình Dư địa chí, (triều Nguyễn). Lê Quý Đôn, Phủ Biên tạp lục, (triều Nguyễn). Bình Thuận 20 năm xây dựng và phát triển (1975-1995) - Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Bình Thuận, xuất bản năm 1995. 6. Bình Thuận 10 năm phát triển (1992-2002) - Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Bình Thuận, xuất bản năm 1995. 7. Bình Thuận - Điểm du lịch giàu tiềm năng, theo Báo Cần Thơ. 8. Bình Thuận: Đến “thiên đường xanh” ngắm cát trắng, nắng vàng, Báo Tin tức. 9. Bí ẩn 120 bộ xương cổ khổng lồ ở Bình Thuận, Phóng sự - Khám phá, Theo báo đời sống và pháp luật. 10. Cù Lao câu Bình Thuận – vẻ đẹp hoang sơ, Thư viện Bình Thuận. 11. Châu Tỉnh - Làng chài – nét bình yên giữa nhịp sống thành thị. 12. Dư địa chí tỉnh Bình Thuận, viết năm 1971 - Lưu tại thư viện Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 13. Đào Duy Anh (1996), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa. 14. Đình Vạn Thủy Tú, Báo du lịch. 15. Lê Minh Đạo – Huỳnh văn Thông: Sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao nhận thức về Biển đảo Bình Thuận cho học sinh Trung học phổ thông” 16. Lý Thơ - Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh – Đền thờ công chúa Bàn Tranh, Cổng thông tin điện tử huyện Phú Quý. 17. Lý Thơ - Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia – Vạn An Thạnh, Cổng thông tin điện tử huyện Phú Quý, nguồn Bảo tàng Bình Thuận. 18. Lý Thơ - Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh – Đền thờ Bà chúa Ngọc và Vạn Thương Hải, Cổng thông tin điện tử huyện Phú Quý. 19. Lý Thơ - Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh – Đình làng Triều Dương, Cổng thông tin điện tử huyện Phú Quý..

<span class='text_page_counter'>(47)</span> 20. 100 câu hỏi-đáp về biển đảo (2013), Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội. 21. Nam Sơn - Hòn Bà – Bình Thuận. 22. Ngô Lực Tải - kinh tế biển Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập (2012), Nxb Tổng hợp T/P HCM. 23. Ngô Văn Doanh (1994), Tháp cổ Chăm pa sự thật và huyền thoại, Nxb Văn hóa thông tin. 24. Nguyễn Ngọc Trường - Người Việt giỏi thủy chiến và thạo nghề biển. 25. Nguyễn Quang Trung Tiến - Hải tặc Chà Và ở Việt Nam, Báo Đà Nẵng. 26. Nguyễn Tấn Việt - Đảo Kê gà – điểm giã ngoại lý tưởng. 27. Nguyễn Việt Long - Hoàng Sa - Trường sa: các sự kiện, tư liệu lịch sử - pháp lý chính (2013), Nxb Trẻ. 28. Nguyễn Vui - Làng biển Phước Lộc (La Gi) hình thành từ thời nhà Nguyễn theo hành trình mở cõi về phương Nam, Báo Bình Thuận. 29. Nguyễn Vui - Hòa Thắng, làng chài bình yên, Báo Bình Thuận. 30. Nguyễn Xuân Lý - Người xưa bảo vệ đảo Phú Quý, www.binhthuantoday.com, 2009. 31. Hàm Tân 45 năm lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng (19301975) - Huyện Đảng bộ Hàm Tân, xuất bản 1993. 32. Hòn Bà, Cẩm nang du lịch. 33. Huyền Châu - Lễ hội cầu Ngư đầy màu sắc ở Bình Thuận, Theo Bưu điện Việt Nam. 34. Quế Hà - Bình Thuận: Lễ Hội cầu Ngư tưng bừng ngay cả trong mưa, Báo Thanh Niên. 35. Quế Hà - Tìm thấy sắc phong quý hiếm của vua Tự Đức về chủ quyền, Báo Thanh niên. 36. Phan Chính - Dấu xưa trên ngảnh Tam Tân, Báo Bình Thuận. 37. Tổ quốc nơi đảo xa (2014), Nxb Văn hóa - Văn nghệ T/P HCM. 38. Tiềm năng và thế mạnh của du lịch biển đảo Bình Thuận, Tin tức Du lịch..

<span class='text_page_counter'>(48)</span> 39. Trần Đình - Vai trò của Phú Quý trong khẳng định chủ quyền đất nước đối với Trường Sa và Hoàng Sa. 40. Trần Nam Tiến - Đội Hoàng Sa: Trong lịch sử xác lập và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam (2014), Nxb Văn hóa - Văn nghệ T/P HCM. 41. Việt Âu – Ngư dân sát cánh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. 42. Wikipedia Bách khoa toàn thư: Tuy Phong, Phú Quý, Vạn Thủy Tú. 43. . 44. . 45. . 46. . 47. vietnamnet.vn 48. www.hoangsa.danang.gov.vn * Ngoài ra còn sử dụng một số tài liệu của: - Trung tâm khảo cổ học viện khoa học xã hội vùng Đông Nam Bộ. - Tài liệu tuyên truyền về Biển đảo của Ban tuyên giáo tỉnh ủy Bình Thuận. - Một số tài liệu nghiên cứu và kết luận về di chỉ khảo cổ Phú Trường của tiến sĩ Nguyễn Văn Cường (Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Việt Nam), Trương Đắc Chiến (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam). * Các tư liệu ảnh có sử dụng của: Ban tuyên giáo tỉnh ủy Bình Thuận, Nhà xuất bản Giáo dục, Sở Văn Hóa-Thể Thao và Du Lịch tỉnh Bình Thuận, tranh ảnh của nhiều tác giả trong và ngoài tỉnh đã đăng trên nhiều số báo khác nhau của Báo Bình Thuận..

<span class='text_page_counter'>(49)</span>

<span class='text_page_counter'>(50)</span>

×