Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tiểu luận Báo chí về Kinh tế và An sinh xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.13 KB, 36 trang )

TIỂU LUẬN

HỌC PHẦN: BÁO CHÍ VỀ KINH TẾ VÀ
AN SINH XÃ HỘI

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Thị Vân Anh

Họ và tên: Ngô Đặng Vân Anh
Mã sinh viên: 1756000003
Lớp: Báo Mạng Điện Tử K37A2

Hà Nội - 2020
1


MỤC LỤC

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc sống hiện đại đem lại cho con người ngày càng nhiều tiện nghi sống nhưng cũng
đang đặt ra nhiều vấn đề xã hội bức xúc: môi trường ô nhiễm, bệnh tật, thiên tai, thất
nghiệp, nghèo đói...Xã hội ngày nay đang rất quan tâm tới việc bảo vệ những người bị
tổn thương, thiệt thòi, yếu thế do hậu quả của các nguy cơ này gây ra. Đại bộ phận các
quốc gia trên thế giới đều tổ chức các hoạt động, đưa ra những cơ chế, chính sách nhằm
hoặc là ngăn ngừa, quản lý những khó khăn, hoặc giúp con người vượt qua khó khăn.
Những cơ chế, chính sách, dịch vụ hay các hoạt động của nhà nước và của xã hội nhằm
đáp ứng nhu cầu được an toàn sinh sống gọi là An sinh xã hội.
Nếu nhìn lại quá trình phát triển của xã hội lồi người, có thể nhận thấy, dưới bất kỳ giai
đoạn lịch sử nào, con người cũng có mong muốn được sinh sống an tồn. Nhưng những
tai hoạ đến từ tự nhiên, xã hội hay chính con người khiến mỗi người đều phải đối diện
với những nguy cơ mất an tồn cho cuộc sống của mình. Chính vì thế, ở mỗi thời đại,


mỗi xã hội hay mỗi con người nói riêng đều có những cách thức khác nhau để khắc phục
những nguy cơ và thiệt hại đó. Trong xã hội hiện đại, ngồi những cơ chế, chính sách,
dịch vụ, hoạt động của nhà nước và xã hội, người ta còn biết đến những rủi ro và cách
khắc phục qua một phương tiện rất hữu hiệu là truyền thơng đại chúng.
Các phương tiện truyền thơng đại chúng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phản
ánh An sinh xã hội. Vai trị đó được biểu hiện ở chỗ báo chí là phương tiện của các thiết
2


chế xã hội nhằm bảo đảm phổ biến thông tin trên quy mơ đại chúng về hệ thống các
chính sách, đường lối của Nhà nước về An sinh xã hội; đồng thời là diễn đàn cho toàn
dân thể hiện, tập hợp các ý kiến, kinh nghiệm giải quyết các vấn đề An sinh xã hội cũng
như là phương tiện kêu gọi sự giúp đỡ của toàn xã hội đối với mỗi cá nhân đang gặp khó
khăn.
An sinh xã hội là cụm từ tương đối mới ở Việt Nam. Tuy nhiên, đây lại là nhiệm vụ luôn
được Đảng và Nhà nước đặt lên hàng đầu trong khi xây dựng các chính sách về xã hội.
Bên cạnh các chính sách, Nhà nước và tồn dân cịn phát triển những phong trào và hệ
thống dịch vụ để phần nào đảm bảo an sinh, an tồn xã hội cho mọi người dân. Báo chí
Việt Nam là tiếng nói của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, đã vào cuộc với
những bài viết, tin, ảnh phong phú, hấp dẫn và cập nhật về nội dung An sinh xã hội.
Báo chí nhìn chung đã cập nhật được các chính sách, chủ trương mới của Đảng, Nhà
nước và các phong trào, hoạt động của xã hội về các lĩnh vực liên quan đến An sinh xã
hội. Tuy nhiên, để phản ánh các vấn đề An sinh xã hội thật sự có hiệu quả, báo chí cần có
những hướng đi tích cực hơn nữa.

2. Mục đích và nhiệm vụ khảo sát
Qua khảo sát 2 tờ báo điện tử là Lao động và Hà Tĩnh trong thời gian từ 1/4/2020 đến
tháng 30/4/2020 tất cả các mục như Giáo dục, Y tế...., tiểu luận hy vọng làm rõ phần nào
vai trị của báo chí nói chung trong việc phản ánh các vấn đề về An sinh xã hội, đồng thời
rút ra những nhận xét ban đầu nhằm đưa ra những gợi ý cho việc thông tin lĩnh vực này

tốt hơn trên báo chí.

3. Đối tượng và phạm vi khảo sát
- Đối tượng nghiên cứu là những quan điểm lý luận chung về An sinh xã hội và báo chí
trong việc phản ánh An sinh xã hội qua các tài liệu về An sinh xã hội và báo chí.
- Phạm vi nghiên cứu: An sinh xã hội là khái niệm rộng và mới ở Việt Nam hiện nay.
Lĩnh vực An sinh xã hội bao gồm nhiều mảng công tác khác nhau. Phản ánh các sự kiện
3


liên quan đến An sinh xã hội là nhiệm vụ chung của mọi cơ quan báo chí. Trong khn
khổ tiểu luận, chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề An sinh xã hội được phản ánh trên 2 tờ báo
Lao động và Hà Tĩnh

4. Kết cấu của bài tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của luận văn gồm có 4
phần sau đây:
Phần I: Một số vấn đề chung về Báo chí và An sinh xã hội.
Phần II: Thực trạng báo chí về an sinh xã hội ở Việt Nam.
(khảo sát qua các báo Lao động và Hà Tĩnh trong giai đoạn tháng 4/2020 ).
Phần III: Kỹ năng thực hành tổ chức thực hiện tác phẩm báo chí về an sinh xã hội. Một số
khuyến nghị nhằm hồn thiện hoạt động báo chí về an sinh xã hội ở Việt Nam.
Nội dung chính của luận văn sẽ được trình bày Theo các chương, mục trên
Phần IV: Tài liệu tham khảo

4


NỘI DUNG
PHẦN I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÁO CHÍ VÀ AN SINH XÃ HỘI

1. Khái niệm về an sinh xã hội
Ở Việt Nam, thuật ngữ “an sinh xã hội” được xuất hiện vào những năm 70 trong một số
cuốn sách nghiên cứu về pháp luật của mọt số học giả Sài Gòn. Sau năm 1975, thuật ngữ
này được dùng nhiều hơn và đặc biệt là từ những năm 1995 trở lại đây nó được dùng
rộng rãi hơn. "An sinh" là một từ Hán-Việt. An- trong chữ “an toàn”, Sinh- trong chữ
“sinh sống”, an sinh có thể được hiểu là “an tồn sinh sống”. Như vậy, có thể nói một
cách khái lược, đơn giản nhất: xã hội an sinh là một xã hội mà mọi người được an toàn
sinh sống, hay là có cuộc sống an tồn.
Dưới thời đại tiền công nghiệp, khi đại bộ phận người dân sống nhờ vào nơng nghiệp, lao
động tập trung ít, thiết chế gia đình cịn vững mạnh, hệ thống tơn giáo có tiếng nói quyền
lực nhất định, thì sự hố giải những rủi ro phụ thuộc nhiều từ phía gia đình và tôn giáo.
Trong xã hội công nghiệp hiện đại, các vấn đề xã hội càng ngày càng nảy sinh phức tạp,
ngày càng nhiều rủi ro đe doạ cuộc sống của mỗi gia đình, mỗi con người như xung đột
sắc tộc, các bệnh tật mới chưa có thuốc chữa, mất cân bằng sinh thái dẫn đến môi trường
sống của con người bị ảnh hưởng trầm trọng, các tệ nạn xã hội...
Chính vì thế, An sinh xã hội luôn được đặt ra như một chương trình tầm cỡ quốc gia,
thậm chí tồn cầu. Những cơ chế, chính sách, dịch vụ hay các hoạt động của Nhà nước và
xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu được an toàn sinh sống được gọi là An sinh xã hội.
5


Tuy vậy, từ tiếng Anh (Social Security) mỗi người lại sử dụng thành những từ khác nhau
(mặc dù nội dung đều hiểu như nhau) do đó ta thấy xuất hiện các thuật ngữ: “an sinh xã
hội”, “an toàn xã hội”, “an ninh xã hội”, “bảo đảm xã hội”… Theo tôi dùng các cụm từ
“an toàn xã hội” hoặc “an ninh xã hội” sẽ sát nghĩa hơn, nhưng vì dùng các thuật ngữ này
ở nước ta dễ hiểu sang các lĩnh vực khác, ví như: trật tự an tồn xã hội, trật tự an ninh
quốc gia… Do vậy, đành tạm chấp nhận thuật ngữ “an sinh xã hội” để cùng trao đổi.
Theo website Investorwords.com (Mỹ), An sinh xã hội nghĩa là “Chương trình tồn liên
bang về trợ cấp cho cơng nhân và những người sống phụ thuộc vào họ những khoản như
lương hưu, trợ cấp cho người khuyết tật và các chi trả khác của họ. Thuế An sinh xã hội

được dùng để chi trả cho chương trình này”.
Từ điển Answers.com lại cho rằng: “An sinh xã hội là chương trình của Chính phủ nhằm
trợ giúp kinh tế cho những người đang phải đối mặt với nạn thất nghiệp, khuyết tật, tuổi
già. Nguồn kinh phí được chi trả từ những người đang làm việc và người sử dụng lao
động”.
Bách khoa toàn thư của Đại học Columbia (Mỹ) cho rằng, “An sinh xã hội là chương
trình Chính phủ nhằm cung cấp sự an toàn kinh tế và phúc lợi cho cá nhân và những
người phụ thuộc vào họ. Chương trình được xây dựng khác nhau ở mỗi quốc gia do
những quan niệm về An sinh xã hội khác nhau của những nước đó, nhưng tất cả đều do
luật pháp Chính phủ quy định và đều được thiết kế nhằm cung cấp một số khoản tiền để
chi trả cho việc mất hoặc suy giảm thu nhập".
Như vậy, có thể hiểu là an sinh xã hội bao quát một phạm vi rất rộng lớn và có tác động
đến rất nhiều người. An sinh xã hội có thể ảnh hưởng đến cả khi một con người cụ thể
chưa sinh ra và có thể cả khi người đó mất đi. Nó cũng ảnh hưởng đến cuộc sống hàng
ngày của mọi người.
An sinh xã hội ở nghĩa hẹp là sự hỗ trợ bằng vật chất, tinh thần, các dịch vụ xã hội... của
Nhà nước, cộng đồng xã hội cho những đối tượng (cá nhân, gia đình, cộng đồng) nghèo
đói, yếu thế, dễ bị tổn thương, khi họ gặp khó khăn để đáp ứng nhu cầu cơ bản của con
6


người. An sinh xã hội ở nghĩa rộng là hệ thống chính sách, pháp luật, chương trình dịch
vụ xã hội... được Nhà nước, thị trường và cộng đồng thực hiện bằng nguồn ngân sách
Nhà nước, đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động nhằm nâng cao năng
lực của người dân, gia đình và cộng đồng đảm bảo để tăng cường khả năng ngăn ngừa,
giảm nhẹ và đối phó với rủi ro.
Việc có một hệ thống an sinh xã hội có thể làm thay đổi cuộc sống của mọi người theo
chiều hướng tốt lên cũng như không có một hệ thống an sinh xã hội cũng làm thay đổi
cuộc sống của họ theo chiều hướng xấu đi.
Hệ thống an sinh xã hội của mỗi nước có tác động rất lớn đến an sinh khu vực và thậm

chí là cả thế giới.

2. Đối tượng, mục tiêu, nội dung, quy mơ An sinh xã hội
Từ định nghĩa, có thể rút ra các đặc điểm:
- Đối tượng của An sinh xã hội: Là những cá nhân, nhóm, cộng đồng, khơng phân biệt
giới tính, thành phần xã hội, tơn giáo, sắc tộc, màu da bị rơi vào những hồn cảnh khó
khăn bất thường. An sinh xã hội đặc biệt được thiết kế cho những nhóm dễ bị tổn thương
nhất như phụ nữ, trẻ em, người già,người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn…
- Mục tiêu của An sinh xã hội: Cải thiện môi trường, cuộc sống của con người, tăng khả
năng của các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong việc ngăn ngừa, giảm nhẹ và đối phó hữu
hiệu với các rủi ro. Hồn thiện hệ thống luật pháp về An sinh xã hội cấp quốc gia, khu
vực, quốc tế, đặc biệt là các dịch vụ cơng cộng để can thiệp kịp thời, phịng ngừa, quản lý
các thiên tai, rủi ro khi gia đình, cá nhân, nhóm, cộng đồng khơng thể ứng phó được.
- Nội dung và các biện pháp của An sinh xã hội: Các chính sách điều tiết hợp lý thu nhập
của các cá nhân trong xã hội, sử dụng các nguồn đóng góp (như thuế, bảo hiểm, vận động
tự nguyện…) của người lao động, chủ sử dụng lao động để tái phân phối cho nguồn lực
chung trong những trường hợp cần trợ giúp để đảm bảo an toàn xã hội cho người dân
7


thông qua trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp ốm đau, bảo hiểm y tế…cho người lao động bị gặp
rủi ro và người trong gia đình sống phụ thuộc vào họ.
- Trách nhiệm thực thi An sinh xã hội: Các cá nhân, gia đình, cộng đồng, các tổ chức phi
chính phủ, các doanh nghiệp, Nhà nước…

3. Vài nét về an sinh xã hội trên thế giới
- Mỹ: Hiện nay, mạng lưới An sinh xã hội của Mỹ được chia thành 2 trụ cột chính: Bảo
hiểm xã hội và Trợ giúp xã hội và các dịch vụ phúc lợi khác.
• Bảo hiểm xã hội, gồm: Bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tàn tật, bảo

hiểm y tế cho người già, người khuyết tật, người bị một số bệnh nan y, bảo hiểm thất
nghiệp, an sinh thu nhập bổ sung.
• Trợ giúp xã hội và các dịch vụ phúc lợi khác, gồm: trợ giúp cho gia đình có trẻ em
khó khăn, trợ giúp y tế, các dịch vụ cho bà mẹ, trẻ em, cứu trợ trẻ em, trợ giúp phiếu
lương thực, trợ giúp năng lượng.
- Thuỵ Điển: An sinh xã hội được chia thành nhiều tầng, lớp khác nhau, gồm:
• An sinh bắt buộc trong y tế, thất nghiệp, hưu trí, thương tật khi làm việc và các khoản
trợ cấp đảm bảo độc lập, tách biệt với tiền lương. Các hình thức an sinh tự nguyện bổ
sung để cải thiện các lợi ích.
• Phúc lợi và y tế cơng cộng. Các chính sách xã hội gồm: an sinh tài chính, dịch vụ xã
hội, y tế, phịng ngừa tội phạm..
• Các quỹ An sinh xã hội tư nhân được nhà nước hỗ trợ, chia sẻ, có nhiều tầng nấc khác
nhau.
- Singapore:

8


• Hệ thống bảo hiểm xã hội bắt buộc do các nhân viên, nhà tuyển dụng và Chính phủ
cùng đóng góp. Những người làm cơng ăn lương tự mua bảo hiểm tự nguyện trong các
lĩnh vực: nhà ở, dịch vụ y tế, lương hưu trí.
• Các khoản trợ cấp ốm đau cho người đi làm và bảo hiểm mất khả năng làm việc do các
nhà tuyển dụng/người sử dụng lao động cung cấp.
• Sự hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức... phu chính thức trong cộng đồng hoặc từ phía anh
em, họ hàng và các hãng bảo hiểm tư nhân.
- Indonesia:
• Bảo hiểm xã hội, gồm: bảo hiểm phụ nữ, bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm tai nạn phụ nữ,
trợ cấp tuổi già, tuất; bảo hiểm y tế; trợ cấp hưu trí cho cơng chức, sự quan qn đội.
• Trợ giúp xã hội: Dịch vụ phúc lợi xã hội cho người già, trẻ em, người tàn tật, người
nghèo.

Nhìn chung, mạng lưới An sinh xã hội có sự khác nhau giữa các nước với nhau và giữa
các nước phát triển với các nước đang phát triển. Các nước phát triển với lịch sử hình
thành, phát triển của hệ thống an sinh, kết hợp với tiềm lực kinh tế mạnh, đã tiến tới một
hệ thống chia nhánh rất nhiều tầng, nấc, đảm bảo an toàn kinh tế, xã hội cho hầu hết mọi
người dân và mọi hồn cảnh có nguy cơ mất an toàn kinh tế- xã hội trong cộng đồng.
Trong khi đó, tại các nước đang phát triển, trong đó có các nước trong khu vực Đơng
Nam Á, hệ thống An sinh xã hội được xây dựng kết hợp giữa bảo hiểm xã hội bắt buộc
dành cho khối chính thức với sự trợ giúp xã hội tình nguyện, nói cách khác, là sự tương
hỗ giữa các chính sách của Nhà nước với sự giúp đỡ, hỗ trợ tình nguyện từ cộng đồng.

4. An sinh xã hội ở Việt Nam
Hệ thống chính sách An sinh xã hội ở Việt Nam là một thể thống nhất, bao gồm:

9


- Các chính sách vĩ mơ của Nhà nước để gắn chính sách An sinh xã hội với chính sách
phát triển kinh tế nhằm kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng bền vững nền kinh tế với tiến bộ
và công bằng xã hội.
- Hệ thống luật pháp nhằm thể chế hoá các chủ trương, quan điểm và giải pháp của Đảng,
Nhà nước về An sinh xã hội (Bộ Luật Lao động, Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ- Chăm sóc
và Giáo dục trẻ em, Pháp lệnh về chính sách ưu đãi đối với người có cơng với cách
mạng...).
- Các chương trình mục tiêu quốc gia và các quỹ về lĩnh vực An sinh xã hội.
- Các phong trào xã hội hoá nhằm huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực trong
dân và ở địa phương, cơ sở; đồng thời lồng ghép các chương trình mục tiêu khác nhằm sử
dụng có hiệu quả nguồn lực cho thực hiện An sinh xã hội.
Những tăng trưởng về mọi mặt kinh tế - xã hội đã tạo điều kiện tốt cho nền An sinh xã
hội Việt Nam được củng cố và phát triển. Tỷ trọng đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho các
lĩnh vực xã hội chiếm khoảng 28% tổng ngân sách Nhà nước hằng năm. Bên cạnh đó,

việc huy động từ các nguồn lực khác như từ cộng đồng, các cá nhân, tổ chức, đoàn thể
trong và ngoài nước thường chiếm khoảng 30% mức chi cho lĩnh vực này và con số này
đang tiếp tục tăng lên khi ngày càng có nhiều nguồn đầu tư từ nước ngoài và kiều bào
Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài.
Trong các nguồn chi, Nhà nước đặc biệt ưu tiên đầu tư cho các mảng đào tạo- dạy nghề,
giải quyết việc làm, xố đói giảm nghèo, ưu đãi người có cơng, trợ giúp xã hội cho các
nhóm yếm thế (người khuyết tật, trẻ mồ côi, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn, phụ nữ, người già…). Số tiền đầu tư này chiếm khoảng hơn
14% tổng chi ngân sách Nhà nước (gần bằng chi Nhà nước cho giáo dục).
Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều tồn tại và thách thức cho việc thực hiện chính sách An sinh
xã hội ở Việt Nam. Cụ thể là sự phát triển không đồng đều giữa thành thị và nông thôn,
giữa đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa… Số người thất nghiệp vẫn rất lớn, tỷ lệ
10


lao động chưa được đóng bảo hiểm và doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm cao. Sự phân
cực giàu nghèo ngày càng gay gắt, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới WTO. Thiên tai, hiểm họa trong lao động, sản xuất, sinh hoạt, tai nạn giao
thơng… vẫn chưa được kiểm sốt, dẫn đến những thiệt hại to lớn về người và của hàng
năm. Mỗi năm, số người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai, mất mùa khoảng từ 1- 1,5
triệu người, tỷ lệ tái đói nghèo khoảng 7-10% tổng số hộ vừa thốt khỏi đói nghèo. Tệ
nạn xã hội cũng là điểm nóng, gây ra những nguy cơ lớn cho an toàn của con người (bệnh
tật, HIV/AIDS, đói nghèo…)

PHẦN II: THỰC TRẠNG BÁO CHÍ VỀ AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Vai trò của báo chí trong việc phản ánh các vấn đề về an sinh xã hội
Một xã hội tiến bộ, công bằng là xã hội mà ở đó tất cả cơng dân, khơng phân biệt sắc tộc,
tơn giáo, tín ngưỡng, chính trị, màu da, địa vị kinh tế - xã hội… đều được tham gia vào
sự phát triển chung của đất nước, được đảm bảo cuộc sống an toàn với những nhu cầu
phát triển con người. Đó chính là mục tiêu hướng tới của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Nhằm thực hiện mục tiêu đó, An sinh xã hội chính là công cụ, phương tiện để đảm bảo sự
công bằng, tiến bộ thông qua việc phân phối lại, điều tiết thu nhập giữa các nhóm dân cư
trong xã hội nhằm xố đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, tiến tới một xã
hội bình đẳng, an tồn.
An sinh xã hội vì thế cũng là đối tượng phản ánh quan trọng của báo chí. Bằng cách
thơng tin những nhu cầu của từng người dân, nhóm người, cộng đồng đang gặp khó khăn
và hoạt động của các yếu tố trong mạng lưới An sinh xã hội, báo chí như một cầu nối
giữa các tầng An sinh xã hội và người dân. Mặt khác, chính báo chí cũng là một bộ phận
của mạng lưới An sinh xã hội, nơi phát hiện, tư vấn cho Nhà nước hoạch định chính sách
và trở thành nhân tố trực tiếp hoặc gián tiếp, đóng góp quan trọng về vật chất, tinh thần
cho hệ thống An sinh xã hội.

11


Mơ hình An sinh xã hội ở Việt Nam

2. Thực trạng báo chí phản ánh các vấn đề an sinh xã hội
An sinh xã hội là lĩnh vực thông tin quan trọng trên báo chí. Đây là lĩnh gắn bó chặt chẽ
với định hướng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về cả tầm chiến lược và
trước mắt. Đồng thời, thông tin An sinh xã hội cũng rất gần gũi và thiết yếu với đời sống
nhân dân. Bởi lẽ, những thơng tin đó bao gồm hầu hết mọi lĩnh vực liên quan đến những
nhu cầu đời sống cơ bản của nhân dân như: bảo hiểm (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học đường... ), lương tối thiểu, lương hưu, trợ cấp (thai sản,
ốm đau, tai nạn lao động...), ưu đãi xã hội đối với người và gia đình có cơng với nước, trợ
cấp đột xuất cho người gặp nạn do thiên tai, địch hoạ..., trợ cấp hàng tháng cho người có
hồn cảnh đặc biệt khó khăn, các chính sách hỗ trợ việc làm, dạy nghề cho người lao
động thất nghiệp, người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc vùng sâu,

12



vùng xa, người khuyết tật, đối tượng xã hội (mại dâm, ma tuý)... để hoà nhập cộng đồng
và đảm bảo mức sống tối thiểu cho họ.
Trong tương lai, mạng lưới An sinh xã hội sẽ tiếp tục được hoàn thiện và mở rộng, bảo
đảm bất kỳ người dân nào cũng có một cuộc sống an tồn nhất.
Như vậy, An sinh xã hội khơng những cần thiết mà cịn ngày càng cần mở rộng diện tích
phản ánh trên báo chí.Với độ bao phủ rộng, tính định kỳ cao, nhiều độc giả (có tờ phát
hành hàng trăm nghìn bản báo mỗi ngày), báo chí là phương tiện chuyển tải thơng tin An
sinh xã hội nhanh chóng và hữu hiệu nhất. Trên thực tế, người dân biết thông tin về An
sinh xã hội nhiều nhất qua báo chí.
Ngày nay, với quy mơ ngày càng mở rộng của hệ thống báo chí và số lượng cơng chúng
đơng đảo, báo chí đã và đang có vai trò rất lớn trong việc tuyên truyền, phổ biến thơng tin
đối nội và đối ngoại, trong đó có lĩnh vực An sinh xã hội. Đồng thời, đây cũng là kênh
quan trọng vận động và tận dụng những nguồn lợi trong nhân dân và bạn bè quốc tế cho
các hoạt động an sinh trong nước.
Có thể khẳng định, hệ thống các chính sách và các hoạt động an sinh xã hội sẽ đến trực
tiếp và nhanh chóng nhất với cơng chúng qua con đường báo chí. Ngồi ra, bằng các hình
thức thể hiện sinh động, người dân sẽ nắm được các chủ trương, chính sách An sinh xã
hội một cách cụ thể và dễ nhớ, dễ hiểu.
Mặt khác, báo chí cũng là phương tiện truyền tải nguyện vọng, tâm tư và hồn cảnh của
nhân dân, thơng tin cho những cơ quan có trách nhiệm và tồn xã hội những ý kiến của
nhân dân và những hoàn cảnh cần giúp đỡ. Qua báo chí, An sinh xã hội khơng những
được hiểu biết sâu sắc hơn, mà còn được phổ biến rộng rãi hơn.
Mối quan hệ giữa mạng lưới An sinh xã hội (bao gồm cả những người có trách nhiệm
soạn thảo các chính sách, quản lý nhà nước về An sinh xã hội) với báo chí và cơng chúng
là mối quan hệ hữu cơ, biện chứng. Báo chí khơng chỉ đáp ứng yêu cầu thông tin của

13



người dân mà còn là một kênh quan trọng cho những nhà quản lý nhà nước để hoàn thiện
hơn hệ thống An sinh xã hội của đất nước cũng như tại từng địa bàn dân cư.
Với tư cách là diễn đàn của nhân dân, báo chí phản ánh hồn cảnh sống, tâm tư, nguyện
vọng của người dân về các vấn đề An sinh xã hội. Có thể nhận biết rõ ràng các thông tin
này qua các chuyên mục giới thiệu những địa chỉ cần giúp đỡ (báo Công an TP. Hồ Chí
Minh...), giới thiệu việc làm (Trang Thơng tin Hà Nội- Báo Lao động, báo Tuổi trẻ...), ý
kiến người dân (Bạn đọc viết- báo Lao động&Xã hội...), giải đáp chính sách pháp luật
(Giải đáp chính sách- báo Lao động & Xã hội...), vận động qun góp (Quỹ Tấm lịng
vàng- báo Lao động), từ thiện xã hội (Trang Xã hội- Từ thiện- báo Hà Nội Mới). Hầu hết
các báo in hiện nay đều dành chuyên mục hoặc tin, bài về các vấn đề An sinh xã hội.
Thông qua những phát hiện của báo chí về những người, cộng đồng có hồn cảnh khó
khăn cần giúp đỡ, các cơ quan chức năng như ngành Lao động-thương binh và xã hội, y
tế giáo dục, bảo hiểm... và các đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Hội Bảo trợ Người tàn tật
và trẻ mồ côi Việt Nam, Hội Bảo trợ trẻ em Việt Nam... sẽ tuỳ trường hợp cụ thể để vào
cuộc. Mơ hình: báo chí phát hiện, ngành chức năng chỉ đạo, đồn thể, tổ chức giúp đỡ,
chính quyền, cộng đồng và gia đình thực hiện đã tỏ rõ tính hiệu quả trong các hoạt động
cứu trợ, trợ cấp.
Bên cạnh đó, báo chí cịn là diễn đàn trao đổi, góp ý các chính sách, chủ trương của Nhà
nước có liên quan mật thiết đến đời sống nhân dân. Hiện nay, khơng khí dân chủ rộng rãi,
thể hiện rõ nhất trên báo chí đã tạo điều kiện tốt cho mọi người dân được thể hiện ý kiến
của mình trước những quyết sách của Chính phủ cũng như các hiện tượng xã hội. Trong
các kỳ họp Quốc hội, khi các thành viên Quốc hội đang thảo luận về các Luật hay chất
vấn thành viên Chính phủ, người dân có thể xem, nghe trực tiếp diễn biến các cuộc họp
qua sóng truyền hình, phát thanh, hoặc xem bình luận, tường thuật, phỏng vấn sau mỗi
phiên họp trên các trang báo ra ngày hơm sau. Qua đó, những đại biểu Quốc hội- đại biểu
của nhân dân đã thay mặt cử tri địi hỏi những quyền lợi chính đáng của mình trước các

14



thành viên Chính phủ. Nhiều vấn đề của dân được các đại biểu đặt ra trong dịp này đã
được đích thân những Bộ trưởng trực tiếp giải quyết.
Báo chí khơng những truyền tải thông tin về hệ thống An sinh xã hội trong nước, mà cịn
đăng tải những thơng tin về An sinh xã hội các nước trên thế giới và sự hình thành, phát
triển của những “con đường” an sinh mang tầm cỡ liên quốc gia, khu vực và tồn cầu.
Qua đó, giúp các nhà hoạch định chính sách có thêm những kinh nghiệm và nguồn tin có
ích cho cơng việc của mình.

2.1 Giới thiệu tờ báo mạng điện tử thuộc diện khảo sát
Trong khuôn khổ tiểu luận khảo sát tình hình tuyên truyền nội dung An sinh xã hội trên 2
tờ báo: Lao động và Hà Tĩnh. Đây là 2 tờ báo có những đặc điểm khác nhau.
- Về cấp cơ quan báo chí và cơ quan chủ quản, báo Lao động là tờ báo của đoàn thể cấp
Trung ương, cơ quan ngơn luận của Tổng Liên đồn lao động Việt Nam. Báo Hà Tĩnh là
tờ báo Đảng địa phương, cơ quan chủ quản là Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà
Tĩnh.
- Về tính định kỳ, hai tờ báo mạng Hà Tĩnh và Lao động đều là báo ngày, ra từ thứ 2 đến
chủ nhật. Tin tức cập nhật hàng ngày, hàng giờ
- Về mức độ quan tâm (dung lượng tin, bài) của tờ báo đối với lĩnh vực An sinh xã hội,
nhìn chung, cả 2 tờ báo đều đăng tải thường kỳ các thông tin về An sinh xã hội. Tuy
nhiên, mức độ tin, bài về hệ thống chính sách an sinh hoặc một số thành tố của An sinh
xã hội trên báo Lao động dày đặc hơn, do nhiệm vụ thông tin về các lĩnh vực ngành Lao
động - Thương binh và xã hội (cả 5 trụ cột của An sinh xã hội đều thuộc phạm vi hoạt
động của ngành).
Trong khuôn khổ khảo sát 2 tờ báo trong thời gian tháng 04/2020, khảo sát các tác phẩm
báo chí theo 2 tiêu chí chính là bài và tin.

15



2.2 Tổng số lượng tin, bài về An sinh xã hội trong tháng 4/2020
Bảng 1: Số lượng tác phẩm An sinh xã hội trong tháng 4/2020 (Chú thích: (1) = Tổng số
tác phẩm An sinh xã hội)
(1) trong tháng 4/2020

Báo

Trung bình (1) /
tuần

Trung bình (1) / ngày

Lao Động

333 tác phẩm
(98 bài, 235 tin )

83 tin/bài

11 tin/bài

Hà Tĩnh

99 tác phẩm
(39 bài, 60 tin )

25 tin/bài

3 tin/bài


Bảng 2: Số lượng tác phẩm An sinh xã hội trong các chuyên mục tháng 4/2020
Chuyên
mục
Thế giới
Thời sự
Y tế
Giáo dục

Báo Lao Động

Chuyên
mục
Chính sách
Việc làm
Y tế
Giáo dục

19 bài, 81 tin
13 bài, 77 tin
31 bài, 65 tin
35 bài, 12 tin

Báo Hà Tĩnh
11 bài, 12 tin
4 tin
14 bài, 24 tin
14 bài, 20 tin

Vị trí tác phẩm về đề tài An sinh xã hội trên trang báo:
An sinh xã hội thuộc mảng xã hội, vì thế, thơng tin về An sinh xã hội trên các trang báo

thường được đặt trong các chun mục. Cả 2 trang báo đều khơng có chuyên mục An
sinh xã hội riêng.
Báo Lao động đăng tải thơng tin có liên quan đến An sinh xã hội tại chuyên mục Thế
giới, Thời sự và Xã hội. Trong mục Xã hội phân ra hai mục nhỏ là Y tế và Giáo dục.
Báo Hà Tĩnh đăng tải thông tin về An sinh xã hội trong chuyên mục Xã hội, trong đó lại
có 4 mục nhỏ lần lượt là Giáo dục, Y tế, Chính sách và Việc làm
Bảng 3: Số lượng tác phẩm An sinh xã hội/ chuyên mục (đơn vị: %)

16


2.3 Nhận xét/ Đánh giá
Các tác phẩm về lĩnh vực An sinh xã hội hiện nay mới chỉ ở mức trung bình về cả số
lượng, tính thời sự, độ hấp dẫn, tính định hướng và sự hấp dẫn với độc giả.
Cụm từ “An sinh xã hội” còn khá mới mẻ với độc giả, đây là một hạn chế, bởi An sinh xã
hội là thuật ngữ quốc tế, hiểu biết ý nghĩa cụm từ này sẽ giúp người dân có thái độ ứng
xử tốt hơn khi đất nước hội nhập quốc tế. Mặt khác, An sinh xã hội là một hệ thống
những quyền lợi có liên quan trực tiếp đến cuộc sống mỗi người dân. Do đó truyền thơng,
nhất là báo chí cần đưa nó đến gần hơn với độc giả, phổ cập thơng tin bằng báo chí là 1
trong những phương pháp hiệu quả nhất.
Báo chí góp phần nâng cao nhận thức của người dân về chính sách an sinh xã hội - Đó là
nhận định của Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam Đào Việt Ánh tại
Hội nghị Tập huấn bồi dưỡng kiến thức về BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT) cho phóng
viên, biên tập viên chuyên trách thuộc các cơ quan thông tấn, báo chí năm 2018, do
BHXH Việt Nam tổ chức từ ngày 16-18/5, tại TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
Kết quả, trong năm 2017, đã có trên 7.000 chuyên mục, chuyên trang, tin, bài, phóng sự
được các cơ quan báo chí Trung ương thực hiện. Các tin, bài, chương trình, phóng sự…
đều được đăng tải kịp thời, chất lượng ngày càng đảm bảo, góp phần quan trọng trong
việc thực hiện tốt cơng tác tuyên truyền về chính sách BHXH, BHYT theo tinh thần Nghị
quyết 21-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

BHXH, BHYT giai đoạn 2012 – 2020.
Phát biểu tại hội nghị, ông Hồ Quang Lợi – Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt
Nam - nhận định: Với độ bao phủ rộng, cập nhật liên tục, khơng giới hạn, báo chí là
phương tiện chuyển tải thơng tin BHXH nhanh chóng và hữu hiệu nhất. Trên thực tế,
người dân biết thông tin về BHXH, BHYT nhiều nhất qua báo chí.

17


Bên cạnh đó việc đưa thơng tin hiện nay mới mang tính thời vụ. Nghĩa là khi có sự kiện,
hoặc thời gian cao điểm, các báo mới đăng tải thông tin về An sinh xã hội một cách tương
đối hệ thống và dầy đặc. Điều này hạn chế tác dụng của báo chí và gây thiệt thịi cho
cơng chúng, bởi những thông tin về An sinh xã hội thay đổi từng ngày theo sự thay đổi
của đời sống xã hội- chính trị trong nước và quốc tế.
Những hạn chế về thơng tin về An sinh xã hội trên báo chí đang đặt ra yêu cầu cấp thiết
phải đổi mới để đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng báo chí cũng như địi hỏi của
cuộc sống hiện đại, đặc biệt khi nền kinh tế đất nước đã gia nhập WTO như hiện nay. Bởi
lẽ, khi nền kinh tế càng phát triển trong một cộng đồng đa biên, tự do hố thương mại, thì
các vấn đề An sinh xã hội càng nóng bỏng.
Từ thực tế hoạt động, có thể rút ra một số khó khăn của báo chí trong việc thể hiện
thông tin về An sinh xã hội hiện nay như sau:
* Nguồn thông tin về An sinh xã hội chưa có nhiều cho báo chí khai thác
Như trên đã nói, "An sinh xã hội" là thuật ngữ tương đối mới ở Việt Nam, báo chí và
nhân dân chưa có thói quen dùng cụm từ này. Việc khai thác thơng tin về An sinh xã hội
có thể triển khai theo 2 nguồn chính: trong nước và quốc tế.
Trong nước, các tài liệu về An sinh xã hội còn tương đối ít. Mặt khác, chưa có sự thống
nhất chung về nội hàm thuật ngữ cũng như các bộ phận cấu thành nên hệ thống An sinh
xã hội ở Việt Nam. Chiến lược An sinh xã hội Việt Nam do Bộ Lao động- Thương binh
và Xã hội thực hiện dưới sự hợp tác của UNDP vẫn đang trong quá trình xây dựng. Vì
thế, nguồn tài liệu An sinh xã hội trong nước đối với báo chí khá hạn hẹp.

Ngược lại, nguồn thơng tin về An sinh xã hội trên thế giới lại rất phong phú. Có thể tìm
thấy thuật ngữ này được giải thích trên hầu hết các từ điển lớn quốc tế, trên tài liệu nhiều
trường đại học và cơng trình nghiên cứu. Hệ thống An sinh xã hội nhiều nước cũng được
đăng tải giới thiệu trên các trang thông tin điện tử (website) như Mỹ, Thụy Điển, Anh...

18


Tuy nhiên, đối với nguồn tài liệu nước ngoài, hạn chế của phóng viên, biên tập là cần
phải biết ngoại ngữ và am hiểu cách dùng thuật ngữ của từng nước (vì thuật ngữ này
được sử dụng khác nhau ở các nước). Mặt khác, cách hiểu về hệ thống An sinh xã hội ở
Việt Nam cũng có sự khác biệt so với các nước khác trên thế giới.
* Diện tích dành cho lĩnh vực An sinh xã hội trên mặt báo hẹp
Đây là hạn chế do chủ trương của lãnh đạo toà soạn báo. Hạn chế này dẫn đến việc phóng
viên khơng thể đưa nhiều tin, bài về an sinh, do dành diện tích cho các lĩnh vực khác.
Từ những mặt hạn chế, ta có thể nhìn nhận ra một số nguyên nhân phổ biến:
* Sự hợp tác giữa các cơ quan quản lý về An sinh xã hội và báo chí chưa chặt chẽ
Một trong những nguyên nhân khiến báo chí chưa có những tác phẩm đầy đủ về An sinh
xã hội, cũng như nhận thức tầm quan trọng của lĩnh vực thơng tin này, là do chưa có sự
hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước về An sinh xã hội, các chuyên gia
trong lĩnh vực An sinh xã hội và các cơ quan báo chí.
Sự hợp tác đó địi hỏi diễn ra trong cả 2 chiều. Các chuyên gia và cơ quan quản lý Nhà
nước cung cấp thông tin vĩ mô về An sinh xã hội cho báo chí. Về phần mình, báo chí tiếp
nhận và cung cấp trở lại những thơng tin về ý kiến phải hồi của người dân và những gợi
ý, chính kiến của tờ báo đối với những vấn đề đã được đưa ra. Đây là quá trình tất yếu
của hoạt động thơng tin trên báo chí. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra lỏng lẻo và kém
hiệu quả đối với hoạt động thông tin An sinh xã hội.
* Phóng viên chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về An sinh xã hội trên thế giới và Việt
Nam
Nguồn tài liệu về An sinh xã hội của Việt Nam cung cấp cho phóng viên chưa đầy đủ.

Cũng cần nhìn nhận thực tế là phóng viên hiện nay cịn thụ động trong việc tự nghiên
cứu, tìm tài liệu về An sinh xã hội. Mặt khác, khả năng ngoại ngữ cũng là rào cản đối với
phóng viên trong việc tìm hiểu nguồn tài liệu về An sinh xã hội từ nước ngoài.
19


* Chưa có chuyên mục về An sinh xã hội
Trên các tờ báo, hiện mới chỉ có các chuyên mục về từng khía cạnh của An sinh xã hội
(xố đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội, từ thiện- xã hội,ưu đãi người có cơng...). Việc thiếu
vắng chun trang, chun mục về lĩnh vực An sinh xã hội (trên các tờ báo chuyên ngành
An sinh xã hội hoặc những tờ báo có nhiệm vụ tuyên truyền về lĩnh vực xã hội nói
chung) là nguyên nhân dẫn đến các hạn chế, khó khăn của phóng viên tác nghiệp và cơ
quan báo chí nói chung trong việc phản ánh đầy đủ lĩnh vực này.
* Hệ thống An sinh xã hội tại Việt Nam có những đặc điểm khác so với các nước khác.
Những đặc điểm này do lịch sử, văn hoá, truyền thống... của đất nước và con người Việt
Nam quy định. Theo đó, bên cạnh những đặc điểm chung, hệ thống An sinh xã hội có hai
yếu tố đặc biệt, đó là ưu đãi xã hội và phong trào xã hội.
Ưu đãi xã hội là bộ phận của hệ thống An sinh xã hội, nhằm giải quyết chế độ cho những
người có công với nước. Đây là bộ phận rất đặc trưng của hệ thống an sinh ở Việt Nam,
do điều kiện lịch sử và yếu tố truyền thống quy định.

Phần III: KỸ NĂNG THỰC HÀNH TỔ CHỨC THỰC HIỆN TÁC PHẨM
BÁO CHÍ VỀ AN SINH XÃ HỘI. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HỒN
THIỆN HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ VỀ AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Nhiệm vụ của các cơ quan báo chí trong việc tun truyền An sinh xã hội
Chìa khóa để tạo nên sự hiệu quả chính là việc kết nối một cách thường xuyên liên tục
giữa các nhóm có liên quan ở các góc độ, vai trị khác nhau; ví dụ như người lao động,
chủ sử dụng lao động, cơ quan xây dựng luật, nhân viên cơ quan an sinh xã hội, cơ quan
báo chí… Từ đó tạo nền tảng để chia sẻ thông tin, kiến thức, các ý kiến, quan điểm…
nhằm đem lại lợi ích chung nhất cho các bên liên quan. Công tác truyền thông nếu được

thực hiện hiệu quả sẽ đem lại những lợi ích thiết thực.

20


Theo đó, người dân hiểu rõ được quyền lợi và trách nhiệm khi tham gia hệ thống an sinh
xã hội. Các thơng tin phức tạp mang tính chun ngành, các quy trình thủ tục hành chính
sẽ được chuyển tải một cách đơn giản, dễ hiểu phù hợp với đa số các nhóm cơng chúng.
Truyền thơng tốt sẽ giúp người dân chủ động hơn trong việc thực hiện các thủ tục, giảm
áp lực đáng kể cho những nhân viên tiếp nhận, giải quyết hồ sơ ở những khâu đầu tiên.
Truyền thông giúp gia tăng niềm tin từ người dân với về khả năng cung ứng dịch vụ của
cơ quan an sinh xã hội cũng như với hệ thống chính sách từ đó tham gia một cách chủ
động, dài lâu; bảo đảm tính bền vững cho các quỹ an sinh. Truyền thơng tốt cũng sẽ làm
hình ảnh tổng thể, vai trị của cơ quan an sinh hiện lên một cách tích cực trong nhìn nhận
đánh giá của người dân; nêu cao tinh thần làm việc của nhóm nhân viên nội bộ cùng nâng
cao hiệu quả công việc, hướng tới mục tiêu phát triển chung. Từ công tác truyền thông,
người làm công tác quản lý cấp cao trong cơ quan an sinh xã hội cũng sẽ có được những
khuyến nghị, sáng kiến thiết thực phục vụ công tác điều hành. Xuất phát từ những lý do
trên, ISSA nhấn mạnh sự cần thiết phải: xây dựng chiến lược, phát triển mạng lưới truyền
thông chuyên nghiệp và hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác truyền
thông nhiều kinh nghiệm, chuyên nghiệp; thiết lập bộ công cụ đánh giá hiệu quả truyền
thông một rõ ràng.
Yếu tố đầu tiên cần phải được chú trọng trong quá trình xây dựng chiến lược, kế hoạch
truyền thơng chính là những thơng điệp cơ bản về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức an
sinh xã hội; cho thấy rõ sứ mệnh, tầm nhìn và vai trị trong việc bảo đảm lợi ích cho
người dân tham gia. Bên cạnh đó, với vai trị là cơ quan an sinh xã hội, nắm giữ một
lượng lớn thông tin của số đơng người tham gia nên q trình truyền thơng, đưa thông tin
phải đảm bảo các quy định về đạo đức, bảo vệ các quyền lợi cơ bản của cá nhân người
tham gia; thơng tin truyền đạt phải chính xác, rõ ràng. Đây cũng là yếu tố cần bảo đảm
truyền thông phải mang tính tư vấn, giải đáp mang tính chất phục vụ lợi ích và có sự kết

nối thơng tin thường xuyên của các bên liên quan; bao gồm cả người dân tham gia và các
cơ quan phối hợp thực hiện. Tinh thần cầu thị, lắng nghe, để tiếp nhận thông tin và chủ
động giải quyết vướng mắc phát sinh, bảo đảm quyền lợi, qua đó nâng cao niềm tin.
21


Với tính chất bao gồm đa dạng và số đơng đối tượng, truyền thông trong lĩnh vực an sinh
xã hội đòi hỏi phải xây dựng chiến lược và kế hoạch thực hiện mang tính phổ quát, với
những yêu cầu nhất định về chất lượng, phù hợp, linh hoạt tương ứng hỗ trợ thực hiện các
nhiệm vụ chung của cơ quan an sinh xã hội. Truyền thông phải là một phần thiết yếu
trong chiến lược phát triển chung của toàn hệ thống; thiết lập cơ chế để các hoạt động,
công việc của từng bộ phận hỗ trợ cho công tác truyền thơng cả bên trong và bên ngồi.
Chi phí truyền thơng cần được kiểm soát chặt chẽ, giám sát để thực hiện đạt được các
mục tiêu với kinh phí tiết kiệm. Cần có một bộ phận tổng hợp, cập nhật các tin tức
thường xuyên và lựa chọn người có thể chủ động xử lý, tác động thông tin trở lại đến các
bên liên quan. Tính đến việc sử dụng các cơng nghệ truyền thơng mới và mạng xã hội.
Khi có khủng hoảng truyền thơng, cần duy trì việc cung cấp thơng tin một cách kịp thời,
liên tục, chính xác và phù hợp, tránh gián đoạn, hoặc im lặng không cung cấp thông tin.
Lường trước được vấn đề khủng hoảng truyền thông cũng như thời điểm có thể xảy ra là
yếu tố quan trọng để xây dựng kế hoạch xử lý.
Người đứng đầu đơn vị truyền thông phải là một trong những quản lý cấp cao của hệ
thống cơ quan an sinh xã hội để đảm bảo có thể tham gia các kế hoạch, hoạt động quan
trọng. Ngồi việc truyền tải thơng điệp cho thấy sứ mệnh, tầm nhìn của cơ quan an sinh
xã hội, đơn vị truyền thông cũng cần bảo đảm hỗ trợ cung cấp thông tin cho người dân
một cách hiệu quả, nhất là về các hoạt động, dịch vụ liên quan đến quyền lợi hưởng các
chế độ an sinh. Việc xây dựng thương hiệu cần được tính đến, bảo đảm thiết kế nhận diện
một thương hiệu độc đáo xuất phát từ sứ mệnh và tầm nhìn của cơ quan an sinh xã hội.
Tất cả các công cụ và hoạt động truyền thơng đều nhằm đến mục đích quảng bá thương
hiệu ngày một mạnh mẽ hơn. Đội ngũ cán bộ truyền thơng cần có kỹ năng chun nghiệp
và am hiểu kiến thức chuyên ngành. Những ứng dụng công nghệ hiện đại cần được sử

dụng nhằm đem lại hiệu quả, tăng tính tương tác giữa các nhóm. Xây dựng một bộ chỉ số
để đánh giá hiệu quả các hình thức, kênh truyền thơng với các nhóm nội bộ cũng như
nhóm bên ngồi có liên quan.

22


Truyền thơng nội bộ đóng vai trị quan trọng là một cơng cụ nhằm tạo sự đồn kết, cùng
hướng tới việc thực hiện một mục tiêu chung, qua đó tăng cường sự gắn kết giữa các bộ
phận. Truyền thông nội bộ cũng là cơng cụ để xây dựng văn hóa, bản sắc của một tổ
chức; thúc đẩy sự nhiệt huyết của từng cán bộ, phát triển kỹ năng làm việc nhóm, đồn
kết nội bộ… là các yếu tố nâng cao chất lượng dịch vụ. Trong những trường hợp cần có
sự thay đổi về đường hướng phát triển chung, truyền thông là một công cụ chiến lược, tạo
sự thống nhất ngay từ trong nội bộ hệ thống. Các vấn đề cần thay đổi, tại sao cần thay
đổi, lợi ích đem lại, cách thực hiện và thời điểm thực hiện… sẽ được tồn bộ nhân viên
nhận thức một cách nhanh chóng qua đó tạo nguồn động lực lớn cho q trình tổ chức
thực hiện.
Các nhóm đối tượng tham gia và thụ hưởng các chế độ an sinh cũng như các nhóm cơ
quan tham gia phối hợp tổ chức thực hiện chính là mục tiêu quan trọng cần hướng tới,
chú trọng truyền thông rõ đến người dân/ khách hàng những lợi ích, các chế độ hay dịch
vụ họ được thụ hưởng. Cung cấp chuyển tải thơng tin một cách chính xác, dễ hiểu về các
chế độ, dịch vụ người dân được hưởng qua các kênh khác nhau, một cách thường xuyên
liên tục, nhất quán trong các thông điệp, thông tin được chuyển đi dù loại hình, kênh
truyền thơng có thể khác nhau. Trong q trình đó, quan hệ với các cơ quan báo chí,
truyền thơng chun nghiệp mang tính đại chúng là một u cầu tất yếu. Nhìn chung các
chính sách an sinh xã hội thường khá phức tạp. Cần có sự tương tác, quan hệ thường
xuyên để bảo đảm đội ngũ biên tập viên, phóng viên các cơ quan báo chí có thể chuyển
tải chính xác thơng tin, nâng cao hiệu quả tác động đến các nhóm cơng chúng. Xa hơn
cần có chiến lược để phát triển văn hóa an sinh xã hội; truyền thơng đóng vai trị như một
cơng cụ chiến lược để thực hiện mục tiêu này.

An sinh xã hội là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Nghiên cứu An sinh xã
hội nhằm đưa chủ trương này đến gần với nhân dân là điều rất cần thiết đối với các cơ
quan tuyên truyền, đặc biệt là các cơ quan báo chí và mỗi nhà báo. Muốn vậy, các cơ
quan báo chí cần chú ý đến một số nhiệm vụ cần thực hiện để nâng cao chất lượng sản
phẩm thông tin về An sinh xã hội.
23


* Thơng tin đầy đủ, kịp thời, chính xác các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách của Nhà nước về An sinh xã hội
Với tư cách là cơ quan ngơn luận của Đảng, báo chí có nhiệm vụ thơng tin kịp thời, đầy
đủ, chính xác các chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước. Việc thông tin về lĩnh vực
An sinh xã hội khơng nằm ngồi nhiệm vụ đó, tuy nhiên, báo chí ngày nay cần tập trung
đưa tin về các hoạt động An sinh xã hội tích cực hơn nữa bởi đây là lĩnh vực mới, cần
phổ biến rộng rãi cho công chúng hiểu rõ ràng và đầy đủ.
Xã hội Việt Nam là một xã hội vì con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội và lấy việc nâng cao chất lượng cuộc sống con người làm
mục tiêu phục vụ. Vì thế, trong mỗi bước đi, Đảng và Nhà nước đều nhấn mạnh phát
triển kinh tế phải đi đôi với giải quyết tốt những vấn đề xã hội, trong đó trung tâm là đảm
bảo An sinh xã hội. Có như vậy Việt Nam mới đảm bảo được sự phát triển bền vững về
xã hội, tăng trưởng về kinh tế, giữ vững được ổn định xã hội, tạo nguồn lực cho tương lai
của đất nước...
Đại hội IX và X của Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát
triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh
mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các
quan hệ xã hội, khuyến khích nhân sân làm giàu hợp pháp...”. Theo đó, đã chỉ ra một số
mục tiêu cần giải quyết đến năm 2010, trong đó có đề cập đến các chỉ tiêu về các lĩnh
vực: giải quyết việc làm, tiền lương và thu nhập, xố đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa,
xây dựng cơ sở hạ tầng nơng thơn, chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân,
chính sách chăm sóc và bảo vệ trẻ em...

Như vậy, có thể thấy việc đảm bảo An sinh xã hội có trong tất cả các chính sách của Đảng
và Nhà nước, là mục tiêu hàng đầu trong đường li phát triển của Việt Nam.
Thông tin về An sinh xã hội là nhiệm vụ quan trọng của báo chí, thơng qua việc thơng tin
các chính sách về An sinh xã hội cũng như mọi chính sách, chủ trương liên quan đến lĩnh
vực này.
24


* Tham mưu, đề xuất cho cơ quan quản lý Nhà nước hoàn thiện hệ thống An sinh xã
hội ở Việt Nam
Nhiệm vụ của báo chí khơng chỉ là phản ánh thơng tin một chiều mà cịn có trách nhiệm
tham mưu cho Chính phủ và cơ quan quản lý Nhà nước các cấp những sáng kiến nhằm
hoàn thiện hệ thống An sinh xã hội ở Việt Nam.
Thông qua kênh thông tin của mình, báo chí đăng tải ý kiến của các nhà chun mơn, nhà
doanh nghiệp, người dân, hoặc chính người làm báo những thẩm định, đánh giá của mình
về những chính sách An sinh xã hội đang thực thi trong nước. Như vậy, báo chí thực hiện
chức năng kiểm tra, giám sát việc thực hiện những chính sách của Nhà nước đến với đời
sống người dân.
Bên cạnh đó, báo chí đưa ra những kinh nghiệm thực hiện An sinh xã hội có lợi cho
người dân tại địa phương trong nước hoặc trên thế giới. Báo chí phát hiện và đăng tải
gương người tốt, việc tốt trong lĩnh vực An sinh xã hội để nhân rộng trên toàn quốc.
Đồng thời, phê phán những hiện tượng lạm dụng ý nghĩa nhăn văn của hoạt động an sinh
nhằm trục lợi cá nhân.
Ngoài ra, báo chí cịn có nhiệm vụ tổng kết, dự báo tiến trình An sinh xã hội ở Việt Nam,
nhằm gợi mở những giải pháp hữu hiệu cho Nhà nước để đổi mới hệ thống An sinh xã
hội, nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho người dân, phù hợp với thông lệ quốc tế.
* Thường xuyên đăng tải các ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân về An sinh
xã hội
Báo chí khơng thơng tin một chiều. Thơng tin trên báo chí muốn hấp dẫn và có chất
lượng cần phải đảm bảo tính đa dạng, phong phú và gần gũi với cơng chúng. Chính bởi vì

ngồi là tiếng nói của Đảng, báo chí cịn là diễn đàn của đơng đảo các tầng lớp nhân dân.
Qua báo chí, người dân được trực tiếp nói lên tiếng nói của mình. Họ có thể là những
“nhà phê bình” đầy trách nhiệm trước những chính sách mới về An sinh xã hội, hoặc việc

25


×