Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Một số yêu cầu mới đối với chiến lược phát triển bền vững của doanh nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.31 KB, 14 trang )

MỘT SỐ YÊU CẦU MỚI ĐỐI VỚI CHIẾN ƢỢC
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
NCS. Nguyễn Mậu Hùng
Trường Đại học hoa học, Đại học Huế
T M TẮT
Bằng các phương pháp định tính và định lượng cũng như phương thức tiếp cận liên ngành và
chuyên ngành, bài viết chỉ ra rằng mặc dù hiện nay vẫn còn rất nhiều cách thức định nghĩa khác nhau
đối với khái niệm tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, nhưng cách hiểu được nhiều người chấp
nhận nhất là xem tăng trưởng xanh như một giải pháp để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Các
doanh nghiệp theo đuổi mơ mình tăng trưởng xanh và chiến lược phát triển bền vững không chỉ phải
thực hiện các phương thức sản xuất kinh doanh thân thiện với cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã
hội, mà cịn ít tổn hại đến các nguồn lực vốn có, trong khi tạo ra giá tối đa có thể cho các bên liên quan.
Xét trên phương diện này, hệ thống doanh nghiệp Việt Nam đang thiếu hẳn các đầu tàu dẫn dắt cả nền
kinh tế, trong khi năng suất lao động vẫn còn rất thấp, còn tiềm lực khoa học cơng nghệ cịn hết sức hạn
chế. Thực tế đó làm cho cơ hội triển khai thực hiện mơ hình tăng trưởng xanh và chiến lược phát triển
bền vững của doanh nghiệp Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn.
Từ khóa: yêu cầu mới, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, doanh nghiệp Việt Nam, cách
mạng công nghiệp 4.0
SOME NEW REQUIREMENTS FOR THE STRATEGY OF SUSTAINABLE
DEVELOPMENT OF VIETNAM’S ENTERPRISES
ABSTRACT
By qualitative and quantitative methods as well as interdisciplinary and specialized approaches,
the article shows that although there are still many different definitions for the concept of green growth
and sustainable development, the way of understanding that most people accept is to view green growth
as a solution to reach the goal of sustainable development. Enterprises pursuing green growth models
and sustainable development strategies must not only implement modes of business and production that
are friendly to both natural and social environments, but also cause minimal harm to inherent resources,
while they have to create maximum values for stakeholders. In this regard, Vietnam‟s business system is
in shortage of leading drivers for the whole economy, while labor productivity is still very low, and the
potential of science and technology is still very limited. This reality makes the opportunities for
implementing green growth model and sustainable development strategy of Vietnamese enterprises face


a number of difficulties.
Keywords: new requirements, green growth, sustainable development, Vietnamese enterprise,
Industrial Revolution 4.0
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sau thành công của các mơ hình tăng trưởng lấy tốc độ phát triển, lợi nhuận thu được và khả
năng tận dụng thời cơ làm trọng tâm trong nửa sau thế kỷ XX không lâu, nhân loại đã bắt đầu cảm
nhận được những hệ quả nghiêm trọng của tình trạng ơ nhiễm mơi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên
211


nhiên, biến đổi khí hậu, thiên tai khó lường thường xuyên, và dịch bệnh tràn lan do chiến lược khai
thác tận diệt để phục vụ cho các mục tiêu phát triển trước mắt. Trước tình hình đó, rất nhiều chun
gia và nhà chiến lược toàn cầu đã bắt đầu đưa ra các khuyến cáo và thúc giục các nhà chức trách
cần xem xét lại mơ hình tăng trưởng và chiến lược phát triển truyền thống của mình. Tăng trưởng
xanh và phát triển bền vững là những mơ hình kinh tế được nhiều chuyên gia khuyến nghị và chính
phủ nhiều nước đưa vào hành động thực tiễn bằng các chiến lược quốc gia cụ thể. Mặc dù vậy, tùy
theo đặc điểm tình hình nội tại của mình, mỗi quốc gia, nhà nước, địa phương, tổ chức kinh tế và
tập đoàn kinh doanh… đều có các phương thức tiếp cận khác nhau; chính vì vậy, cũng đồng thời
đưa ra các định nghĩa khơng hồn tồn giống nhau về mơ hình tăng trưởng xanh và phát triển bền
vững. Tuy nhiên, một trong những cách lý giải được nhiều người chấp nhận nhất cho rằng, tăng
trưởng xanh có nghĩa là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, trong khi đảm bảo rằng các tài
sản tự nhiên tiếp tục cung cấp các nguồn tài ngun và dịch vụ mơi trường chính yếu mà nếu thiếu
nó sự thịnh vượng của chúng ta sẽ khơng được đảm bảo hoàn toàn (OECD, 2011). Dựa trên nền
tảng chung này, ngay từ năm 2012 Chính phủ Việt Nam đã đưa ra chiến lược tăng trưởng xanh và
phát triển bền vững của riêng mình và hệ thống doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có những kế hoạch
hành động để hịa nhập vào dịng thác chung này bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau, nhưng
thách thức phía trước khơng phải là ít. Vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đáp ứng các tiêu
chí nào để có thể vận hành theo mơ hình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, khả năng đáp ứng
các tiêu chuẩn này của họ hiện nay ra sao, và trong thời gian tới các doanh nghiệp cần phải làm gì
để tăng trưởng xanh và phát triển bền vững trở thành nhân tố chủ đạo trong quá trình hoạt động của

hệ thống doanh nghiệp cũng như q trình hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân của Việt Nam? Vấn đề
này đã phần nào được các tác giả cả trong và ngoài nước bàn luận bằng nhiều hình thức và mức độ
khác nhau, nhưng khả năng đáp ứng của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam đến đâu trong bối cảnh
của cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 hiện nay thì chưa được giải quyết triệt để. Chính vì vậy, trên
cở sở sử dụng các phương pháp định tính và định lượng cũng như phương thức tiếp cận liên ngành
và chuyên ngành, bài viết giới thiệu một cách nhìn mới đối với mơ hình tăng trưởng xanh và phát
triển bền vững, phân tích các khả năng đáp ứng u cầu mơ hình phát triển này của hệ thống doanh
nghiệp Việt Nam, và đưa ra một số gợi ý mang tính chất tham khảo cho việc nâng cao hiệu quả phát
triển theo mơ hình tăng trưởng xanh của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
2. CƠ SỞ TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết được thực hiện dựa trên cơ sở phân tích các chương trình hành động theo mơ hình
tăng trưởng xanh và phát triển bền vững của Chính phủ Việt Nam năm 2012 trong so sánh với các
nước có điều kiện kinh tế xã hội tương đồng. Chính mơ hình tăng trưởng xanh và phát triển bền
vững quốc gia của Việt Nam được sử dụng làm cơ sở cho việc hình thành các tiêu chí cụ thể cho
chiến lược tăng trưởng xanh và phát triển bền vững của hệ thống doanh nghiệp. Các số liệu thống
kê về hệ thống doanh nghiệp Việt Nam khơng chỉ được cung cấp trong bản tin tình hình kinh tế-xã
hội hàng q của Chính phủ, mà cịn được công bố trong Bản tin Cập nhật thị trường lao động Việt
Nam của Tổng cục Thống kê. Chính các số liệu thống kê của các cơ quan chức năng từ trung ương
đến địa phương là cơ sở dữ liệu cho việc phân tích khả năng đáp ứng các tiêu chí của mơ hình tăng
trưởng xanh và phát triển bền vững của doanh nghiệp Việt Nam. Trên cơ sở đó, bài viết so sánh mơ
hình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững của doanh nghiệp Việt Nam với các nước láng giềng
có nhiều điều kiện phát triển tương đồng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, các
nguồn thơng tin do báo chí cung cấp trong thời gian gần đây cũng là một nguồn cứ liệu quan trọng
212


để có thể đưa ra các nhận định, phân tích, so sánh, và lập luận mang tính khoa học và có cơ sở thực
tiễn vững chắc. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu của các bên liên quan đã được công bố thời gian qua
cũng là một nguồn thông tin tham khảo quý giá góp phần làm cho các luận cứ đưa ra được kiểm
chức ở mức độ rộng lớn hơn. Điều đó có nghĩa là bên cạnh các phương pháp logic và lịch sử truyền

thống, bài viết sử dụng một hệ thống các phương pháp định tính và định lượng khác nhau để làm
sáng tỏ thực trạng của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình vận hành theo mơ hình tăng
trưởng xanh và phát triển bền vững. Trong khi phương pháp định tính đưa ra các nhận định dựa trên
cơ sở các kết luận khoa học đã được chứng minh cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tế, thì
phương pháp định lượng lại sử dụng các số liệu thống kê cụ thể mà các cơ quan chức năng đã cung
cấp cũng như báo chí đã cơng bố để xác định cụ thể mức độ tăng trưởng xanh và phát triền bền
vững của doanh nghiệp Việt Nam.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: MÔ H NH TĂNG TRƯỞNG XANH VÀ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
3.1. Một số yên cầu c bản đối với doanh nghiệp trong quá tr nh thực hiện chi n l ợc tăng
tr ởng xanh và phát triển bền vững
Mặc dù mỗi bên tham gia đều đưa ra một số mơ hình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững
khác nhau, nhưng nhìn tổng thể một khi đã nói đến tăng trưởng xanh và phát triển bền vững thì
khơng thể thiếu các tiêu chí cụ thể như sau:
Thứ nhất là mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Xét trên phương diện này, tăng
trưởng xanh được xem là một trong những công cụ trung tâm để thực hiện chiến lược phát triển bền
vững (Meessen, Croizer, và Verlé, 2015, 4). Điều đó có nghĩa là cái đích cuối cùng của các doanh
nghiệp khơng phải là tăng trưởng xanh, mà thay vào đó mơ hình tăng trưởng xanh chẳng qua cũng
chỉ là một biện pháp để đạt đến mục tiêu phát triển bền vững. Nếu triết lý cho đến tận cùng, phát
triển bền vững khơng có nghĩa là tồn tại đến mn đời, trong khi một doanh nghiệp chỉ hoạt động
trong vòng vài tháng không phải lúc nào cũng không phát triển bền vững. Chính vì vậy, phát triển
bền vững ở đây khơng phải là vấn đề thời lượng tồn tại và phát triển, mà chính là mơ hình tăng
trưởng và con đường phát triển. Khi nói đến mơ hình tăng trưởng và con đường phát triển, thì mơ
hình tăng trưởng xanh và con đường phát triển bền vững chính là phương thức hoạt động thân thiện
nhất đối với tất cả các bên liên quan. Điều đó có nghĩa là mục tiêu phát triển của họ không phải là
chỉ nhằm phục vụ cho các mục tiêu nội tại của bản thân mình mà để giải quyết các vấn đề cơ bản và
nhu cầu thiết yếu của xã hội. Ví dụ, phần lớn các doanh nghiệp ra đời trong cơ chế thị trường đều
nhắm tới mục tiêu đầu tiên là lợi nhuận cho chính mình. Nếu các doanh nghiệp này tuân thủ đầy đủ
các điều khoản của pháp luật và có những đóng góp nhất định cho phát triển xã hội, trong một
chừng mực nhất định nào đó có thể nói rằng, doanh nghiệp này đã được vận hành theo mơ hình tăng

trưởng xanh và phát triển bền vững bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Trong điều kiện
tương tự, nhưng tất cả các doanh nghiệp không tuân thủ các quy định của pháp luật và bất chấp tất
cả chỉ vì lợi luận của chính mình, thì khơng thể xem là được vận hành theo mơ hình tăng trưởng
xanh và phát triển bền vững tuyệt đối được. Tuy vậy, cần lưu ý thêm rằng cho dù các doanh nghiệp
tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật và có những đóng góp nhất định cho xã hội sở tại,
nhưng không hẳn lúc nào cũng là những mơ hình lý tưởng của tăng trưởng xanh và phát triển bền
vững, vì quan điểm tăng trưởng xanh và phát triển bền vững của mỗi nơi và mỗi thời kỳ một khác
nhau. Chính vì vậy, các doanh nghiệp được xem là vận hành theo mơ hình tăng trưởng xanh và phát
213


triển bền vững phải đặt mục tiêu phục vụ nhu cầu cộng đồng và giải quyết các vấn đề cấp thiết của
xã hội lên hàng đầu trong sự phương hại ít nhất đến các bên liên quan. Trong số này đặc biệt quan
trọng nhất là không được dùng các lợi thế mang tính đặc quyền để tư lợi cho riêng mình trước sự
thiệt hại của các bên liên quan khác mà phải ít tổn hại nhất có thể cho mơi trường xung quanh cũng
như các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các doanh nghiệp như thế khơng chỉ đặt lợi ích của mình
trong tổng thể lợi ích chung của cộng đồng, mà còn phải lấy việc sáng tạo ra giá trị cho xã hội thông
qua các biện pháp khoa học công nghệ thân thiện với môi trường lên hàng đầu.
Thứ hai là đối tượng phục vụ và thị trường hướng tới. Mỗi doanh nghiệp đều phải tự xác định
cho mình một phân khúc thị trường và đối tượng khách hàng chủ yếu để cung cấp sản phẩm và dịch
vụ. Nếu không xác định được vấn đề này một cách khoa học, khả năng giải quyết đầu ra của doanh
nghiệp sẽ rất có vấn đề. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp phải cung cấp dịch vụ cho các đối tượng thiếu
thân thiện với môi trường và chủ yếu nhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển thiếu bền vững, sản
phẩm của họ tạo ra khơng ít thì nhiều đều khơng đáp ứng các tiêu chí tăng trưởng xanh và phát triển
bền vững. Chính vì vậy, cho dù doanh nghiệp đã thực sự cố gắng để thực hiện chiến lược tăng
trưởng xanh và phát triển bền vững, nhưng đối tượng khách hàng và phân khúc thị trường mà họ
hướng đến không thể đảm bảo các yếu tố trên trong quá trình sử dụng các sản phẩm mà họ cung
cấp, thì nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và tổn hại đến các bên liên quan là rất hiển
hiện. Chính vì vậy, tăng trưởng xanh phải góp phần giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng để
phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững của toàn bộ khu vực sinh thái (Meessen, Croizer, và

Verlé, 2015, 4). Một hệ sinh thái phát triển bền vững ở đây là vô cùng cần thiết.
Ba là nguồn lực con người và phương thức phát triển. Tất cả mọi sản phẩm hàng hóa và dịch
vụ trên thế gian này đều do con người làm ra. Nếu nguồn lực con người chỉ có thể được sử dụng
cho việc khai thác tài nguyên thiên nhiên và tranh giành lợi ích với các đối thủ cạnh tranh, thì khả
năng tạo ra giá trị của doanh nghiệp mà không làm tổn hại đến môi trường tự nhiên và quyền lợi của
các bên liên quan là tương đối bó hẹp (John và Jeffrey, 1999). Ví dụ, mặc dù Việt Nam đã đạt được
rất nhiều thành tựu tăng trưởng đáng tự hào thời gian qua, nhưng hiện tượng tăng trưởng kinh tế
lịch sử này vẫn dựa chủ yếu vào việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo của
quốc gia và sự phát triển của các ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng (Meessen, Croizer,
và Verlé, 2015, 1). Chính vì vậy, một số nguồn tài ngun thiên nhiên vốn được xem là thế mạnh
của Việt Nam đang có dấu hiệu cạn kiệt dần. Ngược lại, nếu đội ngũ nguồn nhân lực của doanh
nghiệp có trình độ cao và khả năng sáng tạo dồi dào, việc phải dựa vào các điều kiện tài nguyên
thiên nhiên trong bối cảnh của nền kinh tế tri thức hiện nay không phải lúc nào cũng là yếu tố đóng
vai trị quyết định. Thay vào đó, năng lực sáng tạo ra các giá trị mới, giải pháp mới, thành tựu khoa
học công nghệ mới, và sản phẩm dịch vụ mới với chi phí thấp nhất có thể và ít ảnh hưởng đến mơi
trường xung quanh tối đa mới là phương thức phát triển bền vững và mơ hình tăng trưởng xanh
(Haksever, Chaganti, và Cook, 2004, 291-305) của hệ thống doanh nghiệp. Tăng trưởng xanh ở đây
không phải lúc nào cũng gắn liền với tài nguyên thiên nhiên và môi trường tự nhiên trực tiếp, mà
thân thiện với tất cả các yếu tố có liên quan của môi trường xung quanh.
Bốn là tài nguyên thiên nhiên và điều kiện sẵn có. Khơng có doanh nghiệp nào có thể tồn tại
và phát triển nếu khơng dựa vào một số điều kiện tài nguyên nhất định nào đó. Vấn đề chỉ nằm ở
chỗ đó là tài nguyên thiên nhiên có khả năng tái tạo hay tài ngun khơng có khả năng tái tạo mà
thơi. Tuy nhiên, tài ngun có khả năng tái tạo hay khơng tái tạo phụ thuộc phần lớn vào phương
214


thức sử dụng của con người. Phần lớn các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có trong tự nhiên đều
có quy luật phát triển của nó. Sau thời kỳ tái sản xuất, phần lớn các nguồn tài nguyên này đều sẽ
biến mất cùng thời gian. Chính vì vậy, nếu các doanh nghiệp tận dụng được nguồn lợi này mà
không làm tổn hại đến môi trường xung doanh cũng như hệ sinh thái tự nhiên là một điều nên được

khuyến khích. Ngược lại, nếu phát triển theo phương thức khai thác các nguồn lực tài nguyên thiên
nhiên thiếu hiệu quả, thì hậu quả tất yếu sẽ là chất lượng khơng khí ngày càng giảm sút, trong khi
mức độ ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng trong các khu vực đô thị và nguồn năng lượng dự
trữ của nền kinh tế đang cạn kiệt dần (Meessen, Croizer, và Verlé, 2015, 1). Trong bối cảnh của nền
kinh tế tri thức hiện nay, các doanh nghiệp khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo có ưu thế lớn
trong việc tận dụng các nguồn tài ngun sẵn có khơng chỉ thân thiện với mơi trường và ít tổn hại
đến điều kiện tự nhiên vốn có, mà cịn có khả năng tạo ra nhiều giá trị phát triển bền vững.
Năm là trình độ khoa học kỹ thuật và điều kiện công nghệ. Đây là một trong những yếu tố có
tính chất quyết định nhất đối với khả năng vận hành theo mơ hình tăng trưởng xanh và phát triển
bền vững của hệ thống doanh nghiệp. Nếu trình độ khoa học kỹ thuật và điều kiện công nghệ càng
cao, khả năng sử dụng các nguồn tài ngun thiên thiên vơ tận và có khả năng tái tạo của doanh
nghiệp càng lớn (Ahmed, 2004, 5-24). Điều đó có nghĩa là mức độ ảnh hưởng đến mơi trường xung
quanh của doanh nghiệp càng hạn chế. Ví dụ, nhu cầu năng lượng của Việt Nam hàng năm tăng hơn
10% (Meessen, Croizer, và Verlé, 2015, 2), nhưng nền sản xuất của Việt Nam chủ yếu vẫn dựa vào
các nguồn năng lượng quốc gia truyền thống không tái tạo và thiếu thân thiện với môi trường. Tất
cả các nguồn năng lượng thiếu thân thiện với môi trường như than đá, dầu mỏ, khí đốt… đều tiềm
ẩn nguy cơ cạn kiệt trong một khoảng thời gian nhất định. Chính vì vậy, phần lớn các nước công
nghiệp phát triển đã chuyển sang sử dụng mơ hình phát triển năng lượng sạch để thay thế cho các
nguồn năng lượng truyền thống. Tuy nhiên, đây không phải là một vấn đề đơn giản đối với các
nước đang phát triển (Sarre, Smith, và Morris, 1991). Điều đó có nghĩa là trình độ khoa học kỹ
thuật và điều kiện công nghệ ảnh hưởng không nhỏ đến cơ hội tăng trưởng xanh và phát triển bền
vững của các doanh nghiệp.
Tóm lại, có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với mơ hình tăng trưởng xanh và phát triển bền
vững, nhưng suy cho cùng mơ hình tăng trưởng xanh hiện nay một mặt bao gồm việc mở rộng các
cơ hội tăng trưởng kinh tế mới cho các lĩnh vực thân thiện với môi trường và mặt khác giảm thiểu
các nguy cơ tiềm ẩn cho tăng trưởng như các chi phí gián tiếp để quản lý ơ nhiễm mơi trường, suy
thoái sức khỏe, hoặc cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Nguyên tắc này bao gồm cả các giải pháp
giảm thiểu đến mức tối đa các nguy cơ gây thiệt hại của các khu vực kinh tế thiếu thân thiện với
cuộc sống con người. Để làm được điều này tăng trưởng xanh phải thúc đẩy đầu tư phát triển và đổi
mới sáng tạo, vì xu hướng này sẽ củng cố tăng trưởng bền vững và tạo ra nhiều cơ hội tăng trưởng

mới cho nền kinh tế (Meessen, Croizer, và Verlé, 2015, 4). Tuy nhiên, đây là một vấn đề hết sức
nan giải đối với các nước đang phát triển, vì ngồi một nền sản xuất phần lớn cịn lệ thuộc tương
đối nhiều vào các điều kiện tự nhiên, thì trình độ đội ngũ nguồn nhân lực, trình độ khoa học công
nghệ và điều kiện kỹ thuật, và hệ sinh thái tăng trưởng xanh chưa cho phép các nước này có thể
triển khai ngay được mơ hình tăng trưởng xanh và chiến lược phát triển bền vững trong thực tế
(Desai, 1997) một cách tồn diện. Mơ hình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững chính vì vậy
cũng thường mang tính địa vực quốc gia trong từng thời điểm lịch sử cụ thể mà Việt Nam là một ví
dụ điển hình.
215


3.2. Khả năng thực hiện chi n l ợc tăng tr ởng xanh và phát triển bền vững của doanh
nghiệp Việt Nam
Năm 2012, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia đầy tham
vọng với mục tiêu hạn chế cường độ tiêu thụ năng lượng hiệu ứng nhà kính của nền kinh tế đất
nước và hỗ trợ các lĩnh vực kinh tế xanh. Chiến lược này gồm ba mục tiêu cụ thể như sau: 1) giảm
thiểu đến mức tối đa tốc độ và cường độ chất thải làm ô nhiễm môi trường, đồng thời tăng cường sử
dụng các nguồn năng lượng sạch và tái tạo; 2) xanh hóa các q trình sản xuất bằng cách thực hiện
một chiến lược cơng nghiệp hóa sạch thơng qua việc xem xét và điều chỉnh tổng thể các ngành sản
xuất hiện có, khuyến khích phát triển các ngành sản xuất công-nông nghiệp xanh gắn liền với các
tiến bộ khoa học công nghệ và đổi mới trang thiết bị sản xuất, tăng cường đầu tư nguồn lực tự
nhiên, chủ động phịng ngừa và xử lý ơ nhiễm mơi trường một cách hiệu quả; 3) xây dựng lối sống
xanh và thúc đẩy tiêu dùng bền vững: các lối sống truyền thống phong phú và đẹp đẽ được kết hợp
với các phương tiện văn minh và hiện đại để nâng cao chất lượng cuộc sống và các tiêu chuẩn đời
sống dựa trên các truyền thống sẵn có. Thực hiện chiến lược đơ thị hóa nhanh chóng và bền vững
trong khi duy trì cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên ở các khu vực nông thôn và xây dựng các hành
vi tiêu dùng bền vững. Dựa trên mục tiêu chung này, các địa phương và doanh nghiệp được yêu cầu
xây dựng kế hoạch hành động để thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh tại đơn vị mình theo tính
đặc thù riêng của từng cơ sở (Meessen, Croizer, and Verlé, 2015, 1, 7). Tuy nhiên, xét một cách
tổng thể khả năng đáp ứng mô hình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững của doanh nghiệp Việt

Nam được thể hiện trên một số yếu tố cụ thể như sau:
Một là về số lượng và cấu trúc của doanh nghiệp theo mơ hình tăng trưởng xanh và phát triển
bền vững.Tính đến tháng 7/2019, Việt Nam có tổng cộng 714.000 doanh nghiệp đang hoạt động.
Trong số này, TP. Hồ Chí Minh có 228.267 doanh nghiệp, cịn Hà Nội có 143.119 doanh nghiệp.
Chỉ riêng hai trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước đang chiếm quá nửa tổng số doanh nghiệp tồn
quốc.Khu vực nhà nước có 2.486 doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh, khu
vực ngồi nhà nước có 541.753 doanh nghiệp, khu vực FDI có 16.178 doanh nghiệp. Khu vực
doanh nghiệp ngoài nhà nước thu hút 17,5 triệu tỷ đồng vốn (53%), khu vực doanh nghiệp nhà nước
thu hút 9,5 triệu tỷ đồng (28,8%), khu vực doanh nghiệp FDI thu hút khoảng 6 triệu tỷ đồng
(18,1%) (Bảo Ngọc, 2019). Mặc dù đã có những dấu hiệu tích cực trong 2-3 năm gần đây, nhưng
cho đến cuối năm 2018, Việt Nam mới có khoảng 17.000 doanh nghiệp lớn. Cùng lúc đó, Việt Nam
có khoảng 21.000 doanh nghiệp cỡ vừa, chiếm tỷ trọng 3,47% trên tổng số doanh nghiệp. Con số
này vẫn còn khá khiêm tốn so với cấu trúc của các nền kinh tế khác có khu vực doanh nghiệp phát
triển bền vững hơn, trong đó tỷ trọng các doanh nghiệp cỡ vừa thường chiếm từ 5% đến 10%. Điều
đó có nghĩa là Việt Nam đặc biệt thiếu các doanh nghiệp quy mô lớn và doanh nghiệp cỡ vừa. Chưa
dừng lại ở đó, mặc dù được xếp hạng là doanh nghiệp lớn, nhưng quy mơ trung bình của các doanh
nghiệp lớn trong khu vực tư nhân của Việt Nam cũng nhỏ bé hơn rất nhiều so với mức trung bình
của các nước trong khu vực. Ví dụ, năm 2018 quy mơ vốn hóa trung bình của các cơng ty niêm yết
trên thị trường chứng khốn của Việt Nam là 186 triệu USD/cơng ty, trong khi ở Philippines là 1,2
tỷ USD/công ty, ở Singapore là 1,07 tỷ USD/công ty, ở Thái Lan là 835 triệu USD/công ty, ở
Indonesia là 809 triệu USD/công ty, và ở Malaysia là 553 triệu USD/công ty vào tháng 4/2018. Mặc
dù số lượng doanh nghiệp đăng ký mới đang có xu hướng tăng lên đáng kể, nhưng tỷ lệ doanh
nghiệp lớn không tăng lên tương ứng (Minh Ngọc, 2019). Với quy mô và nguồn lực như thế, hệ
thống doanh nghiệp Việt Nam rất khó có điều kiện để có thể triển khai đầu tư các dự án chiến lược
216


lâu dài theo mơ hình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững cũng như có những tác động mạnh mẽ
đến cộng đồng.
Hai là về chất lượng của tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Năng lực khoa học cơng

nghệ của doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung hiện cịn rất hạn chế. Hệ thống máy móc thiết bị rất
lạc hậu, trong khi các doanh nghiệp chưa mạnh dạn đầu tư cho ứng dụng và phát triển khoa học
công nghệ, đặc biệt công nghệ lõi và công nghệ tiên phong. Trong vịng ba năm trở lại đây, chỉ có
khoảng 10% tổng số doanh nghiệp đã từng đăng ký hoặc đăng ký thành cơng một bằng sáng chế.
Điều đó có nghĩa là phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam khơng có bất cứ một phát minh sáng chế
nào và trong thực tế cũng khơng có ý định đầu tư phát triển khoa học cơng nghệ. Trung bình hàng
năm, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ đầu tư cho đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ chỉ
khoảng 0,2% -0,3% doanh thu, trong khi con số này ở Ấn Độ là 5%, còn ở Hàn Quốc là 10%. Khả
năng liên kết giữa hệ thống doanh nghiệp Việt Nam với các cơ sở nghiên cứu và trường đại học còn
rất giới hạn. Chỉ có khoảng 10,2% doanh nghiệp có đầu tư cho một số hoạt động nghiên cứu và phát
triển. Trong số này, có đến 55% các chi phí nghiên cứu được dành cho phát triển công nghệ mới
trong các thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động thay vì đầu tư cho các nghiên cứu tiên phong.
Hệ quả là khả năng liên kết và năng lực cạnh tranh xuất khẩu cũng như tham gia vào các chuỗi giá
trị khu vực và toàn cầu của doanh nghiệp Việt Nam tương đối thấp. Chính vì vậy, các cơng ty Nhật
Bản chỉ có thể mua sắm khoảng 32,4% các dịch vụ và sản phẩm đầu vào từ các nhà cung cấp trong
nước năm 2016, trong khi con số này ở Trung Quốc là 67,8%, Thái Lan là 57,1%, và Indonesia là
40,5%. Cùng lúc đó, chỉ khoảng 21% doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam đã tham gia vào
chuỗi giá trị toàn cầu và chỉ có 14% doanh nghiệp nhỏ và vừa đã thành cơng trong việc thiết lập các
mối liên hệ với doanh nghiệp nước ngoài. Năng suất lao động thấp và thiếu đội ngũ lao động có tay
nghề cao trong các doanh nghiệp được xem là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình
trạng thiếu vắng các mối liên kết chuỗi giá trị (Minh Ngọc, 2019) quốc tế của doanh nghiệp Việt
Nam. Chưa dừng lại ở đó, chính trình độ khoa học công nghệ hạn chế và khả năng đổi mới sáng tạo
chưa cao nên theo dự đoán đến năm 2030, lượng khí thải của doanh nghiệp Việt Nam sẽ đạt đến
mức trung bình của các nước cơng nghiệp phát triển năm 2012. Xét trên phương diện kinh tế vĩ mô,
Việt Nam dự kiến sẽ sớm trở thành nhà nhập khẩu ròng các nguồn năng lượng sơ cấp (Meessen,
Croizer, và Verlé, 2015, 1) trong tương lai gần. Hiện nay có khoảng 79% các khu công nghiệp đang
hoạt động đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung. Mặc dù tỷ lệ xây dựng hệ thống xử lý
nước thải tập trung tương đối cao, nhưng hiệu quả xử lý không cao, chưa đạt tiêu chuẩn mơi trường
Việt Nam, và tình trạng vi phạm các quy định về môi trường vẫn xảy ra thường xuyên (Rác thải
công nghiệp ở Việt Nam - Báo động về ơ nhiễm mơi trường, 2018). Chính tình trạng ơ nhiễm khơng

khí ngồi trời khiến gần 20 vạn người chết ở Đông Nam Á năm 2010, con số này ở Việt Nam là
khoảng 30.000 người với nhiều chi phí liên quan hết sức nặng nề (Meessen, Croizer, and Verlé,
2015, 3). Chất lượng của tăng trưởng xanh và phát triển bền vững của doanh nghiệp Việt Nam
chính vì thế vẫn cịn là một bài tốn rất nan giải.
Ba là về hiệu quả hoạt động. Tăng trưởng xanh và phát triển bền vững không chỉ yêu cầu các
doanh nghiệp phải hoạt động theo hướng hạn chế đến mức tối đa các tổn hại khơng đáng có với mơi
trường xung quanh, nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, và các bên liên quan, mà còn tạo ra giá trị tối
đa với chi phí đầu tư ít nhất và thu về lợi nhuận cao nhất với hao tổn ít nhất có thể. Xét trên phương
diện này, tổng lợi nhuận trước thuế của khu vực doanh nghiệp Việt Nam năm 2017 là 876,7 nghìn
tỷ đồng. Con số này tăng 23,1% so với năm 2016. Trong số này, khu vực doanh nghiệp nhà nước
217


chiếm 22,9%, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 33,3%, và khu vực doanh nghiệp FDI
chiếm 43,8%. Mặc dù thu hút ít vốn cho sản xuất kinh doanh nhất, nhưng khu vực doanh nghiệp
FDI tiếp tục dẫn đầu về lợi nhuận và theo sau là các doanh nghiệp ngoài nhà nước, cịn doanh
nghiệp nhà nước có tỷ lệ lợi nhuận thấp nhất. Điều đó có nghĩa là khu vực doanh nghiệp FDI đang
hoạt động hiệu quả nhất, nhưng các doanh nghiệp ngồi nhà nước cũng có những bước tiến nhất
định. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục hoạt động kém hiệu quả nhất trong so sánh
với hai khu vực doanh nghiệp còn lại (Bảo Ngọc, 2019). Trên phương diện từng cá nhân cụ thể,
năng suất lao động mỗi giờ làm việc của người Việt Nam năm 2015 chỉ đạt 4,4 USD, trong khi đó
Malaysia đạt 24,9 USD, Thái Lan đạt 12,1 USD, Indonesia đạt 12 USD, Philippines đạt 8,4 USD,
Singapore đạt 54,9 USD. Điều đó có nghĩa là năng suất lao động của người Việt Nam hiện nay vẫn
rất thấp so với các nước trong khu vực, trong khi khoảng cách chênh lệch tuyệt đối vẫn tiếp tục gia
tăng. Thực tế này cho thấy nền kinh tế Việt Nam sẽ đối mặt với rất nhiều thách thức trong thời gian
tới để vừa có thể bắt kịp năng suất lao động của các nước (Toàn cảnh “bức tranh” năng suất lao
động Việt Nam, 2019) trong khu vực vừa bảo đảm thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh và phát
triển bền vững.
Tóm lại, mặc dù vẫn cịn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng các nguyên tắc cốt lõi của tăng trưởng
xanh là đảm bảo rằng việc tăng trưởng kinh tế chủ yếu được thực hiện dựa trên cơ sở giảm thiểu đến

mức tối đa tổng số vốn chi cho đầu tư sản xuất kinh doanh, hạn chế tối thiểu các nguy cơ rủi ro đối
với môi trường, và tăng cường các cơ hội phát triển kinh tế mới. Trong thực tế, chương trình tăng
trưởng xanh của Việt Nam cũng đã thiết kế các hướng dẫn đầu tư xanh quốc gia và thành lập một tổ
chức tài trợ để hỗ trợ tài chính cho các dự án xanh và tiếp cận các nguồn tài chính hỗ trợ các dự án
phịng chống biến đổi khí hậu quốc tế. Mặc dù vậy, Việt Nam không phải là quốc gia đầu tiên triển
khai thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, nhưng lại là một trong những quốc gia Đông Nam Á đầu
tiên có chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia của riêng mình bên cạnh Campuchia và Indonesia,
nhưng tương đối muộn so với Hàn Quốc và Trung Quốc. Mặc dù vậy, chiến lược tăng trưởng xanh
của Việt Nam được đánh giá là rất tham vọng trong so sánh với các nước khác ở châu Á (Meessen,
Croizer, and Verlé, 2015, 4, 7, 8). Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn cịn rất nhiều khó khăn trên cả
phương diện số lượng và quy mô hoạt động để có đủ nguồn lực đầu tư cho khoa học công nghệ lẫn
chất vận hành thông qua các chỉ số khoa học công nghệ và thân thiện với môi trường cũng như hiệu
quả thực tế từ các chỉ số năng suất lao động và lợi nhuận mang về. Thực tế đó cho thấy rằng, mặc dù
Chính phủ Việt Nam đã đưa ra một chương trình hành động quốc gia nhằm thúc đẩy mơ hình tăng
trưởng xanh và phát triển bền vững từ năm 2012, nhưng khả năng triển khai trong thực tế và vận hành
một cách hiệu quả như mong muốn của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất hạn chế. Điều đó có
nghĩa là một hệ thống các giải pháp thiết thực cho thời gian tới là vô cùng cấp bách.
3.3. Một số đề xuất hàm ý chính sách
Trên cơ sở các kết quả phân tích nêu trên, bài viết đưa ra một số đề xuất có tính chất tham
khảo như sau:
Trước hết, muốn triển khai thực hiện mơ hình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, hệ
thống các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đặt ra mục tiêu trên hết, phương hướng chủ đạo, và
tôn chỉ mục đích tối thượng là đổi mới để sáng tạo ra càng nhiều giá trị cốt lõi cho thị trường càng
tốt. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp phải đặt mục tiêu cống hiến cho xã hội, sứ mệnh phụng
sự cộng đồng, và phương châm đáp ứng đến mức tối đa các nhu cầu cấp bách và thiết yếu của
218


người tiêu dùng lên hàng đầu. Xét trên phương diện này, hệ thống doanh nghiệp Việt Nam nói
riêng và châu Á nói chung đang sở hữu một số lợi thế nhất định. Được sinh ra và nuôi dưỡng bởi

môi trường văn hóa truyền thống Á Đơng - truyền thống vốn rất đề cao đức tính siêng năng và
cuộc sống thanh đạm, nên hệ thống các giá trị tạo ra bởi các doanh nghiệp chân chính thường dựa
trên cơ sở cơng sức lao động miệt mài và tinh thần cống hiến vô tư của người lao động hơn là chỉ
đơn thuần dựa trên cơ hội làm ăn và tư duy lợi thế. Nếu tận dụng cơ hội làm ăn tốt và tư duy lợi
thế được hiện thực hóa triệt để, doanh nghiệp có khả năng sẽ giàu rất nhanh, nhưng đối thủ cạnh
tranh cùng sẽ rất nhiều và một khi hết cơ hội cũng như lợi thế khơng cịn, khả năng bị đánh bại lại
rất lớn (Ranjith, 2016, 203-207). Trong khi đó, truyền thống văn hóa siêng năng và cần cù của
người lao động Á Đơng có thể mang lại cho doanh nghiệp Việt Nam nhiều lợi thế quan trọng về ý
thức hệ trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế cũng như phương thức sản xuất sang mơ hình tăng
trưởng xanh và góp phần hình thành nên một mơ hình tiêu dùng ở mức độ vừa phải và không bị
Tây phương hóa q mức để thích ứng với các nguồn lực và điều kiện mơi trường riêng có của
chính mình cũng như các tiêu chí tiết kiệm năng lượng và giảm thiểu khí thải ra mơi trường đến
mức tối đa có thể. Về khía cạnh này, mặc dù tỷ lệ tiêu dùng bình qn đầu người của Việt Nam
nói riêng và nhiều nước đang phát triển ở châu Á nói chung hiện còn tương đối hạn chế, nhưng
nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống đang tăng lên từng ngày, trong khi trình độ tiêu dùng và
nhu cầu nội địa đang được mở rộng đáng kể và chủ nghĩa tiêu dùng theo kiểu phương Tây đang
ngày càng trở nên phổ biến. Thực tế này chắc chắn sẽ dẫn đến những xung đột tất yếu giữa các
khái niệm tiêu dùng khác nhau ở châu Á-Thái Bình Dương. Chính vì vậy, việc thiết lập một mơ
hình tăng trưởng xanh hiện đại và con đường phát triển bền vững chiến lược ngay từ đầu đóng
một vai trị vơ cùng quan trọng đối với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thân thiện với môi
trường của các doanh nghiệp Việt Nam (Meessen, Croizer và Verlé, 2015, 5). Tăng trưởng xanh
và phát triển bền vững theo quan niệm này chính vì vậy khơng chỉ dừng lại ở mục tiêu thu lại tối
đa chi ra tối thiểu và tạo ra giá trị cực đại nhưng tổn hại xung quanh cực tiểu, mà còn phải được
mở rộng các tiêu chuẩn cứng của khái niệm tăng trưởng xanh để thấy được rằng chính các yếu tố
văn hóa nền tảng mang tính bản sắc cũng là một bộ phận cấu thành vô cùng thiết yếu cho hệ sinh
thái tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Thứ hai, tăng trưởng xanh phải gắn liền với mục tiêu phục vụ nhu cầu phát triển bền vững
của xã hội loài người làm trọng tâm. Suy cho cùng, tất cả mọi hoạt động kinh tế đều nhằm mục
tiêu tạo ra giá trị để ni sống xã hội lồi người và đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng và
phong phú của con người. Tuy nhiên, khác với các phương thức hoạt động kinh tế dựa hẳn vào

điều kiện tự nhiên trong thời kỳ săn bắt, săn bắn, và hái lượm thời nguyên thủy cũng như phương
thức khai thác tài nguyên thiên nhiên theo kiểu tận diệt để cố tình chứng minh sức mạnh vượt trội
của con người với tự nhiên, ngày nay các xã hội hậu hiện đại đang hướng đến mục tiêu phát triển
bền vững trong mối liên hệ mật thiết và hài hịa tối đa với mơi trường thiên nhiên (Klarin, 2018,
67-94). Tuy nhiên, do việc khai thác tận diệt tài nguyên thiên nhiên và nhằm đáp ứng nhiều nhu
cầu phát triển tiển cận của con người, nhiều khu vực trên thế giới đang phải đối mặt với không ít
thách thức trong quá trình thực hiện các mục tiêu tăng trưởng xanh. Xét trên phương diện này, các
doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và các quốc gia Đơng Nam Á khác nói chung là một trong
những đối tượng đang phải ghánh chịu tác hại tiêu cực nhất của tình trạng biến đổi khí hậu, ơ
nhiễm mơi trường và cạnkiệt tài nguyên thiên thiên. Việc mực nước biển không ngừng dâng cao
trong những năm gần đây và tình trạng hạn hán kéo dài cũng như nhiễm mặn liên tục đã ảnh
219


hưởng không nhỏ đến các hoạt động sản xuất của khối doanh nghiệp ở các khu vực kinh tế ven
biển, trong khi các hiện tượng khí tượng cực đoan đang đe dọa nghiêm trọng cuộc sống bấp bênh
của khơng ít người nghèo (Meessen, Croizer và Verlé, 2015, 3). Cùng lúc đó, theo các quy luật
phát triển thơng thường của kinh tế thị trường, nếu giảm chi phí đầu tư cho sản xuất kinh doanh
thì cũng thường dẫn đến giảm tỷ lệ lợi nhuận thu được, trong khi xét trên phương diện tăng
trưởng xanh tổng số vốn đầu tư cho chi phí sức khỏe của xã hội thường khó có thể được ước
lượng hết trong so sánh với tỷ lệ lợi nhuận thu được của doanh nghiệp. Tăng trưởng xanh chính vì
vậy khơng chỉ phải hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống và kiến tạo cơ hội vươn
lên của những người thiệt thòi và yếu thế, mà còn góp phần tăng cường sức khỏe cộng đồng
(Greifinger, 2007) và xây dựng xã hội lành mạnh dựa trên cơ sở một tỷ lệ lợi nhuận hợp lý trong
mối quan hệ với tương lai lâu dài và ổn định của toàn xã hội.
Thứ ba, một trong những tiêu chí quan trọng nhất của tăng trưởng xanh và phát triển bền vững
là phải thân thiện với môi trường. Tăng trưởng xanh và phát triển bền vững không thể tách rời với
việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên và tác động trực tiếp đến mơi trường xã hội của lồi
người. Phần lớn các nền kinh tế đang phát triển trên thế giới hiện nay đều dựa chủ yếu vào việc khai
thác tài nguyên thiên nhiên sẵn có và sức lao động số đông của con người. Mặc dù việc đổi tốc độ

phát triển với bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và an tồn xã hội đã được chính phủ nhiều nước chú
trọng hơn trong thời gian gần đây, nhưng không phải lúc nào các chính sách tăng trưởng xanh của
chính quyền cũng có thể phát huy tác dụng như mong đợi trong thực tế (Meessen, Croizer và Verlé,
2015, 5-6). Chính vì vậy, ngoài việc điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng lấy phát triển bền vững làm
trọng tâm, các cơ quan chức năng cần có hệ thống các giải pháp để buộc các doanh nghiệp phải lựa
chọn mơ hình tăng trưởng xanh làm phương châm hoạt động của mình hơn là chỉ dựa vào khai thác
tài nguyên thiên nhiên và tận dụng lợi thế của các mối quan hệ thiếu công khai và minh bạch để trục
lợi trên xương máu, mồ hôi, cơng sức, thiệt hại và lợi ích của người khác (Le Hong Hiep, 2029, 17). Nếu không thực hiện tốt mục tiêu thân thiện với mơi trường trong q trình hoạt động của các
doanh nghiệp, trong tương lai không xa chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam có nguy cơ
phải đối mặt với các thách thức kinh tế, xã hội và môi trường hết sức nghiêm trọng (Meessen,
Croizer, và Verlé, 2015, 1). Thực tế cho thấy rằng có một số nguồn tài nguyên thiên nhiên cho dù
không được khai thác thì cuối cùng nó cũng sẽ bị biến mất cùng thời gian. Chính vì vậy, thay vì để
cho các nguồn tài nguyên này tự tiêu hủy cùng quá trình biến đổi tất yếu của tự nhiên, con người có
thể khai thác để phục vụ cho cuộc sống hiện tại của chính mình bằng nhiều hình thức và mức độ
khác nhau. Tuy nhiên, khai thác một cách có hiệu quả và hạn chế đến mức tối đa các ảnh hưởng
khơng cần thiết đối với mơi trường xung quanh chính là một trong những phương thức thực hiện
mơ hình tăng trưởng xanh và chiến lược phát triển bền vững của các doanh nghiệp (Abolhosseini,
Heshmati, Altmann, 2014, 3-35). Mặc dù vậy, thân thiện với mơi trường ở đây khơng chỉ có các yếu
tố tự nhiên, mà còn phải thân thiện với cuộc sống con người và các di tích lịch sử cũng như di sản
văn hóa của cộng đồng.
Thứ tư, muốn có mơ hình tăng trưởng xanh và chiến lược phát triển bền vững bắt buộc
phải có hệ sinh thái tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Một hệ sinh thái thân thiện với mơ
hình tăng trưởng xanh và chiến lược phát triển bền vững phải hội tụ được ít nhất các tiêu chí cơ
bản như sau: 1) một hệ thống chính quyền trong sạch và hiệu quả cao; 2) một truyền thống văn
hóa khơng chỉ nhấn mạnh yếu tố chăm chỉ và nguyên sơ, mà còn là sự hòa hợp giữa con người
và thiên nhiên; 3) một thị trường tiêu dùng xanh tiềm năng và triển vọng cũng như cơ địa phát
220


triển dồi dào cho đổi mới sáng tạo; 4) một tiềm năng to lớn cho thủy điện, năng lượng mặt trời,

năng lượng gió, và năng lượng sinh học. Để xây dựng và duy trì được hệ sinh thái xanh và chiến
lược phát triển bền vững, giới lãnh đạo chính trị phải thực hiện vai trị chìa khóa của mình để
đưa các chính sách và thể chế vào thực tiễn cuộc sống (Meessen, Croizer, và Verlé, 2015, 3, 5).
Trong trường hợp này, hệ sinh thái xanh chính là mơi trường ni dưỡng và ươm mầm cho mơ
hình tăng trưởng xanh và công cụ để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của cộng đồng.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hệ sinh thái xanh không chỉ đơn thuần bao gồm các yếu tố tự nhiên,
mà tổng thể của tất cả những gì có liên quan đến q trình hình thành, phát triển và hoạt động
của doanh nghiệp nói riêng và xã hội lồi người nói chung (Venn, S. J. và Niemelä, 2004, 479489). Xét trên phương diện này, nếu các doanh nghiệp có thực hiện các chính sách thân thiện
với môi trường tự nhiên đến bao nhiêu đi chăng nữa, nhưng hệ thống thể chế thiếu minh bạch và
môi trường kinh doanh thiếu lành mạnh, thì rất khó cho các doanh nghiệp có thể triển khai thực
hiện mơ hình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Hệ sinh thái tăng trưởng xanh phải bao
gồm tất cả các yếu tố tối cần thiết cho việc triển khai thực hiện chiến lược phát triển bền vững
của doanh nghiệp.
Thứ năm, không thể nào có bất cứ mơ hình tăng trưởng xanh và chiến lược phát triển bền
vững nào có thể được triển khai thực hiện thành công nếu thiếu một đôi ngũ nguồn nhân lực trình
độ cao và một nền khoa học cơng nghệ hiện đại. Tính đến cuối năm 2019, chất lượng đội ngũ
nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn còn rất hạn chế với tỷ lệ lao động đã được đào tạo và có bằng
cấp chứng chỉ chỉ đạt 23,1%. Người lao động làm việc trong các ngành nghề đòi hỏi trình độ kỹ
năng cao chỉ chiếm khoảng 11% trong tổng số lực lượng lao động trình độ cao, trong khi tỷ lệ lao
động phổ thông và lao động giản đơn chiếm tỷ lệ rất lớn (G.Nam, 2019). Tuy nhiên, đội ngũ
nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam còn rất thiếu và yếu so với nhu cầu phát triển xã
hội. Đội ngũ trí thức của Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung ở các trường đại học, học viện,
viện và trung tâm nghiên cứu, bệnh viện, Số lượng và chất lượng các hoạt động nghiên cứu, sáng
tạo, ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển thực tế của nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội của người dân. Chính vì vậy, tác động
của khoa học công nghệ đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước chưa được như mong đợi. Vai
trị của trí thức cịn bị hạn chế ngay trong lĩnh vực phát triển khoa học và cơng nghệ. Đó chính là
một trong những nguyên nhân chính khiến cho các nghiên cứu sáng tạo và phát triển các sản
phẩm văn hóa chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển của đất nước. Số lượng và chất lượng các
cơng trình nghiên cứu và sáng tạo văn hóa cịn khiêm tốn và chưa có những sản phẩm sáng tạo

văn hóa xứng tầm (Lương Đình Hải, 2018). Trước tình hình đó, cải tiến các cơ chế hoạt động
khoa học công nghệ và các công cụ thị trường được xem là một trong những giải pháp có thể góp
phần giải quyết các vấn đề trình độ kỹ thuật và chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam trong
thời gian tới. Chiến lược này buộc các cơ quan chức năng phải mạnh dạn giảm dần và tiến tới cắt
bỏ các khoản trợ cấp ưu đãi quá đáng cho việc sản xuất và tiêu thụ các nguồn nhiên liệu hóa thạch
thiếu thân thiện với mơi trường cũng như phát triển các dự án và chương trình trọng điểm nhằm
thu hút nguồn lực đầu đầu tư cho các nguồn năng lượng hiệu quả và bền vững (Meessen, Croizer,
và Verlé, 2015, 3).
Tóm lại, đi đơi với tăng trưởng xanh là nền kinh tế xanh (Georgeson, Maslin và Poessinouw,
2017, 1-23) với các điểm nhấn là nhu cầu phát triển liên kết và hòa nhập xã hội. Trong thực tế, kinh
tế xanh chính là một trong những nền tảng quan trọng nhất để cải thiện chất lượng cuộc sống và
221


tăng cường công bằng xã hội cho những người thiệt thòi và yếu thế đồng thời giảm thiểu đến mức
tối đa các nguy cơ tiềm ẩn của môi trường sinh thái và tình trạng khan hiếm tài nguyên thiên nhiên
đối với các doanh nghiệp trong tương lai. Tăng trưởng xanh vì thế khơng thể thiếu các tiến bộ xã
hội song hành như tạo ra thêm nhiều công ăn việc làm và góp phần xóa đói giảm nghèo đồng loạt
cho người dân (Meessen, Croizer, và Verlé, 2015, 4). Chính vì vậy, bên cạnh việc tạo ra một hệ sinh
thái tăng trưởng xanh và phát triển bền vững cho các doanh nghiệp có điều kiện sinh sơi, nảy nở, và
phát triển, thì thân thiện với môi trường và lấy mục tiêu phát triển bền vững của con người làm
trọng tâm ưu tiên cũng là những giải pháp được xem như đầu tư cho tương lai lâu dài của đất nước.
Tuy nhiên, phát triển một đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao và một nền khoa học công nghệ
hiện đại cũng như một nền giáo dục quốc dân đủ sức xanh hóa mơ hình phát triển của đất nước mới
thực sự là các giải pháp bền lâu về sau.
4. KẾT LUẬN
Mặc dù vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng các nguyên tắc cốt lõi của tăng trưởng xanh
là đảm bảo rằng việc tăng trưởng kinh tế chủ yếu được thực hiện dựa trên cơ sở giảm thiểu đến
mức tối đa tổng số vốn chi cho đầu tư sản xuất kinh doanh, hạn chế tối thiểu các nguy cơ rủi ro
đối với môi trường, và tăng cường các cơ hội phát triển kinh tế mới.Trong thực tế chương trình

tăng trưởng xanh của Việt Nam cũng đã thiết kế các hướng dẫn đầu tư xanh quốc gia và thành lập
một tổ chức tài trợ để hỗ trợ tài chính cho các dự án xanh và tiếp cận các nguồn tài chính dành
cho các dự án phịng chống biến đổi khí hậu quốc tế. Mặc dù vậy, Việt Nam không phải là quốc
gia đầu tiên triển khai thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, nhưng lại là một trong những quốc
gia Đông Nam Á đầu tiên có chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia của riêng mình bên cạnh
Campuchia và Indonesia, nhưng tương đối muộn so với Hàn Quốc và Trung Quốc. Tuy nhiên,
chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam được đánh giá là rất tham vọng trong so sánh với các
nước khác ở châu Á (Meessen, Croizer, và Verlé, 2015, 4, 7, 8). Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn
cịn rất nhiều khó khăn trên cả phương diện số lượng và quy mô hoạt động để có đủ nguồn lực
đầu tư cho khoa học công nghệ lẫn chất lượng vận hành thông qua các chỉ số khoa học công nghệ
và mức độ thân thiện với môi trường cũng như hiệu quả thực tế từ các chỉ số năng suất lao động
và lợi nhuận mang lại. Thực tế đó cho thấy rằng cho dù Chính phủ Việt Nam đã đưa ra một
chương trình hành động quốc gia nhằm thúc đẩy mơ hình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững
từ năm 2012, nhưng khả năng triển khai trong thực tế và vận hành một cách hiệu quả như mong
muốn của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất hạn chế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Abolhosseini, S., Heshmati, A., Altmann, J. (2014), A Review of Renewable Energy Supply and
Energy Efficiency Technologies, Discussion Paper No. 8145, Institute for the Study of Labor,
Bonn, pp.3-35.

2.

Ahmed, A. (2004), Science, technology and sustainable development: a world review, World
Review of Science, Technology and Sustainable Development, Vol. 1, No. 1, pp. 5-24.

3.

Bảo Ngọc (2019), Công bố Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam 2019: cứ 1.000 dân có 14,7

doanh nghiệp, trong: cập ngày 16/03/2020).

222


4.

Desai, P. N. (1997), Science, Technology and International Cooperation, Har-Anand, New Delhi.

5.

G.Nam (2019), Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chỉ đạt 23,1%, trong:
(truy cập ngày 16/03/2020).

6.

Georgeson, L., Maslin. M., and Poessinouw, M. (2017), The global green economy: a review
of concepts, definitions, measurement methodologies and their interactions, Geography and
Environment, 4 (1), e00036, pp.1-23.

7.

Greifinger, R. B. (ed., 2007), Public Health Behind Bars - From Prisons to Communities,
Springer, New York.

8.

Haksever, C., Chaganti, R., and Cook, R. G. (2004), A Model of Value Creation: Strategic
View, Journal of Business Ethics, 49, pp.291-305.


9.

John, B. and Jeffrey, G. (1999), Human Resource Management Theory and practice, second
edition, Macmillan Press LTD, New York.

10. Klarin, T. (2018), The Concept of Sustainable Development: From its Beginning to the
Contemporary Issues, Zagreb International Review of Economics and Business, Vol. 21, No. 1,
pp. 67-94.
11. Le Hong Hiep (2029), The Impact of Vietnam‟s Anti-corruption Campaign on the Real Estate
Sector, ISEAS Perspective, Yusof Ishak Institute, ISSUE: 2019 No. 46, pp.1-7, retrieved from:
on 16th March 2020).
12. Lương Đình Hải (2018), Phát huy vai trị của trí thức, bộ phận quan trọng của ngu n nhân lực
chất
lượng
cao

nước
ta
trong
giai
đoạn
hiện
nay,
trong:
/>(truy cập ngày 16/03/2020).
13. Meessen, J., Croizer, C., and Verlé, P. (2015), The Viet Nam Green Growth Strategy: A review
of specificities, indicators and research perspectives, Conference Paper, Viet Nam Green
Growth Strategy Facility.
14. Minh Ngọc (2019), Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đang đứng trước những thách thức
quan trọng, trong: cập ngày 16/03/2020).

15. OECD (2011), Green growth and sustainable development, trong:
(truy cập ngày 15/03/2020).
16. Rác thải công nghiệp ở Việt Nam - Báo động về ô nhiễm môi trường (2018), trong:
(truy cập ngày 16/03/2020).
17. Ranjith, V. K. (2016), Business Models and Competitive Advantage,
FifthInternationalConferenceonMarketingandRetailing(5thIncomar, 2015), Procedia
Economics and Finance, 37, pp.203-207.
223


18. Sarre, P., Smith, P., and Morris, E. (1991), One World for one Earth: Saving the Environment,
Earthscan Publications Ltd, London.
19. Toàn cảnh “bức tranh” năng suất lao động Việt Nam (2019), trong:
(truy cập ngày 16/03/2020).
20. Venn, S. J. and Niemelä, J. K. (2004), Ecology in a multidisciplinary study of urban green
space: the URGE project, BorealEnvironmentResearch9, pp.479-489.

224



×