Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.23 KB, 33 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b> Sơn Barcelona</b>
Tây Tiến
<b>Mở bài:</b>
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng
vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa một cách vĩnh viễn vào tâm
hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của
Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và “Tây Tiến” là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của
Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là bức tượng đài đã làm cho
những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng
thời gian
“Sông Mã xa rồi TâyTiến ơi!
*****
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
<b>Thân bài:</b>
Nhắc đến nhà thơ Quang Dũng, chúng ta nghĩ ngay đến tác phẩm để đời của ơng – Tây Tiến. Bởi
lẽ nó đã gắn bó 1 thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là 1 đơn vị bộ đội thời kháng chiến chống
Pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch
ở vùng Thượng Lào, trấn giữ 1 vùng rộng lớn ở Tây Bắc nước ta và biên giới Việt Lào. Quang
Dũng từng là đại đội trưởng cuả binh đồn Tây Tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm
vụ ông chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở
Phù Lưu Chanh_ 1 làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông
đặt bài thơ là “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau đổi lại thành “Tây Tiến” vì cả bài thơ đã là một nỗi
nhớ và chỉ với 2 từ “Tây Tiến” cũng đủ gợi lên nỗi nhớ – cảm hứng chủ đạo trong tồn bộ bài
thơ.
Là 1 người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, sống và chiến đấu nơi núi
“Sơng Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Câu thơ như tiếng gọi chân thành , tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng
cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông
Mã” ko đơn thuần là 1 con sông – nơi đã từng là địa bàn hoạt động của đồn qn Tây Tiến – mà
nó đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây
Tiến với bao nỗi vui_buồn, được_mất. “Tây Tiến” ko chỉ để gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở
thành 1 người bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự.
Câu thơ thứ 2 với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa
vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” – biểu cảm một nỗi nhớ nhẹ và rất sâu – kết hợp với
từ “nhớ” đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ. Và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác
lũ tràn vào tâm trí đẩy ơng vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách
diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải
Nhớ chăn bạn nằm”
2 câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh
liệt trong tâm hồn nhà thơ.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông…- địa bàn
hoạt động cuả binh đoàn Tây Tiến – những cái tên mang âm hưởng của rừng núi hoang vu và
mang dại. Núi rừng Tây Bắc đẹp hùng vĩ mà dữ dội, một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu
khắc nghiệt, nơi rừng thiêng nước độc. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả
đi trong đêm dày đặc sương giăng, ko nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần ko
“mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên
kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc
hoạ rõ hơn sự khắc nghiệt cuả núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về
“sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngịi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa
dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Có những lúc người lính Tây
Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm
thẳm” mà ko dùng từ “chót vót”. Bởi nói “chót vót” người ta cịn có thể cảm nhận và thấy được
bề sâu cuả nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng
những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho
người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội cuả núi rừng Tây Bắc. Hình ảnh nhân hố, ẩn dụ “
súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh
nghịch của người lính, cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính
với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên
vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 ko gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật hùng vĩ.
Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:
“Nhà ai Pha Lng mưa xa khơi”
Xa xa , lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn
lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng
dưới ngịi bút cuả Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thơng minh , sáng
tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ
giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 với 7 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở cuả núi
rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu
chất tạo hình hơm nay gợi nhớ những dịng thơ trong “Chinh phụ ngâm khúc”
“Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao
Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu”
Hình ảnh người lính Tây Tiến là một bức tượng đài đẹp đẽ với tư thế hiên ngang, khí phách anh
hùng và có cả những say mê, ước vọng lãng mạn, đẹp đẽ. Nhưng thơ Quang Dũng còn tả rất thực
về những mất mát, hy sinh của đồn binh Tây Tiến. Khơng thi vị hóa hiện thực ngịi bút thơ
Quang Dũng dám nhìn thẳng vào những tổn thất tất yếu của con người trong cuộc chiến tranh tàn
khốc. Hình ảnh người lính Tây Tiến có những phút giây mệt mỏi:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy,
gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là những phút giây đương nhiên. Người
lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng lại với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần,
đầy ngạo nghễ của người lính cũng là điều tất yếu đó sao. Các anh đã không bước tiếp được nữa
trên con đường hành quân đầy gian khổ. Có những người bạn của Quang Dũng ngục lên súng
ngủ. “Ngục” là một động từ miêu tả động thái rất nhanh,biểu thị không còn sức chịu đựng được
nữa. Các anh cố gượng dậy bước tiếp nhưng khơng cịn sức. Câu thơ: “ngục lên súng mũ bỏ quên
đời” tả một giấc ngủ ngàn thu, cực tả những gian khổ và hy sinh.
Cũng có người hiểu câu thơ này tả một giấc ngủ tranh thủ của người lính để lấy sức tiếp tục
đường hành quân. Nhưng câu thơ dẫu viết theo nghĩa nào cũng đều nói về sự gian khổ tột cùng.
Nhưng nhiều người hiểu theocách ở trên bởi nó phù hợp với chất bi tráng của cuộc đời chiến binh
Tây Tiến: chết rồi mà vẫn ngang tàng, khí phách. Ba chữ cuối: “bỏ quên đời” thể hiện tinh thần,
thái độ của người lính trước cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh
lên đường, đến với núi rừng miền Tây và biết rằng: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” (xưa nay
chinh chiến mấy ai trở về)
Nếu ở mấy câu đầu tác giả mở rộng thiên nhiên miền Tây Bắc mênh mông qua không gian hùng
vĩ, thơ mộng của những cơn mưa rừng với độ cao chạm đến cả mây trời của đỉnh núi Tây Bắc.
Thì đến với hai câu thơ sau đây thiên nhiên lại được khám phá theo chiều thời gian với hai từ láy
“chiều chiều” và “đêm đêm”
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi”
Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và
sự đằm thắm tình người. Hai câu thơ khơng có cảnh thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt
đời sống thường ngày. Sau những câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm,
thiết tha. Câu cảm thán gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn
binh dừng lại sau một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một
bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp khói cơm bay lên hịa quyện vào
khói lam chiều. Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi
lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tưoi vui.
ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới, khác với đoạn
đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say mê, lãng mạn trong đêm hội:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa”
Những câu thơ đầy ánh sáng và âm thanh, có thơ và có nhạc, đối lập hồn tồn với những con
đường hành quân gian lao, nguy hiểm, với những thiếu thốn, nhọc nhằn… Điệu nhạc hồn thơ như
thăng hoa cho tâm hồn người chiến sĩ cất cánh, hòa nhịp vào những điệu khèn, câu hát say mê.
Qdũng cũng khơng chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức
phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Qdũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng
dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngơn
ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo
ấn tượng mạnh, để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con
anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa
một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:
“Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác bên cương mồ viển xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào tay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong: ” Sài Khao sương lấp đoàn
quân mỏi” hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình
các nước thì ở đây là hình ảnh đồn binh khơng mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân
thực của qdũng đã không né tránh việc mơ tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng.
Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ khơng thể mọc. Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây
Với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc” đã làmâm hưởng
của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ “đoàn binh” – âm Hán
Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Thủ pháp tương phản mà qdũng sử
dụng ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần
của người lính mà cịn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ muốn nói tới sức
mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão
cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ: “Hồnh sóc giang san cáp kỷ thu – Tam
<i>quan kỳ hổ khí thơn ngưu”. Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:“Nghĩa binh </i>
<i>tráng khí thơn ngưu đẩu – Thể diện sài long xâm lược quân“</i>
Người lính Tây Tiến mạnh mẽ, rắn rỏi trong chiến đấu, nhưng cũng hết sức lãng mạn, say mê
trong những giây phút thơ mộng. ở đây, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư chất của một anh
hùng và phong cách của một trí thức lãng mạn. Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng trở nên rất
đẹp khi qdũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Bao nhiêu yêu thương, nhớ mong, mộng ước của họ được gửi gắm, dồn tụ ở hình ảnh “mắt
trừng”. Hình ảnh ấy khơng chỉ gợi một nỗi niềm đau đáu khơn ngi mà cịn chất chứa bao khắc
khoải, mong chờ. Bên giới & Hà Nội hoa lệ có một khoảng cách rất xa xơi, người lính Tây Tiến
muốn thơng qua những mộng đẹp, những khát vọng diệt thù để làm cầu nối thu gắn không gian,
kéo hẹp khoảng cách. “Dáng kiều thơm” và một Hà Nội phồn hoa xa xơi chính là ngun do của
nỗi niềm mong nhớ ấy. Đó khơng phải là một bóng dáng nào cụ thể nào, cũng khơng chỉ bó hẹp
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
mẹ dang tay đón đợi, có dịng sơng Mã anh hùng dạo lên khúc tráng ca, đó là sự hi sinh cao đẹp,
cao quý nhẩt.
Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, hình ảnh người lính hiện lên chân thực, lãng mạn, đa
tình, đa cảm đồng thời cũng rất hào hùng. Với nhiều từ ngữ mang sắc thái cổ điển, trang trọng tác
giả tạo được khơng khí thiêng liêng, làm cho cái chết bi tráng của người lính vang động cả thiên
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
<b>Kết bài:</b>
Hơn năm mươi năm qua, bài thơ Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ với người đọc hôm nay, gợi về
những năm tháng không thể nào quên trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Bằng bút pháp
vừa hiện thực vừa lãng mạn, Quang Dũng diễn đạt tài tình nỗi gian khổ trên những con đường
hành quân của binh đoàn Tây Tiến, dựng lên được hình tượng vơ cùng đẹp đẽ về người lính với
hào khí ngất trời trong chiến đấu và nét hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn. Bức tượng đài người
lính Tây Tiến được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối
với đất nước của mình
<b> Việt Bắc</b>
I . ĐẶT VẤN ĐỀ .\r\n\r\nTháng 10 năm 1954, sau thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, trung ương Đảng và chính phủ rời Việt Bắc để trở về Hà
Nội tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng. Trước sự kiện đó Tố Hữu đã viết bài thơ Việt
<b>Bắc . Đây là bài thơ ân tình cách mạng, gọi lại những kỉ niệm thân thiết và vẻ đẹp của Việt </b>
<b>Bắc từ ngày đầu gian khổ chắt chiu xây dựng căn cứ địa cách mạng cho đến khi kháng </b>
<b>chiến thắng lợi . Bài thơ kết cấu theo lối hát giao duyên đối đáp nam nữ nhưng lại thể hiện </b>
<b>những ân tình cách mạng , và vì thế bài thơ như một chất men say ngấm sâu vào lòng người</b>
<b>, trở nên gần gũi , đằm thắm hơn với những cung bậc lan toả của nó .</b>
II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .
Mở đầu bài thơ là những lời phảng phất phong vị ca dao, tái hiện cảnh tiễn đưa đầy
dùng dằng, quyến luyến .
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ khơng
Nhìn cây nhớ núi nhìn sơng nhớ nguồn .
nguồn của cách mạng .
Bốn câu thơ đầu tạo thành hai câu hỏi rất khéo mà mỗi câu hỏi về một khía cạnh khác
nhau : thời gian và khơng gian gói gọn một thời cách mạng, một vùng cách mạng .
Trước tâm trạng, nỗi niềm bộc bạch của kẻ ở, người đi im lặng lắng nghe :
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Người ra đi im lặng là để tri âm, để tiếng ai từ từ ngân vang lắng sâu vào hồn mình cho
thật vẹn trịn, đầy đủ . Lặng im nhưng vẫn khơng kém phần mãnh liệt . Người ở lại nói
thiết tha, người đi nghe thiết tha, sự hô ứng ngôn từ này tạo sự đồng vọng trong lòng
người . Nhịp thơ lục bát đang đều đặn, nhịp nhàng đến đây như cũng vì chút bối rối ấy
trong lịng người mà thay đổi :
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay .
Trong thời khắc chia tay sau một khoảng thời gian dài gắn bó, có biết bao nhiêu kỉ niệm
ngọt bùi, sâu nặng, có nhiều điều để nói nhưng khong thể nói đủ, nói trọn vẹn cùng
nhau . Vì thế lịng người cũng bâng khuâng, bước chân cũng bồn chồn, và mặc dù
người đi không trực tiếp trả lời câu hỏi của người ở lại nhưng hình ảnh áo chàm và
hành động cầm tay nhau im lặng đó trả lời thay tất cả, nó chất chứa cả bề sâu cảm xúc
của cả người đi và kẻ ở .
Bao trùm lên tất cả trong tâm trạng của kẻ ở và người đi là nỗi nhớ da diết mêng mang
với nhiều sắc thái khác nhau . Người ở lại băn khoăn tự hỏi về lòng thuỷ chung son sắt
của người ra đi thì ngược lại người ra đi khẳng định nghĩa tình mãi khơng phai nhịa
trong kí ức . Và cứ thế Việt Bắc hiện lên trong hoài niệm thật sinh động và cụ thể .
Nhớ đến Việt Bắc là nhớ đến những tháng ngày gian khổ hi sinh : Mưa nguồn suối lũ
những mây cùng mù, khó khăn nhiều, gian
khổ cũng lắm nhưng cán bộ và đồng bào đồng cam cộng khổ, cùng có mối thù sâu nặng
với quân xâm lược : Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai . Đồng thời nhớ đến Việt
Bắc cũng là nhớ đến những nghĩa tình đồng bào sâu nặng . Người về khiến núi rừng
cũng trở nên trống vắng, ngẩn ngơ, các điệp từ mình về, mình đi được nhắc đi nhắc lại
một cách tha thiết khiến cho không gian, thời gian Việt Bắc hiện ra từ trong khói sương
của hồi niệm , của tâm trạng chất chứa nhớ nhung trở nên rõ nét và rõ tình hơn .Đại từ
“ai” phiếm chỉ được sử dụng để như hỏi vào sự trống vắng nay mai của lịng mình . Với
thủ pháp đối lập giữa một bên là lau xám với lòng son, giữa hắt hiu và đậm đà , người ở
nhấn mạnh sắc độ của nỗi nhớ . Người ở lại còn bày tở nõi lo âu, dự cảm : Mình về
mình lại nhớ mình . Ba chữ mình được dùng liên tiếp trong một dòng thơ làm cho ý thơ
trở nên đa nghĩa một cách thú vị . Mình ở đây là tơi, là chủ thể của nỗi nhớ, và mình
cũng có thể là khách thể của nỗi nhớ . Và biết đâu đó đây lại là lới nhắc nhở người đi
liệu rồi có cịn nhớ chính bản thân mình . Cả người đi và kẻ ở đều được gói gọn trong
một chữ mình tha thiết . Và nói gì đi nữa cả ta và mình đều là những người kháng chiến,
Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh .
Và cụ thể hơn nữa, người ra đi khặng định : Mình đi mình lại nhớ mình và nghĩa tình
mãi dạt dào khơng bao giờ khô cạn : Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu .
Sự gắn bó sâu nặng với Việt Bắc đã làm cho cảnh Việt Bắc tái hiện trong nỗi nhớ của
người về xuôi đã đẹp lại càng trở nên đẹp hơn, càng trở nên lung linh huyền ảo . Nỗi
nhớ trong lòng người đi day dứt, thiết tha đến độ cồn cào, ám ảnh như nhớ người yêu .
Lấy nỗi nhớ trong tình yêu lứa đôi để đo nỗi nhớ về ngọn nguồn kháng chiến, về nghĩa
tình cách mạng, đó là một sáng tạo của hồn thơ Tố Hữu .
Và cũng chính từ sự gắn bó và nỗi nhớ thương da diết đó, thiên nhiên Việt Bắc mới hiện
lên đẹp lộng lẫy như một bức tranh tứ bình về bốn mùa với những nét đặc trưng của
Việt Bắc :
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung .
Trong bề bộn của kí ức và hồi niệm , bức tranh sáng đẹp về Việt Bắc hiện lên trong nỗi
nhớ của người về xuôi như một dấu son tươi nguyên những kỉ niệm .
Và trong bức tranh thiên nhiên sống động, bừng sáng đó có sự xuất hiện của con người
đang cần mẫn lao động: chuốt từng sợ giang, hái măng một mình giữa rừng vàng .
Nhưng có lẽ để lại ấn tượng nhất là tiếng hát ân tình thuỷ chung của con người Việt Bắc
. Nó vượt qua trập trùng núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của thời gian mà
vướng vít bước chân người ra đi . Điệp từ nhớ được lặp lại nhiều lần như khiến cả đoạn
thơ bao trùm một tình cảm nhớ thương tha thiết .
Nhớ về Việt Bắc là nhớ cảnh nhớ người, nhưng quan trọng hơn là nhớ về cuộc kháng
chiến, một Việt Bắc trong kháng chiến thật hào hùng .
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Tiết tấu ngân nga, dìu dặt như lời ru đến đây được tác giả phá vỡ để tạo ra một kết cấu
khác phi đối xứng làm giọng thơ trở nên gắt, mạnh, dồn dập như âm hưởng bước hành
quân vũ bão . Hệ thống từ vựng mở căng cường độ diễn tả , hình ảnh kì vĩ , ý thơ
phóng xa vào viễn cảnh … tất cả tạo nên một bức tranh sử thi hoành tráng để ca ngợi
sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của nhân dân anh hùng . Miêu tả cảnh hành quân,
nhà thơ sử dụng cụm từ “điệp điệp, trùng trùng” thật chính xác . Còn từ ngữ nào để diễn
đạt sức mạnh của đoàn binh tràn đầy nhiệt huyết hơn những từ ấy ? Nó vừa diễn tả vẻ
đẹp hùng dũng bên ngoài lại vừa miêu tả sức mạnh quật cường bên trong . Trong
Và bài thơ khép lại bằng lời khẳng định Việt Bắc mãi là cái nôi, là quê hương của phong
trào cách mạng, nơi đặt niềm tin tưởng và hi vọng của người Việt Nam trên khắp mọi
miền của Tổ quốc, đặc biệt là những nơi còn u ám quân thù .
III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ .
Việt Bắc là bài thơ tiêu biểu nhất của hồn thơ Tố Hữu viết về nghĩa tình cách mạng . Bài
thơ không chỉ là lời chia tay dạt dào xúc cảm mà còn là lời khẳng định đinh ninh sự thuỷ
chung son sắt của những người cách mạng , là khúc ca bất tận của tình nghĩa được viết
với giọng điệu vừa trữ tình ngọt ngào , vừa sôi nổi thiết tha, trong sáng
<b> Đất Nước</b>
Bài làm
Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước
chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng
ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh,
đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất
nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu song gió chiến tranh được
tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khống của Nguyễn Khoa Điềm
Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất
nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm
xúc chính tác giả.
Bài thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với
những ngày đầu mới khai sinh:
<i>Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi</i>
<i>Đất nước có trong những cái ngày xửa</i>
<i>Ngày xưa mẹ thường hay kể</i>
<i>Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn</i>
<i>Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc.</i>
nhje, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những “ngày xưa ngày xưa”. Đó như một nốt
nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ :ngày xửa, ngày xưa”
đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ biết
rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh giặc.
Là những con người đó làm nên đất nước…
Đất nước cịn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt Nam.
Tác giả không chỉ dừng lại ở đó, đất nước cịn được lý giải chính là thành quả của công
cuộc lao động để xây dựng và phát triển:
<i>Cái kẻo cái cột thành tên</i>
<i>Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sang</i>
<i>Đất nước có từ ngày đó</i>
Một một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt của
con người như “kèo, cột” đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị, rất
chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn.
Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất
nước, đó là chuyện tình u lứa đơi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:
<i>Đất là nơi anh đến trường</i>
<i>Nước là nơi em tắm</i>
<i>Đất nước là nơi ta hò hẹn</i>
<i>Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khan trong nỗi nhớ thầm</i>
Đất nước không chỉ hiện hiển trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con
người mà cịn hiện lên trong những tình u lứa đơi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã
cắt nghĩa “đất nước” thành hai từ “đất” và “nước” để lí giải cụ thể ý nghĩa của từng từ.
Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra
thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.
Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của khơng gian
văn hóa, của những con người vẫn cịn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng q hương.
Đất nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà
người đời sau vẫn ln nhắc nhở nhau. Hình ảnh “con chim phương hoàng”, “núi bà
đen, bà điểm”, “lạc long quân âu cơ” chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều thăng
trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. NHớ về cội nguồn, nhớ về những ngày xưa vất
vả chính là đạo lí, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân ta.
Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:
<i>Những ai đã khuất</i>
<i>Những ai bây giờ</i>
<i>Yêu nhau và sinh con đẻ cái</i>
<i>Gánh vác phần người đi trước để lại</i>
<i>Dặn dò con cháu chuyện mai sau</i>
Trong sự hình thành và phát triển, bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định.
Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải
cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó.
Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía
cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức
đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến.
<i>Hơn hết tác giả còn khẳng định</i>
<i>Trong anh và em hơm nay</i>
<i>Đều có một phần đất nước</i>
Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách
nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của
đất nước này.
<i>Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gị bãi</i>
<i>Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha</i>
<i>Ơi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy</i>
<i>Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta</i>
Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể phủ
nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế.
Đất nước cịn biểu tượng cho long thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã
xuống vì hịa bình, tự do cho hơm nay:
<i>Họ đã sống và chết</i>
<i>Giản dị và bình tâm</i>
<i>Khơng ai nhớ mặt đặt tên</i>
<i>Nhưng họ đã làm ra đất nước</i>
Lại them một sự lí giải đúng đắn cho định nghĩa “đất nước”, những con người đó họ dù
chết nhưng trái tim họ vẫn còn sống mãi trong cuộc sống của những người ở lại.
Nhưng ở hai câu thơ cuối có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa đúng đắn
và sâu sắc nhất về đất nước:
Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
Thật vậy, nhân dân chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vậy đất nước này phải thuộc
về nhân dân. Tư tưởng của tác giả rất tiến bộ, rất đời thường và rất sâu sắc.
Như vậy Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã khẳng
định được vị trí, vai trị vơ cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi con người.
Gấp trang sách lại nhưng những hình ảnh về đất nước vẫn cịn sống mãi trong long
người đọc.
Sóng
Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại. Người
yêu thơ mệnh danh chị là “Nữ hồng của thi ca tình u”. Thơ của chị là tiếng nói nhân
hậu, thủy chung, giàu trực cảm và da diết khát vọng hạnh phúc đời thường. Sóng là bài
thơ được làm năm 1967 nhân chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền. Bài thơ sau đó được
Sóng là một hình tượng động, bất biến cũng như “tình u mn thuở / Có bao giờ
đứng n”. Vì vậy cho nên sóng được các nhà thơ chọn làm thi liệu để biểu tượng cho
tình u. Nếu Xn Diệu mượn sóng để biểu tượng cho tình yêu của anh “Anh xin làm
sóng biếc/ Hơn mãi cát vàng em/ Hơn thật khẽ thật êm/ Hôn êm đềm mãi mãi/ Đã hôn
rồi hôn lại/ Cho đến nát cả trời/ Anh mới thôi dào dạt”. Thì Xn Quỳnh lại mượn sóng là
biểu tượng cho những cung bậc tình cảm của người phụ nữ trong tình yêu nhiều khao
khát và biến động. Hai hình tượng sóng và em ln đi đơi sánh cặp với nhau. Sóng là
em mà em cũng là sóng. Sóng và em hịa quyện vào nhau, có lúc khiến ta khơng nhận
ra đâu là em đâu là sóng nhưng có lúc lại tách ra, soi chiếu vào nhau, tôn lên những vẻ
đẹp vừa đa dạng lại vừa phong phú.
Hình tượng sóng trước hết được gợi ra từ âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ.
Thể thơ năm chữ có tác dụng tạo ra những nhịp điệu của sóng. Cả bài thơ là một đại
dương, mỗi khổ thơ là một con sóng lớn, mỗi câu thơ là một con sóng nhỏ. Tất cả đã
tạo nên một âm hưởng mênh mang, dào dạt của những con sóng lịng nhiều cung bậc:
Dữ dội và dịu êm
Sơng khơng hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Hai câu thơ đầu với nghệ thuật đối: Dữ dội – dịu êm; Ồn ào – lặng lẽ đã làm hiện lên vẻ
đẹp của những con sóng biển ngàn đời đối cực. Những lúc biển động, bão tố phong ba
thì biển dữ dội ồn ào cịn những giây phút sóng gió đi qua biển lại hiền hịa trở về dịu
êm lặng lẽ. Xuân Quỳnh đã mượn nhịp sóng để thể hiện nhịp lịng của chính mình trong
một tâm trạng bùng cháy ngọn lửa mãnh liệt của tình u, khơng chịu n định mà đầy
biến động, khao khát “Vì tình u mn thuở/ Có bao giờ đứng yên”. Đúng như vậy, tình
yêu của người con gái nào bao giờ yên định bởi có lúc họ yêu rất dữ dội, yêu mãnh liệt
Nếu phải cách xa nhau
Biển chỉ cịn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ cịn bão tố
(Thuyền và Biển)
Nhưng cũng có lúc người con gái lại thu mình trở về với chất nữ tính đáng u, họ lặng
lẽ, dịu êm ngắm soi mình và lặng im chiêm nghiệm:
Có những tình u khơng thể nói bằng lời
Chỉ hiểu nhau qua từng ánh mắt
Nhưng đó là tình yêu bền vững nhất
Bởi thứ ồn ào là thứ dễ lãng quên
(Đinh Thu Hiền)
Sóng của Xuân Quỳnh là tiếng nói của một tâm hồn thiếu nữ đang trong độ tuổi hai
mươi, tiếng nói của một trái tim chân thành và đam mê, luôn rực cháy chất trẻ trung
mãnh liệt, khao khát được sống hết mình và yêu hết mình. Vì thế cho nên:
Sơng khơng hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
yêu tiến bộ và mạnh mẽ của người phụ nữ thời đại. Có thấy ngày xưa quan niệm tình
yêu cổ hủ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” để rồi bao cơ gái đã phải cất lên lời than van ai
oán:
Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân
Hoặc:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Từ đó ta mới thấy hết được cái mới mẻ trong quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh:
Người phụ nữ chủ động tìm đến với tình yêu để được sống với chính mình.
Tình u mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, nó làm bồi hồi, xao xuyến rung động trái tim
của lứa đôi, của con trai con gái, của em và anh.
Ơi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Từ “Ơi!” cảm thán như tiếng lịng thốt lên từ nỗi thổn thức của trái tim yêu. Nghệ thuật
đối lập “ngày xưa” – “ngày sau” càng làm tơn thêm nét đáng u của sóng. Sóng là thế
muôn đời vẫn thế vẫn dữ dội ồn ào vẫn dịu êm lặng lẽ như tình u tuổi trẻ có bao giờ
đứng n. Bởi tình u tuổi trẻ ln khát vọng ln khát khao và mơ ước. Nó làm ta bồi
hồi khát khao và nhung nhớ bởi “Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ không
thương một kẻ nào” hay “Bắt chim bướm thả vào vườn tình ái” (Xuân Diệu). Tình yêu
làm điên đảo tuổi trẻ với những nhớ nhung giận hờn, những cồn cào da diết như lời thơ
Xuân Quỳnh đã từng viết “Những ngày khơng gặp nhau/Lịng thuyền đau rạn vỡ/
Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu mong nhớ”. Có yêu nhau mới thấy được
cồn cào của vị nhớ, mùi ái ân, mới thấy được thế nào là bồi hồi ngực trẻ.
Tình u là sóng, là gió. Và qua sóng, gió ấy, nhà thơ đã nói lên thật dễ thương cái nhu
cầu tự nhận thức, tự phân tích, lí giải, nhưng lại khơng thể cắt nghĩa nổi của tình u.
Tình u cũng như sóng biển, gió trời vậy thơi, nó tự nhiên, hồn nhiên như thiên nhiên
và cũng khó hiểu, nhiều bất ngờ như thiên nhiên :
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Người phụ nữ băn khoăn về khởi nguồn của tình yêu và bộc bạch một cách hồn nhiên,
chân thành sự bất lực không lý giải được câu hỏi mn đời ấy trong tình u: “Em cũng
khơng biết nữa – Khi nào ta yêu nhau”. Đây là một cách cắt nghĩa về tình yêu rất Xuân
Quỳnh, một cách cắt nghĩa rất nữ tính, rất trực cảm . Lí giải được ngọn nguồn của sóng
thì dễ bởi « Sóng bắt đầu từ gió » nhưng để hiểu « Gió bắt đầu từ đâu » thì thi nhân lại
ấp úng « Em cũng khơng biết nữa ». Cũng như tình u của anh và em nó đến rất bất
ngờ và tự nhiên bởi « Tình yêu đến trong đời không báo động ». Câu thơ « Em cũng
không biết nữa » như một cái lắc đầu nhè nhẹ, bâng khuâng và phân vân. Đến câu hỏi «
Khi nào ta u nhau » thì đúng là nữ sĩ đang bâng khuâng và băn khoăn. Kì lạ quá, diệu
kì quá, em và anh yêu nhau bao giờ nhỉ ? Câu hỏi này muôn đời không ai lí giải nổi nhất
là những bạn trẻ đang yêu và đắm say trong men tình ái. Tình yêu là vậy, khó lí giải, khó
định nghĩa. Xn Diệu – ơng hồng của thi ca tình yêu cũng đã từng băn khoăn khi định
nghĩa về tình u « Đố ai định nghĩa được tình u/ Có khó gì đâu một buổi chiều/Nó
chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu ». Chính vì khơng thể lí giải
rõ ngọn ngành nên tình yêu vì thế mà trở nên đẹp và là cái đích để cho mn người đi
tìm và khám phá. Tình u khơng có tuổi cũng như « xn khơng ngày tháng ». Tình
u là một ẩn số giữa hai thế giới tâm hồn chứa đầy bí mật.
Dù tin tưởng chung một đời một mộng
Anh là anh mà em vẫn là em
Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật
Những tâm hồn bí mật ấy ln khao khát giao hịa, khao khát khám phá nhưng lại khơng
lý giải nổi tình u. Bởi tình u là bài tốn chưa có lời giải đáp, tình u như bài thơ
chưa có hồi kết. Vì thế tình u ln đẹp, ln mới và hấp dẫn. Có lẽ vì thế mà thi sĩ đã
lắc đầu « Em cũng khơng biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau ».
Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ – một trong những gam màu chủ đạo của tình yêu. Bao
kẻ nhớ người mình yêu mà đảo điên:
Trời cịn có bữa sao qn mọc
Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em
(Xuân Diệu)
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
(Ca dao)
Con sóng trên mặt nước
Những con sóng nhớ bờ
Ngày đêm khơng ngủ được
Lịng em nhớ đến anh
Cả trong mơ cịn thức
Hịa cùng những con sóng: sóng thơ, sóng lịng, ta tìm về cõi sâu kín của tâm hồn thi sĩ
và cũng là của muôn kiếp “má hồng”. Bài thơ “Sóng” ra đời khi những con sóng lịng
dâng lên dữ dội, những con sóng nhớ thương, thao thức của một tâm hồn đang yêu. Cả
bài thơ là những đợt sóng nối nhau vỗ vào tâm hồn người đọc. Sóng và nhân vật em
“Con sóng dưới lịng sâu
Con sóng trên mặt nước”
Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc quyện hòa cùng nghệ thuật đối “dưới lòng sâu –
trên mặt nước” tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác
nhau. Có con sóng gầm gào trên mặt đại dương nhưng cũng có con sóng cuộn trào
trong lịng biển cả. Con sóng ngầm cịn mãnh liệt hơn cả con sóng trên mặt nước. Cả
hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng của sóng biển. Sóng là em, em là sóng. Cũng
như sóng kia, tâm hồn em cũng vơ vàn những phức tạp khó hiểu. Lúc lặng lẽ, êm đềm
khi nồng nàn dữ dội, nhưng thế nào đi nữa, em vẫn mãi là em, vẫn mãi ôm trong lịng
một nỗi nhớ thương khơng dứt. Cũng như sóng kia thơi, dù dịu êm hay dữ dội thì:
“Ơi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm khơng ngủ được”
Xn Quỳnh vơ cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để diễn ta nỗi niềm của
người phụ nữ khi u. Sóng mn đời vẫn thế, có bao giờ thơi vỗ sóng, có khi nào
chẳng cồn cào, có khi nào thơi ngừng hành trình đến với bờ dù mn vời cách trở. Sóng
chẳng cịn là sóng nếu tĩnh n, lặng lẽ. Vì vậy mà sóng đã được Xn Quỳnh diễn tả
bằng một từ ngữ rất sáng tạo “không ngủ được”. Sóng là vậy, dù lặng n dưới lịng
biển hay dữ dội trên mặt đại dương thì ngàn đời vẫn khát khao tìm về bến bờ tĩnh tại.
Chưa đến được bờ thì nhớ thương, thương nhớ, thì thao thức một nỗi niềm. Vì nhớ bờ
“bởi hơn mãi ngàn năm không thỏa/ Bởi yêu bờ lắm lắm em ơi”. Nên con sóng đã hành
trình vượt qua khơng gian bao la và thời gian xa thẳm. Nó bất chấp cả thời gian “ngày
đêm không ngủ được” để quyết tâm hướng vào bờ cho thỏa nỗi niềm mong nhớ.
Và nếu sóng nhớ bờ thì em nhớ anh. Đó âu cũng là quy luật của tình u.
Lịng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
nghĩa là chị đã phơi bày tất cả gan ruột của mình để dốc hết yêu thương mà gửi về
người mình u. Nỗi nhớ khơng chỉ có mặt trong thời gian được ý thức mà còn gắn với
tiềm thức – thời gian trong mơ. Vị ngọt ngào mê đắm của tình u lan tỏa trong cách nói
nghịch lý “cả trong mơ còn thức”.
Câu thơ “cả trong mơ còn thức” lóe lên điểm sáng của nghệ thuật. Nó làm đảo lộn nhịp
sống bởi “tình u ln làm cho con người khó thức ngủ theo giấc giờ điều độ”. Nỗi nhớ
khơng chỉ làm lịng em “bổi hổi bồi hồi, như đứng đống lửa như ngồi trong than” nó cịn
làm cho em nhớ nhung, thao thức ngay cả trong giấc ngủ. Có thể nói, với câu thơ ấy,
Xuân Quỳnh đã có thể được xem là thi sĩ tài năng bật nhất của thi ca hiện đại Việt Nam.
Sóng và em đan quyện vào nhau. Em lặng đi để sóng trào lên. Nhưng sóng cũng là em,
sóng trào lên mang theo lớp lớp tâm tình của em:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam”
Thế giới của Anh và Em không giới hạn chiều dài Bắc – Nam, không khoanh vùng địa
bàn mà nơi nào cũng có nỗi nhớ thường trực của tình u vĩnh viễn. Xuân Quỳnh đã
tiếp nhận nỗi nhớ ấy bằng tất cả sự nhạy cảm của lứa tuổi đôi mươi và khẳng định cho
một cái tôi của con người luôn vững tin ở tình yêu. Từ xưa đến nay người ta vẫn
thường nói “Xi Nam, ngược Bắc” giờ đây Xn Quỳnh lại nói “Xi Bắc, ngược Nam”
là cách nói ngược. Phải chăng tình u đã làm cho con người bị đảo lộn phương hướng
? Nhưng có một phương mà em không thể nào lẫn lộn, không thể nào ngi nhớ đó là
phương anh:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Xuân Quỳnh buộc chặt bao “sợi nhớ, sợi thương” về phương anh:
Chỉ riêng điều được sống cùng anh
Niềm mơ ước trong em là lớn nhất
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim đập chẳng vì anh
Thế mới biết tình yêu của chị nồng nàn, mãnh liệt thế nào. Hướng về anh thì có thể thay
đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất
dịch. Anh đã là “hệ qui chiếu” của đời em. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp
vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn khơng có giới hạn. Cảm
thơng cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng hiểu thêm tình cảm của chị:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Nếu như những khổ thơ trước nhà thơ nói về niềm vui sướng dào dạt, những nhung
nhớ giận hờn thì đoạn thơ này nhà thơ lại thể hiện những băn khoăn, lo lắng. Đó cũng
là trực cảm của tình u.
“Ở ngồi kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào cũng tới bờ
Dù mn vời cách trở”
Ba từ “Ở ngồi kia” như cánh tay Xuân Quỳnh mềm mại đang chỉ tay về khơi xa nơi
trăm ngàn con sóng ngày đêm không không biết mỏi đang vượt qua giới hạn không gian
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Xuân Quỳnh qua khổ thơ trên đã phần nào cho người đọc nhận thức rõ về những dự
cảm và nỗi băn khoăn của chị. Những từ “tuy dài thế – vẫn đi qua – dẫu rộng” như chứa
đựng ở trong nó ít nhiều nỗi âu lo. Tuy thế nhà thơ vẫn tin tưởng, tin tưởng ở tấm lòng
nhân hậu và tình yêu chân thành của mình sẽ vượt qua tất cả như áng mây kia như
năm tháng kia. Có thể nói Xuân Quỳnh yêu thương tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng tỉnh
táo nhận thức dự cảm những trắc trở, thử thách trong tình yêu; đồng thời cũng tin tưởng
vào sức mạnh tình yêu sẽ giúp người phụ nữ vượt qua thử thách đến vói bến bờ hạnh
phúc. Cho nên, sóng sẽ đến bờ, năm tháng sẽ đi qua thời gian dài đằng đẵng và đám
mây nhỏ bé sẽ vượt qua biển rộng để bay về xa. Một loạt hình ảnh thơ ẩn dụ được bố
trí thành một hệ thống tương phản, đối lập để nói lên dự cảm tỉnh táo, đúng đắn và niềm
tin mãnh liệt của nhà thơ vào sức mạnh của tình yêu .
Yêu thương mãnh liệt nhưng cao thượng, vị tha. Nhân vật trữ tình khao khát hịa tình
u con sóng nhỏ của mình vào biển lớn tình yêu – tình yêu bao la, rộng lớn – để sống
hết mình trong tình u, để tình u riêng hố thân vĩnh viễn thành tình u mn thuở:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình u
cộng đồng. Sóng khơng phải là biểu tượng của một cái tôi ngạo nghễ và cô đơn như thơ
lãng mạn. Khát vọng lớn nhưng trong cách nói Xuân Quỳnh lại rất khiêm nhường : trăm
con sóng nhỏ như là sự tổng hịa những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biển lớn. Nhà
thơ đã thể hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hịa mình vào đại
dương bao la, hịa mình vào biển lớn tình u để một đời vỗ muôn điệu yêu thương
“Người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu).. Phải chăng đó là khát vọng muốn bất
tử hóa tình u của nữ sĩ Xn Quỳnh ? Vâng! Đó khơng chỉ là tinh thần của con người
thời đại chống Mỹ mà còn là âm vang của một tấm lịng ln tha thiết với sự sống, với
tình yêu.
Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân
miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly
màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hồn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát
khao của người con gái trong tình u.
Tóm lại, bài thơ Sóng là bài thơ giàu giá trị nội dung và nghệ thuật. Thành công của bài
thơ là nhờ vào thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, đối lập… nhất là thể thơ
ngũ ngôn giàu nhịp điệu. Nhịp điệu của sóng, nhịp điệu của tâm hồn. Tất cả đã làm hiện
lên vẻ đẹp rất Xuân Quỳnh giàu trắc ẩn suy tư và khát vọng trong tình u. Đọc xong bài
thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con
người ln thuỷ chung, ln sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là
một nhà thơ nữ của tình u lứa đơi, chị đã làm phong phú hơn cho nền thơ ca nước
nhà.
<b> Tiếng đàn của LOR-CA</b>
Nhà thơ Thanh Thảo tên thật là Hồ Thành Công, sinh năm 1946, quê ở huyện Mộ
“Khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn”.
(Ph. G. Lor-ca)
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la ti-la
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mịn
Tây Ban Nha hát nghêu ngao
bỗng kinh hồng áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt
vầng trăng long lanh trong đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
dịng sơng rộng vơ cùng
Lor-ca bơi sang ngang
trên chiếc ghi tar màu bạc
chàng ném lá bùa cơ gái Di-gan
vào xốy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la…
Bài thơ viết về cái chết của Fê-đê-ri-cô Gar-xi-a Lor-ca (1898 – 1936), thi sĩ, nhạc sĩ,
nhà biên kịch thiên tài người Tây Ban Nha. Dòng máu nóng bỏng nhiệt tình thơi thúc
nhà thơ cất cao tiếng đàn, tiếng hát, lời thơ để ca ngợi tự do bất diệt, phản đối bản chất
tàn bạo, xấu xa của bè lũ phát xít Phơ-răng-cơ. Ơng đã bị chúng sát hại ngày
19-8-1936, khi ông mới 38 tuổi. Cả đất nước Tây Ban Nha khóc thương ơng, một nhà thơ –
chiến sĩ của tự do.
Cái chết của Lor-ca là sự kiện gây chấn động dư luận không những ở Tây Ban Nha mà
cịn trên tồn thế giới, khơng chỉ lúc bấy giờ mà cịn âm vang tới nhiều năm sau. Thanh
Thảo vô cùng khâm phục và yêu mến khí phách cũng như tài năng của Lor-ca nên đã
dành tâm huyết để viết nên bài thơ giống như dựng một tượng đài sừng sững về Lor-ca
trong tâm tưởng những người mến mộ ông qua một hình ảnh quen thuộc mà độc đáo:
cây đàn ghi ta.
của bài thơ giống như một “chìa khóa” ngầm hướng người đọc tới sự hiểu biết đúng đắn
thông điệp của bài thơ. Trong nhận thức của một người đọc bình thường, câu nói này
hiển nhiên bộc lộ tình yêu say đắm của Lor-ca với nghệ thuật. Nhưng khơng chỉ có vậy,
nó cịn là tình yêu tha thiết của người nghệ sĩ với xứ sở của mình.
Mở đầu bài thơ là tiếng đàn rộn rã đầy hứng khởi tượng trưng cho tâm hồn sôi nổi,
mạnh mẽ, yêu đời của Lor-ca nói riêng và của dân tộc Tây Ban Nha nói chung. Hình
ảnh Lor-ca – một nghệ sĩ tự do và đơn độc – được giới thiệu bằng những nét chấm phá
gây ấn tượng mạnh mẽ:
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mịn
Màu áo chồng đỏ gắt nhắc tới một nét độc đáo trong đời sống văn hóa của người dân
Tây Ban Nha vừa giúp chúng ta hình dung khá cụ thể về Lor-ca, vừa gợi hồi tưởng đến
trị chơi đấu bị tót mạo hiểm, dũng mãnh có sức cuốn hút rất lớn với đông đảo dân
chúng Tây Ban Nha và du khách quốc tế. Các chàng đấu sĩ nổi bật giữa đấu trường với
Nhưng ở đây không, phải là đấu trường với cuộc đấu giữa võ sĩ với bị tót mà là một
đấu trường đặc biệt với cuộc đấu dai dẳng, bền bỉ mà không kém phần ác liệt giữa khát
vọng dân chủ của cơng dân Lor-ca với nền chính trị độc tài phát xít Phơ-răng-cơ.
Ở khổ thơ thứ hai và thứ ba, tác giả diễn tả cái chết đột ngột của Lor-ca bằng các chỉ
tiết đặc biệt gây ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc. Từ sự sống bừng bừng đột ngột
chuyển sang cái chết bi thảm chỉ trong khoảnh khắc, một khoảnh khắc nghiệt ngã, kinh
hoàng :
Tây Ban Nha hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
vọng tự do của người nghệ sĩ với bạo lực tàn ác của bọn phát xít, giữa tiếng hát yêu đời
với hiện thực phũ phàng đẫm máu.
Cái chết đến với Lor-ca hoàn toàn bất ngờ. Người nghệ sĩ ấy tuy luôn bị ám ảnh bởi cái
chết nhưng khơng hề nghĩ là nó lại đến sớm như thế và đến vào lúc không ngờ nhất.
Tiếng hát tượng trưng cho sự sống bỗng nhiên tắt lịm trước cái chết khủng khiếp hiện
diện qua hình ảnh gây ấn tượng rùng rợn : áo chồng bê bết đỏ. Dịng máu sôi sục khát
vọng tự do của Lor-ca đã tuôn đổ trên mảnh đất mà ơng u q. Hình ảnh này chứa
đựng ý nghĩa tố cáo tội ác dã man của bè lũ phát xít Phơ-răng-cơ đối với nhân dân Tây
Ban Nha u chuộng tự do, hịa bình, cơng lí. Sự kiện thảm khốc ấy tạo ra những cú
sốc dây chuyền được tác giả diễn tả theo lối ẩn dụ tượng trưng với sự chuyển đổi cảm
giác liên tục khá mới mẻ, táo bạo, qua những âm thanh vỡ ra thành màu sắc, hình khối,
thành dịng máu chảy, góp phần nêu bật ý nghĩa tiếng đàn ghi ta ở những cung bậc
khác nhau, hoàn cảnh khác nhau. Mỗi so sánh là một ẩn dụ về cái đẹp, về tình yêu, về
nỗi đau, về cái chết: tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh biết mấy, tiếng ghi ta tròn bọt
nước vỡ tan, tiếng ghi ta rịng rịng – máu chảy.
Hình ảnh tiếng ghi ta rịng rịng – máu chảy khơng đơn thuần chỉ là nghệ thuật nhân hóa
mà cao hơn thế, nó là con người, là số phận, là linh hồn của Lor-ca. Đây là một hình
ảnh gây ấn tượng và ám ảnh sâu đậm, day dứt khôn nguôi trong tâm hồn người đọc.
Niềm tin vào sự bất tử của tiếng đàn Lor-ca còn biểu hiện tập trung ở những khổ thơ
cuối. Sự khâm phục chân thành và lòng tiếc thương vô hạn của nhà thơ Thanh Thảo đối
với Lor-ca là cơ sở vững chắc của niềm tin mãnh liệt ấy. Tình cảm đau xót thể hiện qua
những câu thơ có âm điệu ngắt quãng giống như tiếng khóc nghẹn ngào, thổn thức:
khơng ai chơn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt
vầng trăng long lanh trong đáy giếng
dịng sơng rộng vơ cùng
Lor-ca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xốy nước
chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la…
Ở đoạn thơ này, Thanh Thảo vẫn tiếp tục sử dụng các biện pháp so sánh và ẩn dụ
tượng trưng để khắc đậm niềm tin. Cùng với ý không ai chôn cất tiếng đàn, hình ảnh
đường chỉ tay là ẩn dụ về số phận, về định mệnh nghiệt ngã, ít nhiều nhắc nhớ đến chi
tiết Gar-xi-a Lor-ca bị bọn phát xít thủ tiêu và ném xác xuống giếng. Các hình ảnh tượng
trưng như giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng, dịng sơng, lá bùa, chiếc
ghi ta màu bạc,… đều được sáng tạo theo lối thơ tượng trưng ám chỉ cõi chết, nơi siêu
thoát. Các hành động ném lá bùa, ném trái tim mình cũng có ý nghĩa tượng trưng cho
sự giã từ vĩnh viễn, một sự lựa chọn của Lor-ca.
nổi. Nó sẽ sống mãi, truyền lan mãi, giản dị mà kiên cường như cỏ dại. Đây cũng là nỗi
xót thương trước cái chết bi thảm của một thiên tài; trước hành trình cách tân nghệ
thuật dang dở khơng chỉ với bản thân Lor-ca mà còn với nền văn chương Tây Ban Nha.
Nghệ thuật bỗng thành thứ cỏ mọc hoang ?! Nhưng ý thơ đâu chỉ dừng lại ở đó. Dường
như cịn có cả tâm trạng của người nghệ sĩ đọng lại thành những hình ảnh đẹp và buồn:
giọt nước mắt vầng trăng – long lanh trong đáy giếng,… như giọt nước mắt khóc
thương người nghệ sĩ chân chính của nhân dân. Câu thơ gợi những suy tư, liên tưởng
đa chiều trong lịng người đọc.
Nói về cái chết và để cái chết của Lor-ca bớt phần bỉ thảm, nhà thơ Thanh Thảo đã kết
hợp những hình ảnh dân gian với những hình ảnh hiện đại để thể hiện sáng tạo nghệ
thuật của riêng mình: đường chỉ tay đã đứt, dịng sơng rộng vơ cùng; phận người thì
ngắn ngủi mà thế giới thì mênh mang. Lor-ca đã đi vào cõi bất tử với hình ảnh: Lor-ca
bơi sang ngang – trên chiếc ghi ta màu bạc.
Các hành động ném lá bùa vào xoáy nước, ném trái tim mình vào cõi lặng yên bất chợt
đều mang nghĩa tượng trưng cho sự giã từ và giải thoát, chia tay thực sự với những
ràng buộc và hệ lụy trần gian… Cây đàn ghi ta quen thuộc gắn bó với Lor-ca như hình
với bóng giờ đây đã trở thành con thuyền đưa linh hồn ông sang thế giới bên kia, một
thế giới an lạc vĩnh hằng khơng có chiến tranh, khơng cịn đổ máu. Cuộc đời, số phận
của Lor-ca đã kết thúc nhưng tiếng đàn của ông vẫn ngân nga, vang vọng mãi: li-la li-la
li-la.
Đàn ghi ta của Lor-ca là bài thơ dồi dào nhạc tính, được sáng tạo với chủ ý tơ đậm hình
tượng Gar-xi-a Lor-ca – nghệ sĩ hát rong vĩ đại – người đã dùng tiếng đàn ghi ta để giãi
bày nỗi đau buồn và khát vọng yêu thương của nhân dân mình. Có thể nhận ra nhạc
tính của bài thơ từ vần và nhịp, các thủ pháp láy từ, điệp từ, sự kết hợp ngẫu hứng giữa
các từ ngữ tạo nên những giai điệu mang tính chất âm nhạc. Những từ mô phỏng âm
thanh qua các nốt đàn ghi ta. Giai điệu bài thơ mang dáng dấp một bản nhạc không lời.
Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ thuật, cho tình yêu tự do, tình yêu con người của
Lor-ca, tượng trưng cho Cái Đẹp của đời. Bạo lực phát xít giết chết Lor-ca nhưng khơng thể
nào giết chốt tiếng đàn du dương, réo rắt của ơng đã gieo vào lịng người dân Tây Ban
Nha những hạt giống tự do và khát vọng. Cái Đẹp là bất tử. Lor-ca được coi là thần
tượng bởi lịng u tự do, u con người, bởi khí phách kiên cường không khuất phục
trước những thế lực bạo tàn. Tâm hồn trong sáng và tài năng hiếm có khiến tên tuổi
Lor-ca sống mãi trong tâm hồn người dân Tây Ban Nha.
Nhắc tới Lor-ca, những người yêu mến ơng nhớ ngay đến câu nói nổi tiếng bộc lộ tính
Người lái đị sơng Đà
Nguyền Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đau Mỗi tác
phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người với tư tưởng, tình
cảm gắn bó với đất nước quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về
phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ơng Người lái đị Sơng Đà, đó là một
bài tùy bút, cũng là một bài thơ bằng văn xuôi đã thể hiện được những nét tiêu biểu về
phong cách đó.
Người lái đị Sơng Đà ưước hết là một tác phẩm viết về một con người một con sơng.
Nhưng dưới ngịi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở
thành những cơng trình mĩ thuật, con người đều thành những nghệ sĩ điêu luyện. Bằng
sự tiếp cận quan sát và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vơ cùng giàu có,
chuẩn xác, Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình
tượng kì vĩ giàu sức hấp trong thiên tùy bút độc đáo này.
Người lái đị trên sơng Đà trong tác phẩm, trước hết là một ông già bảy mươi tuổi, đã
giành một phần lớn đời mình cho nghề lái đị dọc trên sơng Đà. Đó một người lái đị lão
luyện: “Trên dịng sơng Đà, ông xuôi, ông ngược hơn trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ
sáu chục lần...” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ
này. Đây là một con người từng trải hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đị, và đã đạt
đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lịng đất tất cả những
luồng nước tất cả những con thác hiểm trở” Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm phục
với con người này. “Sông Đà, đối với ơng lái đị ấy, như một trường thiên anh hùng ca
sánh, nhưng với những hình ảnh táo bạo, khơi gợi lạ lùng, tác giả đã tả sơng Đà thiên
biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một bầy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một
cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sơng “reo lên như đun sôi lên một trăm độ muốn
hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm một ấm nước sơi khổng
lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”. Lại có những “hút nước” xốy sâu như
lịng giếng “cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”...
Thật là mộl dịng sơng Đà đầy hiểm trở, đầy nguy nan cho con người. Thế nhưng,
“ơng lái đị cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái...” Mặc dù mặt
“méo bệch đi” vì những địn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ
tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh láo của người cầm lái. Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực tạo cho
đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con
người lao động. Sau mười năm làm nghề lái đò, cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm,
trên ngực người lái đò vẫn còn “bầm tụ” mộl “củ khoai nâu”, với Nguyễn Tn, “đó cũng
là cái hình ảnh q giá của một thứ huy chương lao động siêu hạng”.
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một cơng trình nghệ
thuật đầy sáng tạp. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức và tri thức về
cuộc sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngơn ngữ..., tác phẩm còn là một khối kiến
trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp mộl cách sâu sắc, cái đẹp của con
người cụ thể, con người lao động. Người lái đị Sơng Đà. Nguyễn Tn đích thực là một
nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi những con người lao động gian lao nguy hiểm
nhưng đầy vinh quang.
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua hình tượng con sông Đà
<b>BÀI LÀM</b>
Tiếp xúc với văn chương của Nguyễn Tuân, ta bắt gặp ẩn tàng trong những trang văn
là “cảm xúc mạnh, là hơi thở nồng” (Nguyễn Đăng Mạnh) của cái tôi trữ tình nghệ sĩ
mang khát vọng cuồng nhiệt, muốn biến những trang văn thành những trang hoa lộng
lẫy, yêu kiều vừa mê hoặc, vừa thách đố người đọc.
Trải suốt từ trang đầu đến trang cuối tác phẩm là hình ảnh dịng sơng Đà được chụp
lại ở nhiều chiều, nhiều góc độ khác nhau, Qua việc tìm hiểu dịng sông, người đọc
được hiểu thêm về một con người, một nghệ sĩ “suốt đời đi lìm cái thật và cái đẹp” - nhà
văn Nguyễn Tuân, bởi vì hình tượng con sông vĩ đại của vùng đất Tây Bắc xa xôi là sự
thể hiện khá đầy đủ phong cách hay cái nhìn cuộc sơng của nhà văn, ở đó, bạn đọc đã
thấy một con người ưa sự độc đáo trong sự tài hoa - un bác; một cá tính mạnh mẽ
ln săn tìm những gì dữ dội. mãnh liệt; một thầy phù thủy ngơn từ, hình ảnh...
Dịng sơng Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân bên cạnh vẻ dữ dội, hung bạo như
“kẻ thù số một” của con người, cũng có lúc hiện lên rất bay bổng mơ màng, có nét trữ
tình của một con người nồng nàn xúc cảm. Nếu có ai hỏi tơi về đoạn văn tâm đắc nhất
tơi sẽ trả lời ngay rằng đó là đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của dịng sơng hiền hịa “con sơng
Đà ln dài, tn dài như một áng tóc trữ tình... cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nước
xuân”. Đoạn văn như một khúc nhạc nhẹ êm ái, lại như một bức tranh thủy mặc mang
đến cho tâm hồn người đọc những rung động tinh vi, những xúc cảm nhẹ nhàng. Bằng
tất cả tài năng và tâm huyết của mình, dịng sơng dữ dội đã mờ phai, chỉ cịn hình ảnh
của dịng nước nhẹ nhàng, cũng có những rung động u thương “dịng sơng qng
này lững lờ như nhớ thương những hịn đá thác xa xơi để lại trên thượng nguồn Tây
Bắc. Dù được tái hiện dưới góc độ thiên nhiên nhưng Nguyễn Tn đã thổi vào dịng
sơng Đà những cảm xúc tinh tế của một con người nghệ sĩ tài hoa. Nó cũng biết “dịu
dàng”, cũng yêu thương, duyên dáng, cũng hồn nhiên, lặng lẽ... Nsuyễn Tuân khơng chỉ
nhìn dịng sơng ấy như một con người, mà cịn hơn thế, một con người có một tâm hồn
nghệ sĩ. Chính vì vậy Nguyễn Tn mới coi dịng sơng Đà như một “cố nhân” (“nó đằm
đằm âm ấm như gặp lại cố nhân”), trong nhiều tác phẩm, nhà văn họ Nguyễn đã thể
hiện tình yêu với những con người tài hoa, những thiên nhiên mĩ lệ. Tùy bút “Sông Đà”
là một tác phẩm như thế là sự kết hợp của tình yêu con người và tình yêu thiên nhiên
tập trung trong hình ảnh dịng sơng Đà. Từ xưa đến nay đã có ai có niềm vui “như thấy
nắng giịn tan sau kì mưa dầm, như nối lại chiêm bao đứt qng” khi trơng thấy dịng
sơng. Đó chính là vì Nguyễn Tn đã nhìn địng sơng như một con người, và hơn thế,
chính trị khi biết “châu Quỳnh Nhai được giải phóng trước tiên ở Tây Bắc”, trở thành “cơ
sở bàn đạp ở Tây Bắc” xuyên vào lịng địch... Khơng chỉ thế Nguyễn Tn cịn huy động
những hiểu biết về những môn nghệ thuật gần gũi với văn chương như hội họa (“cong
sông Đà tuôn dài..."); điêu khắc có chỗ vách đá thành chẹt lịng sơng Đà như một cái yết
hầu”...), ở những lĩnh vực rất xa văn chương, Nguyễn Tuân cũng rất hiểu biết và sử
dụng rất linh hoạt qua đó tái hiện Đà giang ở nhiều góc độ khác nhau. Nguyễn Tuân đã
sử dụng cả kiến thức võ thuật để dựng một thạch trận dịng sơng: kiến thức thể thao khi
miêu tả cuộc chiến đấu “các luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ
của con thác”... Nhờ những hiểu biết này, sông Đà đã hiện lên thật sinh động cụ thể,
thật dữ dội cứng cỏi của võ thuật thật bay bổng của hội họa, văn chương... Nguyễn
Tuân đã vươn tới văn chương chuẩn mực: trữ tình, sâu lắng mà chính xác, khoa học...
Trong q trình làm sống dậy dịng sơng Đà, Nguyễn Tn khơng chỉ thể hiện mình là
người biết, mà còn rất ham hiểu biết, say sưa khám phá những lĩnh vực mới mẻ trong
cuộc sống. Trong Lịch sử văn học, có lẽ chẳng có ai đủ kì cơng như nhà văn đất Thăng
Long khi mấy lần bay qua dịng sơng Đà chỉ để hạ bút viết mây câu: đã nhìn say sưa làn
mây mùa xuân hay trên sơng Đà... vì mỗi độ thu về”.
Với lòng yêu say tiếng mẹ đẻ, sự hiểu biết sâu sắc về sự biết đổi từng của từ ngữ.
Nguyễn Tuân đã trở thành thầy phù thủy ngôn từ với hàng trăm phép biến hịa mà mỗi
phép biến hóa có công dụng lạ lùng mặc dù trong cuộc đời, nhà văn chỉ thừa nhận ông
là “người viết văn bằng tiếng Việt” chứ không phải “nhà văn” hay bất cứ một danh hiệu
cao quý nào khác. Trong tùy bút “Sông Đà” - ông đã dùng hết tài năng, vốn từ ngữ của
mình tung ra trang giấy để tái hiện sự hung bạo của dịng sơng cũng như vẻ đẹp trữ tình
của một nhân lâu ngày lặp lại”. Với sự hiểu biết rộng rãi cùa mình, Nguyễn Tuân đi dùng
từ ngữ trong nhiều lĩnh vực để tái hiện được hết tất cả những góc độ khác nhau của
dịng sơng. Có ngơn ngữ của điện ảnh (“Contre - plongée”); có võ thuật (“đánh khp
quật vu hồi”); có cả từ ngữ về ơ tô (“sang số nhấn ga" Những từ ngữ này mang đặc
trứng của mỗi lĩnh vực nhưng đều tập trung thể hiện dịng sơng Đà. Với cách sử dụng
Trong tùy bút “Người lái đị sơng Đà” ta cịn gặp rất nhiều phép so sánh liên tưởng thú
vị và bất ngờ. Để diễn tả cảm giác lạnh lẽo khi ngồi trong khoang đị qua một qng
sơng, Nguyễn Tn đã “cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên
một khung cửa sổ nào trên cái lầng nhà thứ mây nào vừa tắt phụt đèn điện”. Có phép so
sánh nào độc đáo và hiệu quả đến thế không ? Có những khi Nguyễn Tuân đã lấy lửa
để so sánh với nước “thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng
lộn giữa rừng vẩu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm
thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Hình ảnh so sánh cùng nhịp câu văn ngắn, dồn
dập tạo cảm giác sóng gió đang cuồn cuộc dâng trào... Phép so sánh “bờ sông hoang
dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa tập trung
thể hiện lịng trân trọng giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện lịng u say thiên nhiên
tươi đẹp, đồng thời thể hiện một cách cảm nhận cuộc sống tươi sáng, trong ngần như
pha lê của người chiến sĩ văn hóa
đây mà cũng nồng nàn tình cảm với đất nước, con người quê hương. Con sơng Đà
được nhìn nhận như “một cố nhân lâu ngày gặp lại” duyên dáng, thướt tha hồn nhiên,
được nhà văn hiểu rất sâu sắc và chính xác; được tái hiện đầy đủ lung linh trong câu
chữ thần kì. Qua hình tượng con sơng, một Nguyễn Tn đã được khẳng định chắc
chắn trong lịch sử văn học như một phong cách độc đáo của một tâm hồn tài hoa uyên
bác, mãnh liệt mà ngập tràn yêu thương. Văn chương bao giờ cũng là con người tác
giả, thể hiện cái nhìn tác giả trong từng chi tiết, hình ảnh. Nhiều yếu tố tập hợp lại, cho
người đọc làm quen với một con người nhà văn hoàn thiện.
Người đọc mãi nhớ về một dịng sơng Đà trong văn học Việt Nam - dịng sơng hung
bạo và trữ tình, cũng như mãi kính u một vì sao sáng của bầu trời văn học nhà văn
-người nghệ sĩ Nguyễn Tuân.
Đề bài: Soạn bài Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tn văn 12
<b>I. Đọc hiểu chung</b>
<b>1. Tác giả</b>
– Nguyễn tuân là một người tri thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc
– Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác tài hoa
– Nguyễn Tuân là người có cá tính mạnh mẽ và phóng khống, ơng khơng thích
những cái gì bằng phẳng nhợt nhạt, nhà văn luôn hứng thú với những biểu hiện mạnh
mẽ phi thường của tạo vật và con người
<b>2. Tác phẩm</b>
– Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tùy bút sông Đà (1960)
– Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất
vàng thử lửa của thiên nhiên Tây bắc đặc biệt là chất vàng mười đã qua thử lửa ở tâm
hồn con người lao động chiến đấu trên miền sông núi Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng
– Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng tháng
Tám
<b>II. Đọc hiểu chi tiết</b>
<b>1. Hình tượng con sơng Đà</b>
– Con sơng Đà được nhân hóa như con người và mang hai nét tính cách cơ bản:
hung bạo và trữ tình
– Hung bạo:
• Cảnh đá ở bờ sơng: đá dựng vách thành lịng sơng hẹp, có qng con hươi con nai
cịn nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ dưới lên như nhìn lên cái tịa nhà
cao vừa tắt phụt đèn điện
• Mặt ghềnh Hát loong: dài hàng ngàn cây số, “nước xô đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt bất cứ ai đi qua quãng ấy
• Cái hút nước giống như cái giếng bê tông, nước thở và kêu như cái cống cái bị sặc,
tưởng tượng một anh quay phim táo bạo ngồi thuyền thúng mà cầm máy quay cùng
chìm xuống cái xốy ấy
nghệ thuật lấy lửa tả nước• Thác nước: tiếng nước gần mãi réo lên, lúc thì gầm réo
ốn trách van xin, khiêu khích, lúc thì nghe như đàn trâu mộng “…nổ lửa”
• Đá ở lịng sông: như bày thạch trận
– Thơ mộng: di hết thượng nguồn đến hạ nguồn ta bắt gặp cảnh đẹp này
đẹp như một người thiếu nữ• Hình dáng: “tn dài tn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc… xuân”
• Sông Đà gợi cảm:
+ cố nhân
+ con sông còn gợi lên những niềm thơ
thơ mộng trữ tình và thanh vắng• Cảnh hai bờ sơng giống như một bờ tiền sử, cổ
tích
-> Tóm lại bằng tài năng uyên bác của mình Nguyễn tuân đã đưa người đọc đến với
<b>2. Hình tượng người lái đị</b>
– Nguyễn Tn nói về người lái đị là một tay lái ra hoa
– Ngoại hình: có ngoại hình độc đáo “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh”
– Vẻ đẹp được thể hiện qua những lần vượt thác
• Ơng phải vượt qua 3 vịng thạch trận với vịng một có 5 cửa thì 4 cửa tử một cửa
sinh lập lờ bên tả ngạn. Ông phải dùng hai chân kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi
nhưng vẫn tỉnh táo chỉ huy để con thuyền vào cửa sinh.
• Vịng 2: tăng thêm nhiều cửa tử, 1 cửa sinh ở hữu ngạn -> ông nắm chặt bờm sóng
ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước phóng vào cửa sinh. Ơng phải thay đổi chiến
thuật, chứng tỏ ơng lái đị rất am hiểu về qn sự
• Vịng 3: bên phải bên trái đều là cửa tử, cửa sinh ở giữa nhưng xung quanh lại có
bọn đá hậu về. Ơng lái đị cứ phóng thuyền chọc thẳng cửa giữa thuyền vút qua cổng
mở cổng khép giống như một mũi tên tre xuyên qua hơi nước
-> Qua đây ta thấy ơng lái đị quả là một người rất dũng cảm am hiểu binh pháp của
thần sông thần đá, ông dám đương đầu với những khắc nghiệt của thiên nhiên. Và nhân
vật ơng lái đị tiêu biểu cho nhân vật mà Nguyễn Tuân chọn cho các tác phẩm của mình
sau cách mạng tháng Tám. Chúng ta không chỉ thấy nét tài hoa uyên bác với những
người trí thức nữa mà ta cịn thấy un bác tài hoa trong những con người lao động
bình thường
<b>III. Tổng kết</b>
– Nhà văn Nguyễn tn đã xây dựng thành cơng hai hình tượng lớn trong tác phẩm.
Đó là thiên nhiên Tây Bắc mà cụ thể là hình tượng con sơng Đà mang vẻ đẹp hùng vĩ
mà thơ mộng, và hình ảnh con người lao động Tây Bắc dũng cảm và tài hoa trong lao
động. có thể nói đấy chính là chất vàng thử lửa mà Nguyễn Tuân đã tìm thấy ở Tây Bắc
Ai đã đặt tên cho dịng sơng
<b>Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn Phân tích bài Ai đã đặt tên cho dịng sơng của </b>
<b>Hồng Phủ Ngọc Tường trong chương trình văn học 12 tập 1.</b>
xứ Huế yêu thương. Tâm hồn nhà văn thấm đẫm đặc trưng của văn hóa Huế. Năm
1960, ơng tốt nghiệp ban Việt – Hán Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, tốt
nghiệp khoa Triết – Văn Đại học Huế. Sau đó, ơng về dạy tại trường Quốc học Huế.
Năm 1966, Hồng Phủ Ngọc Tường thốt li lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến
chống Mĩ bằng hoạt động văn nghệ, ông đã giữ các chức vụ: Tổng thư kí Hội Văn học
nghệ thuật Trị Thiên – Huế. Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên. Tổng biên
tập tạp chí Cửa Việt. Hồng Phủ Ngọc Tường là nhà văn có sở trường về bút kí. Các
sáng tác của ơng có một phong cách riêng khó lẫn, thể hiện ở sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa tính trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng
hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,… Tất cả được thể
hiện qua lối hành văn giàu cảm xúc và tài hoa. Hồng Phủ Ngọc Tường cịn là nhà thơ
trữ tình đằm thắm có những vần thơ đậm chất suy tưởng về con người và cuộc đời.
Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học và nghệ thuật năm 2007. Tác phẩm
chính về văn xi : Ngôi sao trên đỉnh Phù Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai
đã đặt tên cho dịng sơng? (1987), Hoa trái quanh tôi (1995), Ngọn núi ảo ảnh (1999),
Miền gái đẹp (2001). Thơ: Những dấu chân qua thành phố(1976), Người hái phù dung
(1992)…
Tùy bút Ai đã đặt tên cho dịng sơng ? được tác giả viết tại Huế tháng 1 – 1981, in
trong tập kí cùng tên. Đoạn trích nằm ở phần đầu của thiên tùy bút này.
Đặc điểm của thể văn tùy bút là hết sức lãng mạn, bay bổng, ngẫu hứng, không tuân
theo một quy phạm chặt chẽ nào. Nhân vật chính của tùy bút là cái tơi của tác giả. Vì
thế, muốn hiểu bài văn, người đọc cần phải thấy được cái tơi của Hồng Phủ Ngọc
Tường. Đó là một cái tơi tài hoa với vốn văn hóa sâu rộng, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế,
say mê cái đẹp của cảnh vật và con người xứ Huế.
Bài kí miêu tả vẻ đẹp của sông Hương, mở rộng ra là xứ Huế đẹp đẽ và thơ mộng; ca
ngợi lịch sử vẻ vang, bề dày văn hóa của cố đơ Huế và chiểu sâu tâm hồn người Huế.
Thơng qua đó thể hiện lịng yêu nước, niềm tự hào của tác giả về non sống gấm vóc, về
những giá trị tinh thần thiêng liêng và cao quý của dân tộc.
Bố cục đoạn trích gồm ba phần:
Phần thứ nhất: Từ đầu đến… dưới chân núi Kim Phụng: vẻ đẹp của sông Hương ở
thượng nguồn.
Phần thứ hai: Tiếp theo đến… quê hương xứ sở: vẻ đẹp của sông Hương khi chảy qua
đồng bằng, ngoại vi và thành phố Huế rồi đổ ra biển.
Phần còn lại: vẻ đẹp của sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, với cuộc
đời và thi ca.
Phần thứ nhất giống như khúc nhạc dạo đầu của bản trường ca về quê hương đất nước
với những hình ảnh tuyệt đẹp để lại ấn tượng sâu đậm trong lịng người đọc. Tác giả so
sánh sơng Hương ở thượng nguồn như một bản trường ca của rừng già với tiết tấu
hùng tráng, dữ dội: khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh
Tác giả phát hiện ra vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn tựa cô gái Di-gan phóng
khống và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng… Khi về
đồng bằng, chính rừng già đá chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình.
Từ đó, sơng Hương nhanh chóng mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ
phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Nghệ thuật nhân hóa được sử dụng đắc địa và
khai thác tối đa đã mang lại cho sông Hương một linh hồn giống như con người.
Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành Huế mà không chú ý tìm
hiểu sơng Hương từ nguồn cội thì người ta khó mà hiểu hết được bản chất của sơng
Hương và vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dịng sơng mà chính nó đã khơng
muốn bộc lộ. Tác giả đã kín đáo ngụ ý rằng: muốn hiểu đầy đủ về một con người, một
miền đất, rộng ra là một đất nước, một dân tộc thì phải biết rõ về q khứ; nếu khơng thì
chẳng bao giờ hiểu đúng về hiện tại và xác định đước tương lai.
Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế thể hiện nét
lịch lãm, tài hoa trong lối hành văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Người đọc cảm nhận
được sức hấp dẫn kì lạ toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả dòng chảy sống động qua
những địa danh khác nhau của xứ Huế, gợi ra những liên tưởng kì thú: Phải nhiều thế kỉ
qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa
cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông
Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình
theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp
thành phố tương lai của nó… Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của
Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trân để sắc nước trở nên
xanh thẳm, và từ đó nó trơi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách…
Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương mềm như tấm lụa khi chảy qua Vọng Cảnh,
Phải là người con của Huế, gắn bó yêu thương máu thịt với Huế thì Hồng Phủ Ngọc
Tường mới viết được những câu văn đầy chất thơ và rưng rưng cảm xúc như vậy. Ở
đoạn này, hai bút pháp kể và tả kết hợp nhuần nhuyễn; sự phối hợp hài hòa giữa màu
sắc và âm thanh làm nổi bật vẻ đẹp của từng khúc sông Hương. Tác giả sử dụng khéo
léo, tài tình phép tu từ thường thấy trong thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn
dụ… khiến đoạn văn giống như bài thơ trữ tình làm xao xuyến lòng người.
nhỏ nhắn như nhũng vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương
uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến ; đường cong ấy làm cho dịng sơng
mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình u.
Sơng Hương giống sống Xen của Pa-ri, sống Đa-nuýp của Bu-đa-pét ở chỗ là đều chảy
qua giữa lòng thành phố. Tác giả quan sát và cảm nhận sơng Hương ở nhiều góc độ. Ở
đoạn này, tác giả miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ góc độ văn hóa. Bằng con mắt của
họa sĩ, tác giả thấy các nhánh của sông Hương tạo ra những đường nét uyển chuyển,
mềm mại, làm nên vẻ đạp cổ kính của cố đơ: Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh
Sông Đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây dừa cổ
thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè
trong đêm sương những ánh lữa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không
một thành phố hiện đại nào cịn nhìn thấy được.
Từ góc độ âm nhạc, tác giả cảm nhận sông Hương giống như điệu slow chậm rãi, sâu
lắng, trữ tình: Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng
Các chi tiết về phong tục, lễ hội qua cảm quan nhạy bén của tác giả cũng trở thành họa,
thành nhạc, thành tình, thành thơ. Những câu văn dài với nhịp điệu du dương, êm ái
làm cho tâm hồn người đọc tràn đầy cảm xúc bâng khng, xao xuyến. Với tác giả thì
sơng Hương là cội nguồn của dịng nhạc cung đình Huế, là cảm xúc của Nguyễn Du để
viết Truyện Kiều :
Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một
người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế
giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ
điển Huế đã được sinh thành trên mặt rước của dịng sơng này, trong một khoang
thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du đã
bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản
đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa
thế kĩ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như
tiếng suối mới sa nửa vời…". Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ
vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!".
Với cái nhìn đắm say của một nghệ sĩ, tác giả thấy sông Hương khi rời thành phố giống
như người tình dịu dàng và chung thủy. Điều này được diễn tả bằng một phát hiện thú
vị: …Rời khỏi kinh thành, sơng Hương chếch về hướng chính bắc, ơm lấy đảo cồn Hến
quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa
màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực
nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dịng, rẽ ngoặt sang hướng đơng tây để
gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ…
nhân hóa ẩn dụ nhưng tác giả đã sáng tạo ra những hình ảnh đầy ấn tượng, đậm đà nét
đẹp văn hóa xứ Huế.
Trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca
chiến trận ghi lại những vinh quang từ thuở còn là một dịng sơng biên thùy xa xơi của
đất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên là Linh Giang (dịng sơng thiêng) trong sách
Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Sơng Hương là dịng sơng viễn châu đã chiến đấu oanh liệt
bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt, Nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú
Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ vào thế kỉ mười tám ; nó sống hết lịch sử bi
tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa ; nó chứng kiến thời đại
mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rung chuyển đất trời
qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược cửa dân tộc ta.
Sông Hương là nhân chứng lịch sử chứng kiến mùa xuân Mậu Thân (1968), thời điểm
quân dân ta mở cuộc tổng tiến công vào sào huyệt Mĩ – ngụy và sông Hương cũng
chứng kiến tội ác hủy diệt của chúng đối với các di sản văn hóa, lịch sử trên đất Huế.
Sơng Hương của Hồng Phủ Ngọc Tường gắn bó với từng con người xứ Huế, là dịng
sơng của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Sông Hương
không chỉ là bản hùng ca tấu lên bao chiến cơng trong lịch sử, mà cịn là một nhân
chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của đất nước. Tuy nhiên, điều
làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dịng sơng là ở chỗ : Khi nghe lời gọi, nó
biết cách tự hiến đời mình cho một chiến cơng, để rồi nó trở về với cuộc đời bình
thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước.
Có lẽ chính điều đó đã làm cho sơng Hương khơng bao giờ tự lặp lại mình trong cảm
hứng của các nghệ sĩ. Sông Hương gắn với cuộc đời các nghệ sĩ và thi ca. Vẻ đẹp của
sông Hương hiện lên mn màu mn vẻ trong trí tưởng tượng phong phú của tác giả:
Có một dịng thi ca về sơng Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách cơng bằng về
nó khi nói rằng dịng sơng ấy khơng bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các
nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó : từ xanh biếc thường ngày, nó
bỗng thay màu thực bất ngờ, “dịng sơng trắng, lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của
Có thể nói nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn van là tình u say đắm
đối với dịng sơng được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu cảm xúc và trí tuệ,
tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí, văn chương cùng một
văn phong tao nhã và tinh tế.
Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dịng sơng, ném mẩu
thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng: Ai đã đặt tên
cho dịng sơng ?
Để rồi đến phần thứ ba của bài kí, tác giả lí giải tên dịng Hương Giang bằng huyền
thoại đầy chất thơ:
Người làng Thành Trung có nghề trồng rau thơm. Ở đây có một huyền thoại kể rằng, vì
u q con sơng xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm lồi
hoa đổ xuống dịng sống cho làn nước thơm tho mãi mãi.
Ai đã đặt tên cho dịng sơng ? Có lẽ huyền thoại trên đã giải đáp câu hỏi ấy chăng ?
Giai thoại đó khiến cho dịng sơng vốn đã nên thơ càng thêm thơ mộng : Hương là
hương thơm của ngàn hoa đổ xuống làm cho làn nước thơm tho mãi mãi. Thơm tự
ngàn năm, thơm đến ngày nay và mãi mãi về sau.
Cả bài kí tốt lên vẻ đẹp diệu kì của sơng Hương bởi trí tưởng tượng phong phú, bay
bổng đầy sáng tạo và ngịi bút tài hoa của tác giả. Hồng Phủ Ngọc Tường đã nhìn
sơng Hương như một cơ gái Huế, có lúc như là một cơ gái Di-gan phóng khống và man
Bài bút kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng ? giúp chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ,
nên họa, nên nhạc của cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế, đặc biệt là sông Hương ; thấy
được bề dày lịch sử, văn hóa của Huế và những nét duyên dáng riêng của tâm hồn con
người vùng đất cố đô này. Với một tâm hồn nghệ sĩ đa tình đa cảm, một vốn văn hóa
phong phú về Huế và trước hết với một tình cảm gắn bố thiết tha đối với Huế, tác giả đã
huy động triệt để mọi tiềm năng văn hóa cùng với vốn ngơn ngữ giàu có của mình để
diễn tả vẻ đẹp và chất thơ của Huế, thể hiện tập trung nhất ở dịng sơng Hương – một
biểu tượng sinh động của xứ Huế ngàn năm văn hiến.