Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu Cung ứng hàng hoá trong thời đại Internet (phần 2) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.12 KB, 8 trang )

Cung ứng hàng hoá trong thời đại Internet (phần 2)
Đằng sau sự thành công của các công ty là một chuỗi cung ứng thành công.
Thậm chí những người có sự am hiểu về hậu cần hiện nay là những người đang
điều hành doanh nghiệp. Lee Scott, giám đốc điều hành của Wal-Mart, là người đi
lên từ bộ phận vận tải và hậu cần của công ty. Và tại Toyota, người lĩnh tiên
phong của phương pháp sản xuất gọn nhẹ, Katsuaki Watanabe, đã trở thành chủ
tịch của hãng xe Nhật Bản này vào năm ngoái với danh tiếng là người đã cắt giảm
khoảng 10 tỷ chi phí cho chuỗi cung ứng của Toyota.



Tuy nhiên việc mua rẻ hơn từ các nhà cung cấp không phải là cách duy nhất để
đạt được việc cắt giảm chi phí. Một công việc hấp dẫn khác đó là cắt giảm hàng tồn
kho. Lý do chủ yếu cho việc lưu giữ hàng tồn kho là làm thông suốt các “máy bơm” cho
chuỗi cung ứng. Hau Lee, giáo sư về hoạt động, thông tin và công nghệ tại đại học
Stanford, đã chỉ ra một trong những nguyên nhân lớn nhất gây ra sự không hiệu
quả trong hoạt động hậu cần. Lee gọi đây là “hiệu ứng roi da”, khi một chiếc roi
da được quất lên, biên độ dao động của đầu roi tăng dần theo chiều dài của chiêc
roi.

Procter & Gamble (P&G), người khổng lồ hàng tiêu dùng, đã phát hiện ra hiệu
ứng này cách đây một thập kỷ. Công ty này đã phát hiện thấy một hiện tượng kỳ lạ
xảy đến với Pampers, sản phẩm tã trẻ em dùng một lần nổi tiếng của công ty: bất chấp
việc số lượng em bé và nhu cầu cho tã khá ổn định, đơn đặt hàng cho sản phẩm
Pampers vẫn dao động rất mạnh. Điều này xảy ra là do thông tin về nhu cầu sản phẩm
bị bóp méo tăng dần khi nó được truyền đi trong chuỗi cung ứng. Đơn cử một ví dụ,
một nhà bán lẻ có thể nhận thấy mức tăng nhẹ trong nhu cầu tã, do đó nhà bán lẻ này
đã tăng số lượng đặt hàng đối với một nhà bán buôn. Nhà bán buôn sau đó sẽ tăng
doanh số ước tính của mình lên, làm cho nhà sản xuất phải tăng số lượng sản xuất ra.
Tuy nhiên nhu cầu tăng lên hóa ra chỉ là không đang kể, và thế là chuỗi cung ứng bị
thừa hàng tồn kho và đơn đặt hàng lại bị cắt giảm.



Một dòng thông tin đáng tin cậy hơn có thể làm giảm bớt những biến động kiểu này.
Một trong những biện pháp đó là sáp nhập chuỗi cung ứng, như P&G đã làm đối với
Wal-Mart, với các nhà bán lẻ lớn. ý tưởng này là nhằm sắp xếp mọi thứ để đảm bảo
thông tin bán hàng từ quầy hàng bán lẻ sẽ tự động điều chỉnh số lượng hàng tồn kho
cần thiết để lưu giữ.

Đối với một công ty như Wal-Mart, với 60.000 nhà cung ứng chỉ riêng tại Mỹ, việc đảm
bảo thông tin cho tất cả mọi người có ý nghĩa sống còn. Công ty đã thực hiện điều này
thông qua hệ thống Retail Link, cho phép các nhà cung ứng liên kết vào mạng nhờ
kết nối internet bảo mật. Các nhà cung ứng có thể kiểm tra mức độ hàng tồn kho
và doanh số cho từng quầy hàng đơn lẻ. Có thể Wal-Mart nổi tiếng về sự cắt giảm
chi phí một cách thô bạo, nhưng việc công ty này đầu tư vào hệ thống thôn tin như vậy
đã góp phần rất lớn vào việc xây dựng nên một chuỗi cung ứng hiệu quả hàng đầu thế
giới, có khả năng xử lý hơn 300 tỷ đôla doanh số mỗi năm.

Theo như lời của Martin Christopher, giám đốc Trung tâm hậu cần và quản lý chuỗi
cung ứng tại Trường quản lý kinh doanh Cranfield của Anh, thì có một mối liên hệ trực
tiếp giữa hàng tồn kho và thông tin. Một công ty càng có nhiều thông tin về các nhà
cung ứng và khách hàng của mình, thì công ty đó càng có nhiều năng lực hoạch định
chính sách. Việc hiểu rõ hơn từng mắt xích trong chuỗi cung ứng cũng có thể làm tăng
hiệu quả và giảm bớt rủi ro. Điều này sẽ đem lại mức độ hợp tác cao hơn, theo như lời
của Patrick Ducasse, giám đốc toàn cầu về hành vi tiêu dùng của Tập đoàn tư vấn
Boston. Cũng theo ông Christopher, trong tương lai sẽ là các chuỗi cung ứng cạnh
tranh với nhau chứ không phải là các công ty đơn lẻ cạnh tranh với nhau.

Các thành viên trong một chuỗi cung ứng luôn hợp tác với nhau thông qua mạng
internet. Bản thân bạn có thể biết làm cách nào để gửi một sản phẩm, ví dụ từ
Bangladesh đến Barbados, tuy nhiên công việc này có thể để cho một công ty giao
nhận hoặc một công ty chuyển phát nhanh thực hiện. Ngày càng nhiều những dịch vụ

kiểu như thế được cung cấp trực tuyến. Các công ty như INTTRA hay GT NEXUS của
Mỹ, hiện nay cung cấp hai nền tảng web chuyên nghiệp có khả năng thực hiện rất
nhiều công việc của các giám độc hậu cần sử dụng phương pháp vận tải bằng đường
biển. Internet chính là môi trường lý tưởng cho mục đích này, theo như nhận định của
Greg Johnsen thuộc GT NEXUS: “nó mang tính toàn cầu, nó luôn được bật lên và bạn
có thể sử dụng nó từ bất kỳ đâu.” Dịch vụ của công ty này, hiện đang cung cấp theo
yêu cầu phần mềm hậu cần có thể kết nối vào các ứng dụng office đang được sử dụng
rộng rãi, hiện nay có hơn 40,000 người dùng thường xuyên.

Các giám đốc hậu cần chuyển hàng hóa của mình thông qua một hệ thống trục-và-nan
hoa biểu thị cho những người tham gia bằng internet, có điều ở đây tất cả đều vô hình.
nếu bạn nhìn vào những điểm giao dịch internet lớn nằm rải rác trên thế giới, bạn có
thể thấy rất nhiều nguồn thông tin, tất cả đề được đề địa chỉ, có thể đọc được, có thể tái
liên kết và luân chuyển trên đường đi, mà trục vận chuyển hàng hóa vật thể giữa
Louisville và Memphis là biểu thị tương đương. Và khi mà các hệ thống máy tính đang
trở nên nhanh hơn và hiệu quả hơn, hàng hóa luân chuyển trong thế giới vật thể cũng
đang được luân chuyển giống như vậy.

Mối phức tạp của sản xuất

Khi mà sự phân biệt giữa quyền sở hữu và điều khiển đang trở nên nhạt nhòa, các
chuỗi cung ứng ngày các xoắn kết hơn

Tại Cisco Systems, bất kỳ khi
nào có một sản phẩm hay linh
kiện nào thất bại khi kiểm tra, dù
điều này xảy ra ở đâu trên thế
giới đối với bất kỳ nhà máy nào,
công ty này đều nắm rõ. Điều
này có được nhà nhờ công ty

sản xuất thiết bị mạng lớn nhất
thế giới để tăng sức mạnh cho
internet dã kết nối tất cả máy
móc thiết bị của các nhà máy
sản xuất của mình, và kết quả thử nghiệm vì thế có thể được chuyển ngay lập tức đến
trụ sở chính của Cisco tại San Jose, California. Nếu các kỹ sư của công ty cảm thấy
không hài lòng với những gì họ nhận được, từ xa họ có thể dừng một dây chuyền sản
xuất hoặc một trung tâm phân phối cho đến khi vấn đề được xử lý.

Mức độ minh bạch hóa trong hoạt động sản xuất toàn cầu của Cisco thật đáng nể - bạn
thậm chí sẽ còn thán phục hơn khi biết rằng công ty này, có khả năng đạt được doanh
thu 28 tỷ đôla trong năm nay, không sở hữu phần lớn các nhà máy sản xuất ra các sản
phẩm của Cisco. Cisco tin tưởng rằng việc chuyển hoạt động kinh doanh sang bên
ngoài sẽ cho phép công ty tăng trưởng nhanh hơn là so với khi tự mình vận hành các
nhà máy lắp ráp. Tuy nhiên phương pháp này cũng có một vài vấn đề nảy sinh trong
quá trình thực hiện.

Trong năm 2000, Cisco đã trở thành công ty có giá nhất thế giới khi mà giá cổ phiếu
các công ty công nghệ tăng vọt đáng kinh ngạc. Một số khách hàng đã đặt mua hàng
hóa chỉ vì họ có cảm giác rằng một đợt thiếu hụt đang đến. Tuy nhiên quả bong bóng
này bất thình lình vỡ tan, và Cisco, bất chấp việc sở hữu một hệ thống sản xuất khôn
ngoan, đã bị khủng hoảng dư thừa khi mà rất nhiều khác hàng cắt giảm mạnh việc mua
sắm. Lần đầu tiên kể từ khi niêm yết cổ phiếu nưam 1990 Cisco phải báo cáo khoản lỗ
kinh doanh trong quý của mình và ghi sổ một khoản lỗ 2,2 tỷ đôla cho các thiết bị mạng
không thể bán được. Đây chính là một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy Cisco hoàn thiện
chuỗi cung ứng của mình.

Điều này trở nên phức tạp hơn khi Cisco mở rộng hoạt động kinh doanh của mình vào
hai lĩnh vực mới. Các router và thiết bị chuyển mạng loại lớn vốn là lĩnh vực kinh doanh
then chốt của Cisco là hoạt động kinh doanh theo yêu cầu khách hàng. Tuy nhiên

phương pháp này không áp dụng đối với lĩnh vực hàng tiêu dùng mà Cisco đang mạo
hiểm. Năm 2003, công ty đã mua lại Linksys, công ty sản xuất thiết bị mạng không dây
chủ yếu dùng cho gia đình. Và năm ngoái Cisco đã vung ra 6,9 tỷ đôla để mua
Scientific-Atlanta, một công ty sản xuất thiết bị thu truyền hình cho video, cáp hoặc vệ
tinh. Và khi các công nghệ được hợp nhất, Cisco có thể sẽ chế tạo các thiết bị có thể
phát các chương trình truyền hình lấy từ internet cho các hộ gia đình.

Xây dựng các router internet lớn đòi hỏi phải dự báo trước về nhu cầu trong tương lai,
sản xuất trước một số linh kiện phổ thông và nhanh chóng sản xuất thiết bị theo yêu
cầu của khách hàng mỗi khi có đơn hàng. Ngược lại, việc kinh doanh các sản phẩm
điện tử tiêu dùng đòi hỏi phải sản xuất một số lượng lớn các sản phẩm tiêu chuẩn để
sau đó phải bán chủ yếu thông qua hệ thống bán lẻ.

Để luôn đáp ứng đầy đủ nhu cầu, Cisco phải thực hiện những công việc mà P&G phải
làm để cung cấp hàng hóa cho các siêu thị, nhằm một mặt tránh thiếu hụt hàng hóa
cung cấp và mặt khác tránh được phải lưu giữ quá nhiều hàng tồn kho. Điều này có
nghĩa rằng về mặt khách hàng, Cisco sẽ phải hàng ngày liên lạc với các nhà bán lẻ.
Theo như lời của Angel Mendez, giám đốc sản xuất của Cisco toàn cầu, "những gì diễn
ra ở Best Buy tại Ohio sẽ rất khác với những gì diễn ra ở Dixons tại Manchester".

Rất nhiều công ty hàng điện tử gia dụng tiến hành việc chuyển hoạt động ra bên ngoài,
tuy nhiên Cisco hiện tại đang xem xét lại liệu đây có phải là lựa chọn tối ưu cho khách
hàng của mình hay không khi mà Scientifi-Atlanta đã làm khá tốt trong việc xây dựng hệ
thống các nhà máy sản xuất cho riêng mình. Ông Mendez đồng ý rằng việc chuyển
hoạt động ra bên ngoài, dù rằng vẫn có sự kiểm soát mạnh mẽ từ trung ương, đã đem

×