Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận pháp luật và đạo đức báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.44 KB, 33 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ & TUN TRUYỀN
Khoa Phát thanh – Truyền hình
*********

TIỂU LUẬN
Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo “Chuẩn mực và trách
nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác”, anh (chị) hiểu
điều trên như thế nào? Liên hệ thực tế tại Việt Nam

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thùy Vân Anh
Họ và tên sinh viên : Ngô Đặng Vân Anh
Mã SV
: 1756000003
Lớp
: Mạng điện tử K37a2

Hà Nội, 2021


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Bất kể nghề nghiệp nào cũng đều có những quy tắc cơ bản về đạo đức, song nghề báo với
những đặc thù riêng ln địi hỏi những người hoạt động trong lĩnh vực báo chí, truyền
thơng cần phải tuân thủ đạo đức nghề nghiệp một cách nghiêm ngặt. Mặt khác, trong xã
hội phát triển và tiến bộ ngày nay, con người, sống không thể thiếu các phương tiện
truyền thông đại chúng, đồng thời xẫ hội muốn phát triển ổn định cũng không thể xa rời
các phương tiện này, đặc biệt là mạng xã hội. Mạng xã hội đã trở thành một “món ăn”
khơng thể thiếu trong cuộc sống của người dân Việt Nam. Do vậy, ở bất kì quốc gia nào,
công chúng đều rất quan tâm đến những quy tắc xử xự trên mạng xã hội.


Nhiều cơ quan báo chí (đặc biệt báo điện tử) đã sử dụng mạng xã hội và trang fanpage để
tăng cường tương tác giữa tòa soạn và bạn đọc, là kênh quảng bá hữu hiệu cho báo chí.
Đồng thời, các phóng viên-nhà báo sử dụng mạng xã hội (facebook, twitter.
Instargram…) để chia sẻ thông tin lẫn nhau và là nguồn cung cấp tin, bài cho độc giả và
cũng là nguồn cung cấp chủ đề mới thu hút bạn đọc. Tuy nhiên, mạng xã hội cũng có
khơng ít ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống báo chí, đặc biệt những tờ báo gánh vác nhiệm
vụ chính trị, định hướng người đọc. “Trên thực tế thời gian qua, trên mạng xã hội đã tồn
tại vô vàn những thơng tin khơng được kiểm sốt, được nhiều người chia sẻ, hưởng ứng
trong đó có các nhà báo. Những thông tin như vậy đã gây hệ lụy không nhỏ với sự ổn
định trong xã hội. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là, chuẩn mực và trách nhiệm của nhà báo khi
tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác như thế nào, cụ thể là gì
trong điều kiện hiện nay?”- ơng Hồ Quang Lợi nhấn mạnh. Vì thế, ngày 16/12/2016, Hội
nhà báo Việt Nam đã chính thức ban hành Quy định đạo đức của người làm báo nhằm
chấn chỉnh và định hướng hoạt động cho các nhà báo ở Việt Nam. Trong số 10 điều trong
Quy định thì Điều 5 đặc biệt nhấn mạnh về “Chuẩn mực và trách nhiệm của người làm
báo khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác”.

2


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.

VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ

1. Khái niệm về đạo đức báo chí
1.1. Khái niệm về đạo đức
Theo quan niệm phương Đơng, đạo đức có nghĩa là “đạo làm người”, bao gồm nhiều
chuẩn mực về các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, bạn bè, anh em, làng xóm... Ở
phương Tây, khái niệm đạo đức bắt nguồn từ chữ “mos” trong tiếng Latinh, có nghĩa là

“lề thói”, “moralis” có nghĩa là “thói quen”. Như vậy, khi nói đến đạo đức là nói đến các
lề thói và tập tục biểu hiện trong mối quan hệ giao tiếp hàng ngày giữa người với người.
Khái niệm quốc tế của đạo đức là “moral”.
Theo C. Mác, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội” chịu sự tác động qua lại của các
hình thái ý thức xã hội khác và cùng với các hình thái ý thức xã hội ấy, đạo đức chịu sự
quy định của tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Do đó, đạo đức có “bản chất xã hội”.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa là một hình thái ý thức xã hội, tập hợp những nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người
trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”?.
Như vậy, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội, phản
ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Thích ứng với mỗi một xã hội thì có một đạo đức
xã hội tương ứng. Suy cho cùng, sự phát sinh, phát triển của đạo đức phụ thuộc vào sự
phát triển của phương thức sản xuất.
Cùng với nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người, đạo đức đánh giá hành vi con
người theo các chuẩn mực và các giá trị như thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, đúng
và sai, cái phải làm và cái không được làm, cái nên làm và cái không nên làm... Việc yêu
nước, thương dân, kính trên nhường dưới, hiếu thuận với cha mẹ, đối xử chan hòa với
3


anh em, bạn bè, hàng xóm... đều do các chuẩn mực đạo đức của xã hội chi phối các hành
vi cá nhân. Chuẩn mực đạo đức là phương thức điều chỉnh ưu việt và đặc thù của xã hội
loài người, giúp con người có khả năng tự hồn thiện mình và phát triển ngày một văn
minh, tiến bộ.
Về mặt xã hội, đạo đức được biểu hiện bằng thái độ cụ thể của dự luận xã hội. Đó là
những ý kiến, trạng thái tinh thần tán thưởng, khẳng định (tích cực) hoặc phê phán, phủ
định (tiêu cực) của một số động người đối với một hành vi, ý tưởng của cá nhân hay một
nhóm người nào đó. Về mặt cá nhân, đạo đức được coi là “tịa án lương tâm" có khả năng
tự phê phán, đánh giá và suy xét từng hành vi, thái độ và ý nghĩ trong bản thân mỗi cá

nhân.
Xét về bản chất, sự điều chỉnh của đạo đức mang tính tự giác, là sự tự lựa chọn của mỗi
người. Đạo đức được bảo đảm bằng lương tâm và sự phê phán của dư luận xã hội, chỉ
khuyên giải, can ngăn để con người tự lựa chọn. Từ những chuẩn mực và quy tắc chung,
mỗi cá nhân tự chọn lựa và có nghĩa vụ, trách nhiệm chuyển những yêu cầu đạo đức xã
hội đó thành nhu cầu, mục đích và sự hứng thú của bản thân. Biểu hiện của sự chuyển
hóa này là sự tự giác tuân theo những quy tắc, chuẩn mực mà xã hội đã đề ra. Vì vậy,
ngồi biểu hiện trong các quan hệ xã hội, đạo đức còn thể hiện trong thái độ, hành vi và
việc tự ứng xử của bản thân mỗi con người.
Tuy cùng tham gia vào việc quản lý đất nước và đảm bảo trật tự an ninh xã hội, nhưng
đạo đức và luật pháp rất khác nhau. Đạo đức và luật pháp có cùng mục tiêu là điều chỉnh
hành vi của con người nhằm bảo đảm hoạt động bình thường của xã hội. Một người vi
phạm đạo đức thường là vi phạm pháp luật và ngược lại vi phạm pháp luật cũng là vi
phạm đạo đức. Tuy nhiên, luật pháp thường mang tính phổ biến và là những quy định tối
thiểu để mọi công dân dễ dàng thực hiện, nhưng đạo đức lại có yêu cầu cao hơn luật
pháp, đó là những điều mà con người cần vươn tới, Luật pháp có tính cưỡng chế bắt buộc
và được bảo đảm bằng sự trừng phạt của Nhà nước, còn đạo đức được bảo đảm bằng
lương tâm và sự phê phán của dư luận xã hội, Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của luật
pháp là hành động của công dân (hay của pháp nhân). Luật pháp chỉ có thể điều chỉnh
hành vi con người khi tư duy, phong thái biểu hiện ra hành động cụ thể. Đối với những
vấn đề thuộc tư duy, phong thái, thái độ... luật pháp không thể tính hết. Cho nên một hành
vi có thể khơng bị luật pháp trừng phạt nhưng lại bị lên án về mặt đạo đức,

4


Bên cạnh luật pháp, đạo đức cịn có mối quan hệ mật thiết với các thiết chế xã hội khác
như chính trị, văn hóa... đặc biệt là kinh tế. Bất kỳ sự biến đổi nào của kinh tế cũng có tác
động và ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới đạo đức xã hội. Hiện nay, nước ta đang
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều này tác động lớn đến

đạo đức và sự tác động đó bao gồm cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Mặc dù có tác động
tiêu cực, song nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo điều kiện để
hình thành đạo đức mới. Và đạo đức mới lại góp phần hồn thiện cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, là động lực thúc đẩy xã hội tiến bộ, vì hạnh phúc của con người.
1.2. Khái niệm về đạo đức nghề nghiệp
Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức trong một lĩnh vực
cụ thể trong đạo đức chung của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp bao gồm những yêu cầu đạo
đức đặc biệt, các quy tắc và chuẩn mực trong lĩnh vực nghề nghiệp nhất định, nhằm điều
chỉnh hành vị của các thành viên trong nghề nghiệp đó sao cho phù hợp với lợi ích và sự
tiến bộ của xã hội.
Xã hội đòi hỏi người hành nghề trong bất cứ lĩnh vực nào cũng phải tuân thủ những
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cơ bản. Phẩm chất đạo đức cá nhân trong xã hội có nét
chung, nhưng phẩm chất đạo đức trong từng nghề nghiệp lại có những nét đặc thù và yêu
cầu riêng biệt. Tuân theo các nguyên tắc, chuẩn mực trong đạo đức nghề nghiệp vừa góp
phần vào tăng trưởng kinh tế, vừa tạo điều kiện nâng cao chất lượng lao động, hồn thiện
người lao động trong nghề nghiệp đó.
Nghề nào cũng cần có đạo đức nghề nghiệp, song một số nghề có vị trí quan trọng đặc
biệt và mối quan hệ rộng rãi tới nhiều người trong xã hội như nghề giáo, nghề báo, nghề
y, nghề luật, an ninh, tòa án... thì đạo đức nghề nghiệp được đặc biệt coi trọng. Với những
nghề này, bện cạnh những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chung cho tất cả các quốc gia
như đạo đức người thầy giáo, đạo đức người thầy thuốc, đạo đức quan tịa, đạo đức nghề
báo... thì mỗi nước, trong mỗi thời kỳ lịch sử lại đề ra những chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp riêng cho người hành nghề ở nước mình. Ví dụ, bên cạnh lời thể Hypocrat có tính
phổ quát cho những người làm trong ngành y trên tồn thế giới thì cịn có những chuẩn
mực đạo đức của người thầy thuốc Việt Nam dựa theo lời dạy của các danh y người Việt
và của Bác Hồ đối với cán bộ, nhân viên ngành y.
1.3. Đạo đức nghề báo
5



Tác giả E.P. Prôkhôrốp trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí cho rằng đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo là “những quy định đạo đức không được ghi trong đạo luật, nhưng được chấp
nhận trong giới báo chí và được duy trì bởi sức mạnh của dư luận xã hội, bởi các tổ chức
sáng tạo nghề nghiệp, đó là những nguyên tắc, những quy định và những quy tắc về hành
vi đạo đức của nhà báo”.
Trong cuốn Thuật ngữ Báo chí - Truyền thơng, tác giả cho rằng đây là “khái niệm chỉ tư
cách, lương tâm nghề nghiệp trong hoạt động báo chí, biểu hiện qua hành vi, nguyên tắc
ứng xử của người làm báo”.
Như vậy, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn mực quy định thái
độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các mối quan hệ nghề nghiệp.
Trên thực tế hiện nay, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo còn được gọi bằng nhiều tên
khác nhau với ý nghĩa đồng nhất. Đó là đạo đức nghề báo, đạo đức báo chí, đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo, đạo đức nhà báo.
Đạo đức báo chí là đạo đức của một ngành, một lĩnh vực. Đạo đức nhà báo bao gồm đạo
đức con người và đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
Tuy đây là hai khía cạnh nhưng lại tồn tại chung trong một con người - nhà báo. Vì vậy,
chúng có quan hệ mật thiết với nhau, khó tách rời.
Đạo đức nghề báo, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo và đạo đức nghề nghiệp của người
làm báo có chung một ý nghĩa.
Theo tác giả G.VLadutina, gắn liền với khái niệm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo cịn
có các khái niệm bổn phận nghề nghiệp, trách nhiệm nghề nghiệp và lương tâm nghề
nghiệp. Đây là những khái niệm phản ánh các khía cạnh của các quan hệ đạo đức nghề
báo, bắt nguồn từ bản chất công việc của nhà báo và thể hiện dưới dạng thúc dục các
hành động cần thiết cho việc hoàn thành các nhiệm vụ nghề nghiệp. Bổn phận nghề
nghiệp của nhà báo là “quan niệm do cộng đồng các nhà báo thảo ra về các trách nhiệm
trước xã hội mà nhà báo tự nguyện gánh vác, trên cơ sở phù hợp với vị trí và vai trị của
mình trong đời sống xã hội”.
6



Trách nhiệm nghề nghiệp của nhà báo là sự phụ thuộc trong thực tế giữa kết quả hoạt
động nghề nghiệp của nhà báo và những hậu quả mà nó có thể gây ra cho xã hội, cho
những con người cụ thể. Bản thân những nhà báo có trách nhiệm nghề nghiệp là những
người nhận thức được sự liên quan của mình tới các hậu quả của hoạt động nghề nghiệp.
Lương tâm nghề nghiệp của nhà báo là sự định hướng đặc biệt của cá nhân nhà báo về
các hoạt động nghề nghiệp, có khả năng tạo ra trạng thái thanh thản về tâm hồn, một sự
thoải mái bên trong. Lương tâm nghề nghiệp giống như cái máy chỉ báo đầy nhạy cảm về
sự tương ứng giữa cách xử sự của nhà báo với các quy tắc, chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp. Nó ngăn chặn hoặc xui khiến, thúc đẩy nhà báo tiến hành những bước đi nghề
nghiệp theo hướng tốt nhất.
2. Tầm quan trọng của đạo đức báo chí
Mặc dù ra đời muộn hơn so với các hình thái ý thức xã hội khác song báo chí đã nhanh
chóng vượt lên trong việc phản ánh sinh động, đa dạng hiện thực cuộc sống. Thơng tin
báo chí có tính xã hội rất cao, đáp ứng đa dạng sự quan tâm, sở thích và nhu cầu, tác động
cùng lúc tới nhiều tầng lớp nhân dân. Vì vậy, sức ảnh hưởng của nó tới tồn xã hội trên
tất cả các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, giáo dục, phong tục tập quán... là rất
lớn. Thêm nữa, nhờ khả năng tác động nhanh chóng và mạnh mẽ vào ý thức xã hội và đơi
khi biến ý thức đó thành hành động cụ thể, báo chí giống như một thứ quyền lực có tác
động mạnh mẽ đến suy nghĩ và hành động của con người trong xã hội.
Ngày nay, vị trí và vai trị của báo chí trong đời sống xã hội ngày càng được nâng lên, nó
trở thành một bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con
người, ở một khía cạnh nào đó nó tham gia vào tiến trình lịch sử của thời đại.
Xét một cách tổng thể, xã hội càng phát triển thì vai trị xã hội của báo chí càng phát triển
và thể hiện càng phong phú, đa dạng. Bởi suy cho cùng, báo chí là yếu tố kích thích, thúc
đẩy xã hội phát triển, và đến lượt nó, xã hội lại đặt ra cho báo chí những yêu cầu, nhiệm
vụ tương ứng với thời kỳ mới.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao tầm quan trọng của báo chí. Người ln
coi báo chỉ là một vũ khí sắc bén, một bộ phận không thể thiếu của công tác cách mạng,
có sức ảnh hưởng trong dân chúng rất mạnh và có một địa vị quan trọng trong dư luận”.
Người nói: “Tờ báo chỉ là giấy trắng mực đen mà thôi. Nhưng với giấy trắng mực đen ấy,

7


người ta có thể viết những bức tối hậu thư, người ta có thể viết những bức thư yêu
đương”. Đối với Người, báo chí là phương tiện vận động, tập hợp lực lượng cách mạng
và tổ chức thực hiện mục tiêu cách mạng một cách hiệu quả nhất.
Chính vì báo chí có vị trí và vai trị to lớn, cùng lúc có thể tác động đến nhiều người,
nhiều tầng lớp trong xã hội, nhiều lĩnh vực của cuộc sống nên những người làm nghề này
trong mỗi tác phẩm và sản phẩm của mình phải nhận thức sâu sắc từng việc làm, cân
nhắc kỹ lưỡng và xem xét cẩn trọng những hậu quả có thể xảy ra đối với xã hội. Chỉ cần
một chút thiếu thận trọng của nhà báo, xã hội phải bỏ ra gấp trăm ngàn lần công sức để
khắc phục hậu quả. Cùng đưa tin về một sự việc, nhưng nhà báo có đạo đức nghề nghiệp
sẽ đặt lợi ích của số đơng, của cơng chúng, nhân dân lên trên, còn nhà báo thiếu đạo đức
nghề nghiệp đầu tiên sẽ nghĩ đến lợi ích của bản thân mình hoặc cơ quan báo chí của
mình mà bất chấp hậu quả xảy ra với xã hội. Ví dụ như những thông tin về giá lương
thực, về bưởi gây ung thư, về sầu riêng có hóa chất carbendazim...
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà báo phải ln tự giác nhận thức đầy đủ tính chất và vai
trị xã hội của các hành vi sáng tạo mà mình thực hiện, phải học tập và tu dưỡng đạo đức.
Còn theo nhà báo Hữu Thọ thì “nghề nào cũng cần có đạo đức nhưng nghề báo là nghề
có quan hệ tới nhiều người, nhiều tầng lớp, đóng vai trị quan trọng trong tạo dựng và
định hướng dư luận xã hội nên đạo đức nghề báo cần được coi trọng và chú ý rất nhiều”.
Sở dĩ đạo đức nghề báo được nhiều người quan tâm, dễ dàng lan tỏa trong dư luận xã hội,
vì đây là nghề mang tính xã hội cao, có sức ảnh hưởng lớn nên những vấn đề thuộc báo
chí đều được dư luận xã hội quan tâm. Thêm nữa, sức ảnh hưởng của nghề báo đối với xã
hội rất lớn nên hậu quả của việc nhà báo thiếu đạo đức cũng khơng nhỏ.
Xét một cách tồn diện, ngành nghề nào cũng cần có đạo đức. Nhưng với một nhà báo những người ln được coi là đại diện cho tiếng nói của nhân dân, thì đạo đức nghề
nghiệp lại càng cần phải được đề cao. Lương tâm nghề nghiệp, trách nhiệm với sự thật là
điều đầu tiên phải nghĩ đến khi đứng trước muôn ngàn sự kiện, con chữ. Điều khiến xã
hội sợ hãi là một nhà báo tài năng nhưng lạnh lùng và vô cảm. Biết rung cảm trước
những đớn đau của xã hội, đồng cảm với tiếng nói của những người dân nghèo khổ thì

nhà báo sẽ nghiêm khắc hơn trước những sai lầm của mình và của đồng nghiệp. Với nhà
báo, danh tiếng là điều mà xã hội công nhận cho những cống hiến của họ. Những cống
hiến ấy khơng tính bằng một vài bài báo hay bằng vài tháng, vài năm mà phải cả cuộc đời
phấn đấu lao động không mệt mỏi.
8


Trước đây, nhà báo Tam Lang cũng đã từng nhấn mạnh đến thiên chức của nhà báo
nhưng nếu không đảm bảo một cách “ngay thẳng và trung thực” thì tờ báo sẽ trở thành
“con dao nhọn” quay ngược lại chính mình: “Người làm báo muốn đạt được thiện chức
của mình trước hết phải biết nói lên sự thật, dám nói sự thật để thực hiện cái quyền thứ tư
của dân chúng đã trao cho và tín nhiệm... Tờ báo, nếu người làm báo biết sử dụng nó
đúng mức thì đó là một lợi khi cải tạo xã hội có sức mạnh vạn năng. Người khơng biết
dùng nó phải đường thì đó là con dao nhọn đâm ngay chính mình nhất”.
Nhà báo Trần Hữu Quang (Thời báo Kinh tế Sài Gòn) đã rất đúng khi cho rằng: làm báo
không chỉ là một nghề, mà còn là một sứ mệnh. Bởi nghề báo khơng tồn tại tự nó và cho
nó, mà tồn tại vì xã hội và bởi xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế để trở thành một nhà báo có đạo đức nghề nghiệp không đơn giản
chút nào. Không phải cứ tuân theo đầy đủ các quy định của luật pháp là đã trở thành nhà
báo có đạo đức. Thực tiễn cuộc sống đa dạng và mn hình mn vẻ. Vì thế, nhà báo
phải trau dồi đạo đức suốt đời thì mới đáp ứng được yêu cầu của Đảng, của nhân dân, của
xã hội. Đặc biệt trong cơ chế thị trường phức tạp như hiện nay, báo chí nói chung, nhà
báo nói riêng ln phải chịu sự tác động theo hai chiều: tích cực và tiêu cực, nó vừa đặt
ra nhiều cám dỗ nhưng cũng là nơi “lửa thử vàng”.
3. Vai trị của đạo đức báo chí
“Báo chí có vai trị sống còn trong nền dân chủ, và nếu chúng ta không thể trông cậy vào
đạo đức nghề báo, quốc gia gặp phải bất ổn” – Dave Brat. Nghề báo trong xã hội là một
nghề mang tính đặc thù, mỗi thơng tin trên báo chí đều có ảnh hưởng nhất định tới dư
luận xã hội; và nếu thông tin khi xuất hiện trên mặt báo trong hình hài bị cắt xén, chèn
“ẩn ý” của người viết hoặc khơng chính xác thì có thể ảnh hưởng đến cá nhân, tập thể,

một cộng đồng và cả lợi ích quốc gia. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã để lại cho rằng đạo đức
nhà báo biểu biện ở ý thức tôn trọng nghề nghiệp. Người đặt "nhà báo" ngang với "nhà
cách mạng chuyên nghiệp". Trong "nhà báo" có phẩm chất của "nhà cách mạng chuyên
nghiệp" và nhà cách mạng chuyên nghiệp Hồ Chí Minh đã hòa làm một với nhà báo chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, chính trị, tư tưởng. Vì thế đạo đức nghề nghiệp đóng vai
trị như “chiếc la bàn” của những nhà hoạt động trong lĩnh vực báo chí – truyền thông,
4. Đạo đức nghề nghiệp người làm báo

9


So với các quy tắc về đạo đức nghề nghiệp của các quốc gia, vùng lãnh thổ và tổ chức
báo chí quốc tế, thì Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam vừa có
những điểm tương đồng vừa có một số nét mang tính đặc thù, như:
Một là, hầu hết các quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới và Quy định đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo Việt Nam đều xác định rõ mục tiêu phấn đấu của nhà báo và
nghề báo. Tuy nhiên, nhiều quy tắc xác định mục tiêu này một cách chung chung, như: tự
do, dân chủ, cơng bằng, chính nghĩa, quyền con người... Ví dụ: Quy tắc đạo đức của Hội
đồng Báo chí Ơxtrâylia xác định mục tiêu của mình là vì “sự tự do của các phương tiện
truyền thông trong một xã hội dân chủ”; Quy tắc đạo đức nghề báo của Ấn Độ là vì “một
nền báo chí tự do, phát triển lành mạnh và tốt đẹp trong một xã hội tự do”; Quy tắc đạo
đức của Liên đoàn các Nhà báo ASEAN đặt mục tiêu phấn đấu là vì mục tiêu hịa bình và
tiến bộ trong khu vực; nỗ lực hết mình thúc đẩy mối quan hệ thân thiện hơn giữa các
nước; Quy tắc cho Đài Phát thanh và Truyền hình Bănglađét xác định 4 mục tiêu cơ bản:
“Phổ biến thông tin, phổ cập giáo dục, thúc đẩy con người tham gia vào các hoạt động
phát triển và mang đến các chương trình giải trí lành mạnh”.
Tuỳ thuộc vào mỗi nền báo chí mà nguyên tắc quy định mục tiêu phấn đấu của nhà báo
và nghề báo được xếp ở vị trí nào trong bản quy tắc. Cịn Quy định của Việt Nam thì xác
định rõ người làm báo Việt Nam phải “Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam” và coi đây là nguyên tắc đầu tiên, cơ bản nhất. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI (tháng 12-1986), Đảng ta nhấn mạnh: “Báo chí là tiếng nói của Đảng, đồng thời
cũng phản ánh tiếng nói của quần chúng. Vì vậy, tồn bộ nội dung của Quy định đạo đức
nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam đều hướng đến tinh thần đó.
Hai là, hầu hết các quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới chỉ đề cập đến lợi ích của công
chúng. Chỉ một vài bản quy tắc đề cập đến lợi ích của nhân dân, ví dụ như Điều 1 Quy
tắc đạo đức của Liên đoàn các Nhà báo Arập quy định: “Các nhà báo cam kết tận tụy
trước mục tiêu của nhân dân và quyền lợi của các quốc gia Arập nhằm hướng tới sự
thống nhất, tự do và tiến bộ”; hay Điều 1, Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của người làm
báo Trung Quốc quy định nhà báo phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân: Hạt nhân của
việc xây dựng đạo đức xã hội chủ nghĩa là phục vụ nhân dân, đồng thời cũng là mục đích,
tơn chỉ của những người làm báo. Với quan điểm của Đảng và Nhà nước ta coi báo chí là
“diễn đàn của nhân dân”, Điều 2 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
10


Việt Nam cho rằng nhà báo phải “ln gắn bó với nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân”
và coi đây là một trong những điều cơ bản nhất.
Ba là, nhiều quy tắc cho rằng khách quan, chân thật trong thông tin là tiêu chuẩn đạo đức
cao nhất của nhà báo. Tuyên bố của IFJ về nguyên tắc đạo đức của nhà báo do Liên đoàn
quốc tế các Nhà báo (IFJ) thông qua năm 1954 được mở đầu bằng khẳng định: “Tôn
trọng sự thật và quyền của công chúng được biết sự thật là nhiệm vụ hàng đầu của nhà
báo”; Quy tắc đạo đức của Liên đoàn các Nhà báo ASEAN xác định điều đầu tiên của
người làm báo trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á là "luôn sử dụng các phương
pháp trung thực, rõ ràng và công bằng để thu thập tin tức, hình ảnh..."; Quy tắc của Hội
đồng Báo chí Đức coi: “Tơn trọng sự thật, bảo vệ nhân phẩm và thơng tin chính xác cho
cơng chúng là các nguyên tắc quan trọng nhất của bảo chí”... Quy định đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo Việt Nam cũng đề cao “tính trung thực, khách quan, tôn trọng
sự thật” nhưng cho đây là nguyên tắc thứ ba.
Bốn là, nhiều quy tắc đề cao sự liêm khiết trong nghề nghiệp. Bản Những nguyên tắc
quốc tế về đạo đức nghề báo nhấn mạnh: "Vai trò xã hội đòi hỏi nhà báo phải luôn đề cao

các tiêu chuẩn về tính liêm chính nghề. nghiệp... Tính liêm chính nghề nghiệp không cho
phép nhà báo nhận hối lộ hay cơ hội thăng tiến dưới bất cứ hình thức nào trái với lợi ích
chung". Trong Tuyên bố của IFJ về nguyên tắc đạo đức của nhà báo cho rằng: Nhận hối
lộ dưới mọi hình thức để cơng bố hoặc khơng cơng bố (một thơng tin nào đó) là hành vi
phạm lỗi nghiêm trọng nhất. Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam
cũng coi “Sống lành mạnh, trong sáng, không lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái
pháp luật” là một nguyên tắc cơ bản và xếp ở vị trí thứ tư.
Năm là, trách nhiệm xã hội của nhà báo cũng là một nguyên tắc được rất nhiều bản quy
tắc đạo đức trên thế giới đề cập. Khơng thể có được sự chân thật, khách quan nếu nhà báo
khơng có trách nhiệm xã hội. Bản Những ngun tắc quốc tế về đạo đức nghề báo cho
rằng: "Thông tin báo chí là một loại hàng hóa mang tính xã hội chứ khơng phải hàng hóa
vật chất, có nghĩa là các nhà báo cùng nhau có trách nhiệm truyền tải thơng tin và đó
khơng chỉ là trách nhiệm đối với những người quản lý các phương tiện truyền thông đại
chúng mà cịn là trách nhiệm với cơng chúng, với nhiều lợi ích xã hội khác nhau"; Hiệp
hội các Nhà báo chuyên nghiệp Hoa Kỳ cho rằng: “Các nhà bảo có trách nhiệm đối với
cơng chúng của mình và những người khác”; Hiến chương đạo đức của truyền thông Ba
Lan quy định: “Quyền tự do ngơn luận của báo chí đòi hỏi các nhà báo, biên tập viên, các
11


nhà sản xuất và phát thanh viên phải có trách nhiệm với hình thức và nội dung cũng như
những hậu quả, kết quả của thông tin”.
Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam cũng đề cao trách nhiệm xã
hội của nhà báo, nhưng đi liền với trách nhiệm xã hội, nhà báo Việt Nam cịn có nghĩa vụ
công dân. Nghĩa vụ công dân được tô đậm và cụ thể hoá trong từng lĩnh vực cụ thể. Vì
vậy, “Gương mẫu chấp hành pháp luật, làm trịn nghĩa vụ công dân, làm tốt trách nhiệm
xã hội” là nguyên tắc thứ năm trong bản Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm
báo Việt Nam.
Sáu là, bảo vệ nguồn tin, tơn trong đời tư cá nhân và giữ bí mật nghề nghiệp là những
chuẩn mực nhằm bảo vệ niềm tin của cơng chúng, nhân dân đối với báo chí. Đây là

nguyên tắc được hầu hết các bản quy tắc trên thế giới đề cập. Quy tắc đạo đức nghề báo
của Thổ Nhĩ Kỳ ghi: “Các nhà bảo phải bảo vệ bí mật cho các nguồn tin của họ”, “Khơng
được xuất bản những nội dung nhạo báng, hủy hoại giá trị của cá nhân con người”; Quy
tắc của Hiệp hội Báo chí Anh đối với hoạt động của phóng viên, biên tập viên cho rằng:
“Sự can thiệp và điều tra của báo chí vào cuộc sống riêng tư cả nhân bao gồm cả việc sử
dụng máy ảnh chụp lại từ xa những hình ảnh riêng tư là khơng được chấp nhận trừ khi
xuất phát từ nhu cầu được biết của cơng chúng” hay “Các nhà bảo cần phải có trách
nhiệm bảo vệ bí mật nguồn thơng tin”. Việt Nam cũng rất coi trọng nguyên tắc này và
cho đây là nguyên tắc thứ sáu. Tuy nhiên, cùng với việc giữ bí mật nguồn tin, người làm
báo Việt Nam còn phải “bảo vệ bí mật quốc gia” và đây cũng là một phần trong nguyên
tắc thứ sáu của bản Quy định đạo đức.
Bảy là, trung thực, hợp tác và thân ái với đồng nghiệp vừa là chuẩn mực đạo đức vừa là
nghĩa vụ bắt buộc khi nhà báo hoạt động trong môi trường báo chí. Quy tắc đạo đức nghề
báo của Liên đồn các Nhà báo Nga khẳng định: “Nhà bảo tơn trọng và bênh vực quyền
của các đồng nghiệp cũng như thực hiện việc cạnh tranh công bằng”. Nghĩa vụ nghề
nghiệp của nhà báo Pháp ghi rõ: "Không được chiếm vị trí của đồng nghiệp hoặc làm cho
đồng nghiệp bị sa thải bằng cách chấp nhận làm việc với điều kiện thấp hơn". Quy định
đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam cũng đưa “Tơn trọng, đồn kết, hợp
tác giúp đỡ đồng nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp” là ngun tắc thứ bảy.
Tám là, ln có tinh thần cầu thị, ham học hỏi, yêu nghề, dám đấu tranh cho sự thật... là
tiêu chuẩn cũng được một số quy tắc đạo đức báo chí của một số nước đề cập. Quy định
12


đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam cho đây là một nghĩa vụ của nhà báo
nên “Thường xun học tập, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, nghiệp vụ, khiêm tốn,
cầu tiến bộ” là nguyên tắc thứ tám.
Chín là, hầu hết các bản quy tắc đạo đức trên thế giới đều thừa nhận những giá trị nhân
đạo vốn có được tích luỹ và khẳng định trong lịch sử loài người, đồng thời đấu tranh bảo
vệ và phát triển những giá trị cao q đó. Ví dụ như: đấu tranh bảo vệ hồ bình, bảo vệ

mơi trường, hợp tác lẫn nhau giữa các dân tộc, chống bạo lực, dâm ô, kỳ thị... “Các nhà
báo cần nhận thức được sự nguy hiểm của việc phân biệt đối xử trên các phương tiện
truyền thông, tránh tạo điều kiện cho những phân biệt đối xử như vậy, bao gồm phân biệt
về quốc gia hay nguồn gốc xã hội, về chủng tộc, giới tính, khuynh hướng tình dục, ngơn
ngữ, tơn giáo, quan điểm chính trị hoặc những quan điểm khác” (IFI); Tiêu chuẩn đạo
đức của nhà báo Hồng Kông (Trung Quốc) ghi rõ: “Nhà bảo không tạo ra những sản
phẩm khuyến khích sự phân biệt đối với chúng tộc, màu da, nguồn gốc, giới tính hay xu
hướng tình dục”.
Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam không đưa điều này thành
một nguyên tắc, song nội dung của ngun tắc thứ chín là “giữ gìn và phát huy văn hóa
dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc các nền văn hóa khác” phần nào có ý nghĩa đó.
Đồng thời, đây cũng là nét đặc thù của Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
Việt Nam khi đề cao nghĩa vụ của nhà báo trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố
dân tộc trong thế giới hội nhập.
II.

MẠNG XÃ HỘI

13


1. Khái niệm về mạng xã hội
Mạng xã hội với cách gọi đầy đủ là "dịch vụ mạng xã hội" (tiếng Anh là "social network
service") hay "trang mạng xã hội", là nền tảng trực tuyến nơi mọi người dùng để xây
dựng các mối quan hệ với người khác có chung tính cách, nghề nghiệp, cơng việc, trình
độ,... hay có mối quan hệ ngồi đời thực.
Hiện nay thế giới có hàng trăm dịch vụ mạng xã hội khác nhau, nổi tiếng nhất có thể kể
đến Facebook, Instagram, Twitter, MySpace,.... Gần đây đã có sự nổi lên từ một số mạng
xã hội mới như Vice, Snapchat, TikTok. Tại Việt Nam cũng xuất hiện rất nhiều các dịch
vụ mạng xã hội như: Zing Me, YuMe, Tamtay...

2. Đặc điểm của mạng xã hội
Nhìn chung có nhiều mơ hình mạng xã hội khác nhau, nhưng hầu hết mạng xã hội có
những đặc điểm chung như sau:
1.1 Mạng xã hội là ứng dụng trên nền tảng Internet

14


Mạng xã hội được xây dựng trên nền tảng trực tuyến (online). Do đó, mọi thao tác hoạt
động trên mạng xã hội đều phải thơng qua q trình trao đổi thơng tin trực tuyến.
1.2 Người dùng tạo ra danh tính trực tuyến phù hợp cho trang hoặc ứng dụng được duy
trì trên nền tảng mạng xã hội
Dịch vụ mạng xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển của một hoặc nhiều danh tính trực
tuyến đại diện cho người dùng. Danh tính này được kiểm sốt và phát triển bởi chính
người dùng dựa trên các cấu trúc, tính năng có sẵn của dịch vụ. Nội dung trên mạng xã
hội là do người dùng tự sáng tạo, chia sẻ. Người dùng khơng chỉ chịu trách nhiệm kiểm
sốt danh tính trực tuyến của riêng họ mà cịn có cơ hội cung cấp nội dung ảo và các vật
thể kỹ thuật số. Chúng có thể bao gồm văn bản, hình ảnh hoặc video, clip nhạc, vật thể ảo
ba chiều hoặc các chương trình phần mềm và ứng dụng. Những nội dung này còn được
trao đổi như một thành phần chính của tương tác trong mạng xã hội.
1.3 Mạng xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển của cộng đồng xã hội trên mạng bằng
cách kết nối tài khoản của người dùng với tài khoản của các cá nhân, tổ chức khác
Dịch vụ mạng xã hội cung cấp các công cụ và cơ hội để xây dựng mạng lưới xã hội cho
người dùng. Nó tạo điều kiện cho người dùng tìm kiếm, gặp gỡ hoặc giới thiệu lẫn nhau
với người dùng khác và nhóm họ lại xung quanh các chủ đề và sở thích chung. Người
dùng từ đó xây dựng các mạng lưới bạn bè, đồng nghiệp, người quen, những người có sở
thích chung, gia đình, v.v. đan xen và liên kết lẫn nhau. Các mạng lưới trực tuyến có thể
độc lập, nhưng chúng thường chồng chéo và tương tác đáng kể với mạng lưới ngoại
tuyến (offline) của người dùng. Dịch vụ cung cấp các cách để người dùng có thể tương
tác thơng qua giao tiếp trực tiếp, chia sẻ hoạt động, trò chơi trực tuyến hoặc trao đổi các

vật phẩm ảo. Môi trường ảo giảm thiểu một số khó khăn liên quan đến tương tác vật lý,
chẳng hạn như tách biệt về địa lý, thời gian hoặc tính di động.
1.4 Mạng xã hội tự quản lý
Các chuẩn mực xã hội có thể quan sát được, các quy ước xã hội, các quy tắc ứng xử
khơng chính thức và (đơi khi) cả các quy tắc và quy định chính thức đều được thể hiện
15


trên mạng xã hội. Các cấu trúc quản trị được thực thi một phần bởi các nhà cung cấp dịch
vụ, một phần được áp đặt trực tiếp vào các chức năng của dịch vụ (những nội dung, thành
phần gì được phép hoặc không được phép), nhưng chủ yếu được tái hiện lại bởi chính các
hành vi giao tiếp, hoạt động trực tuyến của các thành viên trong mạng xã hội.

16


CHƯƠNG II: TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA MẠNG XÃ HỘI
TẠI VIỆT NAM VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ BÁO
TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐIỀU 5 TRONG QUY ĐỊNH
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI LÀM BÁO
I. VAI TRÒ CỦA MẠNG XÃ HỘI ĐẾN TRUYỀN THÔNG VIỆT NAM
Tại Việt Nam, các MXH bắt đầu du nhập từ những năm 2000 dưới hình thức các trang
nhật ký điện tử (blog). Thời lượng sử dụng Internet trong một ngày của người sử dụng
Việt Nam đạt tương ứng khoảng 7 giờ, trong đó có 2,5 giờ dành cho mạng xã hội. Hiện
nay, Bộ Thông tin – Truyền thông đã cấp phép hoạt động cho 436 mạng xã hội. Trong đó,
Facebook đang là MXH có số lượng người Việt Nam sử dụng nhiều nhất với khoảng 55
triệu tài khoản, chiếm 57% dân số. Việt Nam đang xếp thứ 7 trong top 10 quốc gia có số
lượng người sử dụng Facebook nhiều nhất thế giới - Bộ Thông tin – Truyền thơng cho
biết. Vì thế, khơng thể phủ nhận tầm ảnh hưởng của mạng xã hội là rất lớn đến truyền
thông Việt Nam.

1. Mạng xã hội giúp người dùng tiếp cận với nguồn tri thức khổng lồ
Thông qua việc kết nối các thành viên cùng sở thích trên Internet với nhiều mục đích
khác nhau, khơng phân biệt khơng gian và thời gian, mọi người, đặc biệt là giới trẻ được
gia tăng sự hiểu biết với thế giới, được tiếp cận với tri thức nhân loại, có cơ hội được
tham gia các diễn đàn trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm, kiến thức bổ ích trong cuộc
sống và trong cơng việc, tăng cường cơ hội tiếp cận thông tin về các chương trình, dự án
của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội... như các chương trình đào tạo việc
làm, tình nguyện, phong trào thanh niên lập nghiệp, thanh niên tham gia xây dựng nông
thôn mới, thanh niên tham gia hoạt động đền ơn đáp nghĩa...; qua đó họ có cơ hội phát
huy năng lực, sở trường của bản thân, hướng tới cuộc sống có ích, lành mạnh và từng
bước hoàn thiện nhân cách, rèn luyện bản lĩnh, trau dồi lý tưởng sống. Đồng thời đây
cũng là cơ hội cho các công dân Việt Nam tiếp cận thêm với những thơng tin ngồi nước,

17


trao đổi văn hóa với các nước bạn, từ đó giúp cho Việt Nam hòa nhập với thế giới tốt
hơn.
2. Mạng xã hội làm tăng tốc độ lan truyền, tiếp cận thông tin

Mạng xã hội được xây dựng trên nền tảng Internet vậy nên tốc độ lan truyền thông tin là
rất nhanh bởi Internet không bị giới hạn về thời gian hay không gian. Chỉ bằng một cú
click chuột là người dùng đã có thể đăng tải thơng tin lên mạng xã hội, cũng chỉ bằng một
cú click mà những người dùng khác có thể chia sẻ thơng tin ấy đến nhiều người hơn.
3. Mạng xã hội giúp làm tăng số lượng người tiếp cận thông tin
Do không bị chi phối bởi những yếu tố về thời gian, không gian, biên giới, sắc tộc, tơn
giáo, nghề nghiệp hay trình độ học vấn... nên mọi người khi tham gia mạng xã hội dù là ở
bất cứ địa điểm nào trên toàn cầu đều có thể dễ dàng làm quen, kết bạn và tương tác với
nhau trên mạng xã hội, hình thành mạng lưới quan hệ rộng khắp mà hình thức giao tiếp
mặt đối mặt khơng thể thực hiện được (ví dụ mạng xã hội Twitter, trung bình một phút lại

có thêm 320 ngàn tài khoản mới và hơn 98 ngàn đoạn thơng điệp được chia sẻ). Điều này
dã góp phần khiến cho tốc độ truyển tải thông tin trên mạng xã hội nhanh hơn cùng với
đó khiến cho lượng người dùng tiếp cận với thông tin trên các kênh truyền thông này trở
thành một con số khổng lồ
4. Mạng xã hội góp phần thúc đẩy cơng nghệ thơng tin
Việc duy trì phát triển một kênh thông tin trên mạng xã hội tốt địi hỏi người dùng phải
đầu tư vào cơng nghệ kỹ thuật số. Nhất là trong giai đoạn cách mạng công nghiệp 4.0 như
hiện nay, công nghệ thông tin giúp cho con người đạt được những bước tiến vượt bậc
trong lĩnh vực báo chí – truyền thơng. Điều này đã tạo ra thị trường tiềm năng cho những
công nghệ này, từ đó kích thích chúng phát triển mạnh mẽ.
5. Mạng xã hội cịn giúp báo chí hoạt động cơng khai, minh bạch, và chuyên nghiệp
hơn
18


Chưa bao giờ độc giả lại có sức mạnh to lớn đến vậy trong việc giám sát và phản hồi
những thơng tin có được từ báo chí. Nếu như báo chí truyền thống được coi là “quyền lực
thứ tư”, và có chức năng giám sát, kiểm tra hoạt động của nhà nước và tổ chức, doanh, thì
với sự xuất hiện của mình, mạng xã hội lại đóng vai trị “quyền lực thứ năm” trong việc
giám sát hoạt động của các cơ quan truyền thơng. Qua đó, mạng xã hội góp phần tích cực
trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm báo chí, giúp nó trở nên thiết thực hơn, chất
lượng hơn, và gắn bó mật thiết hơn với nhu cầu và mong muốn của cơng chúng. Báo chí
thời đại internet khơng cịn là cơng cụ truyền thơng một chiều từ tòa soạn đến độc giả
nữa, mà đang dần trở thành một diễn đàn thực sự để công chúng tiếp nhận thông tin và
tranh luận về các vấn đề quan tâm.
II. CHUẨN MỰC CỦA NGƯỜI LÀM BÁO KHI THAM GIA MẠNG XÃ HỘI VÀ
CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG KHÁC
Tuy mạng xã hội có một vai trị nhất định đối với truyền thơng Việt Nam, những tác động
tiêu cực của nó là không thể phủ nhận. Thông qua mạng xã hội, vai trò, tầm ảnh hưởng
của người làm báo với tư cách là người có lợi thế trong việc nắm bắt và truyền tải thông

tin đến công chúng càng tăng cao. Trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay, nhà báo cần đặc
biệt quan tâm đến việc chấp hành những quy định, quy tắc sử dụng mạng xã hội được ban
hành gần đây. Hơn hết, người làm báo cần chú trọng đến những hành vi bị cấm khi sử
dụng mạng xã hội và nghiêm túc chấp hành.
Đầu tiên là không vi phạm các quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên
mạng; luật an ninh mạng; các quy định về bảo mật dữ liệu, tài liệu; quy định về bảo vệ bí
mật thơng tin riêng, thơng tin cá nhân của công dân và các quy định khác của pháp luật.
Điều nghiêm cấm thứ hai của các nhà báo khi tham gia mạng xã hội là không đăng tải, gỡ
bài viết, hình ảnh, âm thanh, các bình luận, chia sẻ quan điểm cá nhân hoặc trích đăng lại
các bài phát biểu, ý kiến trên mạng xã hội vì mục đích tống tiền hoặc các mục đích khơng
trong sáng trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; trái với nội
dung, quan điểm của tác phẩm báo chí mà bản thân người làm báo đó đã viết và đăng tải,
trái với quan điểm của cơ quan báo chí nơi mình cơng tác.

19


Thứ ba, nhà báo tuyệt đối khơng được bình luận, nhận xét, chia sẻ các thơng tin có mục
đích kích động, lôi kéo người khác phản ứng tiêu cực về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng, đối ngoại… có yếu tố phức tạp, nhạy cảm đang cần tạo
cách nhìn, thái độ tích cực mang tính xây dựng của cộng đồng và sự đồng thuận xã hội.
Thứ tư, nhà báo không được sao chép, chia sẻ, phát tán tin, bài, tác phẩm, âm thanh, hình
ảnh có được bằng những cách thức khơng hợp pháp, vi phạm bản quyền.
Thứ năm, nhà báo không được phép thông tin vụ việc chưa được kiểm chứng, gây hoang
mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho
hoạt động của cơ quan Nhà nước hoặc người thi hành công vụ; gây tổn hại về thể chất,
danh dự, nhân phẩm của cơng dân; tun truyền, kích động bạo lực, cổ súy lối sống đồi
trụy, hủ tục mê tín dị đoan, các hành vi tiêu cực, phân biệt đối xử về giới, vùng miền, dân
tộc, chủng tộc.
Thứ sáu, nhà báo không được miêu tả thô thiển, phản cảm những hành động dâm ô, tội

ác, thông tin không phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa của dân tộc và
đạo đức xã hội.
III. TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ BÁO TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐIỀU 5 QUY
ĐỊNH ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ
“Trong báo chí, sự thật là luật tối thượng” (Walter Lippmann). Vì vậy có thể nói trách
nhiệm hàng đầu của nhà báo khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông
khác là tôn trọng và bảo vệ sự thật.
Do cơ chế tự quản lý của Mạng xã hội nên thông thông tin trên mạng xã hội rất khó kiểm
sốt, bất kỳ ai cũng có thể đưa thơng tin lên đó. Bên cạnh những thơng tin lành mạnh, có
ích, mạng xã hội cịn là nơi chứa đựng vơ vàn những “thông tin rác”, tin giả là môi
trường thuận lợi cho những kẻ xấu lợi dụng để thực hiện những mưu đồ: khủng bố, đe
dọa, lừa đảo, phỉ báng, bơi nhọ uy tín người khác; đột nhập trái phép vào các hệ thống
máy tính, tấn cơng các trang web, các cơ sở dữ liệu rồi phát tán vi rút; tống tiền, tổ chức
các hoạt động phạm tội như đánh bạc, ăn cắp, làm giả thẻ tín dụng, thẻ căn cước, thẻ bảo
hiểm xã hội; dụ dỗ trẻ em làm các hành vi đồi bại.
20


Cơ chế cho phép người dùng tự tạo danh tính trực tuyến của mạng xã hội đã tạo điều kiện
cho các tài khoản ẩn danh trên mạng xã hội đăng tải những thông tin “vô thưởng vô phạt”
trên mạng xã hội. Điều này đã khiến cho việc kiểm sốt thơng tin trên mạng xã hội vơ tở
nên khó khăn hơn, đồng thời tạo tâm lí chủ quan do những tài khoản này khơng phải chịu
trách nhiệm cho những gì đăng tải và lan truyền trên mạng xã hội.
Trước hết, cần khẳng định thông tin trên mạng xã hội không phải là báo chí. Vì vậy, một
nhà báo có đạo đức và trách nhiệm cần biết “chính thống hóa” những thơng tin này theo 2
hướng.
Nếu thông tin - sau khi được nhà báo kiểm chứng là chính xác, tích cực - nhà báo cần kịp
thời ngợi khen, cổ vũ qua việc tương tác với bài viết ấy. Đồng thời có thể khai thác những
thông tin ấy để phục vụ tác nghiệp báo chí. Ngược lại, nếu thơng tin sai, tiêu cực, nhà báo
cần chấn chỉnh, phê phán và kịp thời định hướng dư luận xã hội bằng thơng tin chính xác

hơn. Đặc biệt lưu ý, nhà báo cần phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền những thơng
tin sai sự thật bị phát tán trên mạng xã hội có ảnh hưởng xấu, gây tổn hại đến lợi ích của
cộng đồng, đất nước, uy tín của tổ chức, cá nhân. Ở cả hai hướng này - điều căn cốt nhất
vẫn phụ thuộc vào "con mắt xanh", nghiệp vụ tinh thông và "cái tâm" trong sáng của nhà
báo.

Thứ hai, báo chí phải đổi mới, nhập cuộc tích cực trong sự cạnh tranh gay gắt với mạng
xã hội để khẳng định vị thế và vai trò định hướng, dẫn dắt dư luận xã hội.

Được cập nhật liên tục những cơng cụ, tính năng công nghệ mới, tự do sản xuất và dịch
tin, bài, cung cấp thông tin không cần kiểm chứng, mạng xã hội ngày càng phát huy lợi
thế về tốc độ đưa tin và tính liên kết. Nó vừa là trợ thủ, vừa là đối thủ của báo chí chính
thống. Các nhà báo nên tận dụng ưu thế, tính năng ”chia sẻ”, ”bình luận” và ”lan truyền”
của truyền thơng xã hội. Nhiều cơ quan báo chí lập các fanpage trên mạng xã hội để vừa
chuyển tải các bài viết trên báo chí theo cách tiếp cận mới, phù hợp với nhu cầu của độc
giả trẻ tuổi, vừa tiếp nhận phản hồi của độc giả về nội dung bài viết một cách nhanh
chóng, từ đó nắm bắt sự quan tâm của độc giả đối với nội dung phản ánh. Ví dụ điển hình
có thể kể đến Đài truyền hình Việt Nam (VTV). VTV đã mở rộng kênh truyền thông của
21


mình trên mạng xã hội Facebook với nhiều fanpage với các nội dung khác nhau như VTV
News, VTV Giải Trí, Trung tâm Tin tức VTV24,... Nổi bật nhất là gần đây, VTV cịn có
riêng một tài khoản trên mạng xã hội Tik Tok. Điều này cho thấy nỗ lực không ngừng của
Đài truyền hình Việt Nam trong việc đổi mới và nhạy cảm trong việc nắm bắt thị hiếu của
công chúng. Những nỗ lực này sẽ giúp cho các kênh truyền thơng chính thống có thể hịa
nhập và bắt kịp với xu hướng của thời đại công nghệ 4.0, không bị tụt hậu, lép vế hơn so
với báo chí cơng dân, báo lá cải.

Cuối cùng, nhà báo có trách nhiệm to lớn trong việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao

trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật cho mỗi người khi sử dụng mạng xã hội. Đây là
vấn đề có ý nghĩa quyết định, vì sự lệch lạc trong nhận thức về chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội sẽ dẫn đến ngộ nhận, sai lầm trong hành vi và làm cho an ninh, trật tự có thể chứa
đựng mối nguy hiểm tiềm tàng. Do đó, người làm báo cần chủ động, tích cực tuyên
truyền, giáo dục, giúp mọi người nhận thức được tác động tiêu cực từ âm mưu, thủ đoạn
của các thế lực thù địch, khơng vơ tình tiếp tay cho hoạt động chống phá, và các hành vi
tiêu cực, phản cảm, thiếu văn hóa trên mạng xã hội.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ
1. Trang bị kiến thức pháp luật và giáo dục nhận thức, ý thức trách nhiệm xã hội và
nghĩa vụ công dân đối với nhà báo
- Trang bị kiến thức pháp luật cho nhà báo: Trên thực tế, do luật thiếu hoặc không rõ ràng
nên trong nhiều trường hợp khó xác định được ranh giới giữa đạo đức và luật pháp. Trách
nhiệm xã hội của nhà báo cần được nhấn mạnh ở một số lĩnh vực sau: Trách nhiệm xã hội
trong lựa chọn, cung cấp thơng tin; góp phần nâng cao dân trí và sự hiểu biết của nhân
dân; củng cố và bảo vệ sự ổn định xã hội; đấu tranh bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ; cổ vũ
các nhân tố mới; chống các hiện tượng tiêu cực; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
bảo vệ mơi trường, phát triển bền vững...
Hồn thiện hệ thống pháp luật về báo chí. Chất lượng, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà
nước pháp quyền XHCN phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp
22


luật. Vì vậy, pháp luật báo chí cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Việc
xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật báo chí cần hướng vào các nội dung như: cụ
thể hoá, chi tiết hoá các điều khoản quy định; xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể
tham gia hoạt động báo chí; rà sốt, bổ sung những vấn đề mới do thực tiễn và sự phát
triển của báo chí đặt ra; bảo đảm quyền tự do báo chí của cơng dân.
Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật báo chí. Việc tuyên truyền phổ biến pháp
luật báo chí để các chủ thể nhà báo tuân thủ, thực hiện. Vì vậy, Bộ Thông tin và Truyền
thông, Hội Nhà báo Việt Nam và đặc biệt là các cơ quan báo chí cần có kế hoạch tập

huấn thường xun Luật Báo chí và các văn bản quy phạm pháp luật mới về báo chí.
- Giáo dục nhận thức, trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà báo: Nghề báo là
một nghề đặc biệt, mang tính chất một hoạt động chính trị - xã hội. Mỗi tác phẩm báo chí
đều trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần hướng dẫn dư luận xã hội, định hướng tư tưởng và
hành vi con người.
Về nghĩa vụ công dân: Nhà báo trước hết là một con người bình thường, một cơng dân
của một đất nước. Anh ta sống trong mối quan hệ rộng lớn: gia đình, đồng nghiệp, cộng
đồng, xã hội. Vì vậy, với tư cách là một công dân, nhà báo cũng cần sống tuân thủ theo
pháp luật và có đạo đức, có trách nhiệm với chính bản thân, gia đình và xã hội. Những gì
nhà báo thể hiện trên mặt báo trước hết phải xuất phát từ ý thức của một công dân chân
chính. Nhà báo khơng nên vì lợi ích cá nhân, gia đình mà làm sai lệch hay bóp méo sự
thật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những sai trái và những hậu quả do việc
đưa tin của mình gây ra.
Về trách nhiệm xã hội của nhà báo: Là người thành lập ra tờ báo cách mạng đầu tiên của
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng quan tâm đặc biệt đến tư cách người làm báo.
Người coi nhà báo là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. Người nói: bài báo là tờ hịch của
cách mạng. Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ
chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục đích chung. Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ
nhân dân, phục vụ cách mạng. Để thực hiện nhiệm vụ trọng đại ấy, nhà báo phải có đủ
phẩm chất của người cán bộ cách mạng, tức là người đi tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ
người khác, trước hết phải làm gương cho người khác. Người coi một tấm gương sống
cịn có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền.
23


Trách nhiệm xã hội vừa là yêu cầu khách quan, vừa là bổn phận, nghĩa vụ của nhà báo.
Bởi vì, báo chí ra đời bắt nguồn từ nhu cầu xã hội, nhằm mục đích phục vụ sự phát triển,
sự tiến bộ của cộng đồng. Ý thức trách nhiệm với xã hội chính là nguồn động lực để giúp
nhà báo vượt qua những trở ngại, khó khăn, vất vả, thậm chí là hiểm nguy để đem đến
cho cộng đồng những bài báo có ý nghĩa, có giá trị.

Nhà báo có quyền thơng tin, phản ánh thế giới như nó vốn có, bao gồm tất cả các khía
cạnh của cuộc sống, con người và xã hội. Nhưng với trách nhiệm xã hội của mình, nhà
báo ủng hộ cái tốt, lên án cái xấu, bảo vệ những người dễ bị tổn thương khỏi bị xâm hại.
Người làm báo không nên quá tập trung vào những tin tức xấu, phản ánh tệ nạn xã hội mà
xem nhẹ việc phát huy và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, khi phản ánh tiêu cực thì cũng
với mục đích xây dựng, cố gắng tìm ra giải pháp để khắc phục. Nếu đưa tin mà nhà báo
chỉ quan tâm đến việc lôi kéo độc giả mà không quan tâm đến tác động xã hội, nhất là các
tác động tiêu cực thì sẽ rất nguy hiểm cho cộng đồng. Nhà báo không thể chỉ nghĩ đến
quyền mà quên trách nhiệm. Bởi vì, các quyền của nhà báo được xã hội đảm bảo để nhà
báo thực hiện trách nhiệm tối thượng của mình là thơng tin trung thực và chính xác. Xét
về mục đích, việc phản ánh tình cảnh đu dây vượt sông đi học của các em học sinh tại xã
Trọng Hóa, huyện Minh Hóa, Quảng Bình để kêu gọi mọi người chung tay giúp các em
vượt qua khó khăn là tốt. Tuy nhiên, theo ý kiến của một số nhà báo, nếu như sử dụng
những thông tin khơng chính xác để thực hiện mục đích đó thì lại khơng nên, cả trên
phương diện nghiệp vụ lẫn đạo đức nghề nghiệp.
Trong môi trường hội tụ truyền thông hiện nay, nhà báo phải làm trọn nghĩa vụ công dân
của mình, có nghĩa là khơng chỉ địi hỏi nhà báo phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật
trong hoạt động nghề nghiệp, mà cịn phải ln ln tâm niệm mình phục vụ ai, viết cho
ai, viết để làm gì và viết như thế nào.
Tóm lại: có thể thấy một tác phẩm báo chí có sức sống mãnh liệt, có sức lay động dư
luận xã hội, được đông đảo bạn đọc đồng tình, trước tiên tác phẩm đó phải đề cập đúng
vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra, với sự chắt lọc tư liệu trong quá trình khảo sát thực
tiễn cơng phu, với sự đầu tư trí tuệ của tác giả bằng tất cả sự say mê nghề nghiệp, ý thức
trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của mình. Thực tế đã chứng minh, nghĩa vụ
cơng dân của nhà báo địi hỏi người làm báo ngồi việc biểu dương những người tốt, việc
tốt, những nhân tố mới, phải tích cực đấu tranh chống tiêu cực, chống tham nhũng, bn
lậu, các tệ nạn xã hội, góp phần làm cho đất nước ngày càng phát triển. Để làm trọn nghĩa
24



vụ công dân, các nhà báo cần phải chú ý một số vấn đề sau: - Thứ nhất, để làm trọn
nghĩa vụ công dân và làm tốt trách nhiệm xã hội, nhà báo phải có bản lĩnh chính trị vững
vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng. Đây là một trong những phẩm chất hàng đầu của
người làm báo. Ngoài ra, năng lực nghề nghiệp của nhà báo được thể hiện ở độ nhạy bén
của nghề nghiệp, nói chính xác hơn là độ nhạy bén chính trị của nhà báo. Nhà báo phải
“bắt” được mạch sống chủ đạo của xã hội để phát hiện vấn đề và chọn thời điểm cũng
như tìm cách thức thơng tin phù hợp, có hiệu quả. Trong cuộc sống, khi xảy ra một hiện
tượng tiêu cực là đáng bị lên án, nhưng khi nhà báo đưa tin vào thời điểm khơng thích
hợp, hoặc thơng tin q liều lượng cần thiết khơng những khơng có tác dụng giáo dục,
ngược lại cịn làm cho tình hình càng thêm trầm trọng hơn.
- Thứ hai, hiện nay, nhà báo được tác nghiệp trong môi trường rất thuận lợi, thông tin đa
chiều, nhanh chóng, cập nhật liên tục trên mạng Internet, do đó để làm tốt trách nhiệm xã
hội và nghĩa vụ công dân, nhà báo chỉ nên khai thác thông tin trên mạng để làm tư liệu và
coi đó là nguồn tin để tìm hiểu, tuyệt đối khơng được sử dụng chúng khi chưa thẩm định
rõ nguồn tin. Đặc biệt, những thông tin về vấn đề tiêu cực cần thẩm định rõ ràng… Có
như vậy, nhà báo mới làm tốt trách nhiệm và nghĩa vụ cơng dân của mình. Với sự phát
triển như vũ bão của công nghệ thông tin, báo chí, truyền thơng có khả năng tác động
nhanh chóng và hết sức mạnh mẽ đối với xã hội, thậm chí cịn vượt ra ngồi dự kiến của
nhà báo. Thực tế cho thấy, một tác phẩm báo chí có thể mang lại hiệu ứng tích cực, góp
phần nâng cao tình cảm, nhận thức, lòng tin và định hướng hành động cho cơng chúng,
nhưng cũng có thể làm suy giảm lịng tin, băng hoại đạo đức, làm sai lệch nhận thức và
dẫn đến làm lệch lạc về hành động không chỉ một cá nhân, một nhóm người mà có thể cả
một cộng đồng. Do đó, nhà báo phải có ý thức trách nhiệm xã hội cao. Ngoài ra, nhà báo
cũng phải thực hiện nghĩa vụ cơng dân của mình. Trong đời sống báo chí hiện nay, nghĩa
vụ cơng dân và trách nhiệm xã hội là hai phạm trù có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hai
phạm trù này là nội dung cơ bản lột tả của phẩm chất chính trị của người làm báo.
Để bảo đảm cho người làm báo thực hiện được trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ cơng dân
của mình. Khi thực hiện một tác phẩm báo chí, nhà báo phải ln nghĩ tới cơng chúng
báo chí (người đọc, người nghe, người xem). Nhà báo phải nghĩ tới mục đích của tác
phẩm, tác động của nó tới những người sẽ tiếp nhận thơng tin đó như thế nào. Từ đó, nhà

báo phải có cân nhắc xem mình sẽ viết cái gì và viết như thế nào.

25


×