Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Triển khai chương trình sản xuất sạch hơn để phát triển bền vững ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745 KB, 16 trang )

TRIỂN KHAI CHƢƠNG TRÌNH SẢN XUẤT SẠCH HƠN ĐỂ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
PGS.TS. Đỗ Thị Ngọc
Trường Đại học Thương mại
TÓM TẮT
Phát triển bền vững, sản xuất sạch hơn, tiêu dùng xanh đang là những chủ đề được quan tâm
lớn trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Với quan điểm của Đảng và Chính phủ nước ta, phát
triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và
hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài ngun, mơi trường, chủ động ứng
phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phịng, an ninh, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền quốc gia. Chính vì vậy, trong những năm vừa qua, Việt Nam đã dành nỗ lực rất
lớn trong việc xây dựng, triển khai các chiến lược, các chương trình và các hoạt động tập trung cho
sản xuất và tiêu dùng “sạch hơn” vì sự phát triển bền vững. Bài viết đề cập và phân định rõ Sản xuất
sạch hơn là gì, các chiến lược doanh nghiệp có thể lựa chọn để phịng tránh tác động tới mơi trường
có hiệu quả và giảm thiểu các rủi ro cho doanh nghiệp, cho khách hàng và cho cộng đồng; Làm rõ
mối liên hệ giữa Sản xuất sạch hơn với sự tiến triển về tư duy năng suất, chất lượng. Đồng thời
phân tích thực trạng triển khai Sản xuất sạch hơn và tiêu dùng bền vững ở Việt Nam và đề xuất
những kiến nghị cho chủ đề nghiên cứu.
Từ khóa: Sản xuất sạch hơn (SXSH), phịng ngừa, ơ nhiễm mơi trường, vòng đời sản phẩm,
năng suất, chất lượng, phát triển bền vững.
ABSTRACT:
Sustainable development, cleaner production and green consumption are topics of great
convern worldwide, including Vietnam. With an opinion of Government of our country, sustainable
development is a cross-cutting requirement in the national development process; closely, rationally
and harmoniuosly combine economic development with social development and protection of
natural resources and environment, proactiovely respoding to climate change, ensuring national
defense, security, and firmly defend national independence and sovereibnty. Therefore, recently
year, Vietnam has put a great deal of effort into developing and emplementing strategies, programs
and activities focused on cleaner production and consumption for sustainable development. In the
article, we mention and clearly define what Cleaner production is, the strategies that basiness can
choose to effectively prevent environmental impact and minimize risks for business and for


community; Clarify the relations between cleaner production and the evolution of productivity and
quality. At the same time, analyze the current situation of implementing cleaner production and
sustainable consumption in Vietnam to propose recommendations for the research.
Key words: Cleaner production, prevention, Environment pollution; product cycle;
productivity, quality, sustainable development.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo từng thời kỳ khác nhau, các quốc gia, các tổ chức xã hội, cơ sở sản xuất, kinh doanh đã
phản ứng với ô nhiễm môi trường sinh thái theo các cách khác nhau. Đối với các doanh nghiệp sản
731


xuất, kinh doanh, hoặc là các doanh nghiệp tổ chức hoạt động mà không quan tâm tới vấn đề môi
trường; hoặc là, tìm cách “pha lỗng” hay phân tán ơ nhiễm để tránh sự phát hiện của cơ quan hữu
trách hay cộng đồng dân cư. Mặt khác, tuy một số doanh nghiệp đã nhận thức được vấn đề sản xuất
và bảo vệ môi trường nhưng thường cố gắng xử lý các tác động của môi trường khi chúng đã xảy
ra, nghĩa là đã sử dụng phương pháp xử lý ở “cuối nguồn”. Cách cuối cùng mà thời gian gần đây
các tổ chức kinh doanh đã tiếp cận và giải quyết một cách có hiệu quả về vấn đề mơi trường, đó là
việc ngăn ngừa tác động tới mơi trường và giảm thiểu chất thải ngay từ đầu nguồn. Sản xuất sạch
hơn (Cleaner Production) chính là phương pháp tiếp cận và vận dụng những nguyên tắc để phòng
ngừa rủi ro cho doanh nghiệp, người tiêu dùng và cộng đồng do những tác động của sản xuất kinh
doanh tới môi trường. Đây cũng là sự trưởng thành trong nhận thức về năng suất và chất lượng và
sự cần thiết phải tổ chức kinh doanh thân thiện với môi trường để phát triển bền vững. Bài viết đề
cập và phân định rõ Sản xuất sạch hơn là gì, các chiến lược doanh nghiệp có thể lựa chọn để phịng
tránh tác động tới mơi trường có hiệu quả và giảm thiểu các rủi ro cho doanh nghiệp, cho khách
hàng và cho cộng đồng. Làm rõ mối liên hệ giữa Sản xuất sạch hơn với sự tiến triển về tư duy năng
suất, chất lượng. Đồng thời phân tích thực trạng triển khai Sản xuất sạch hơn ở Việt Nam và đề xuất
những kiến nghị cho chủ đề nghiên cứu.
2. TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề mơi trường ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của toàn xã hội và đã trở thành

mối đe dọa mang tính tồn cầu. Chính vì vậy, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu trong nước và
nước ngồi có liên quan tới chủ đề bảo vệ môi trường và phát triển kinh doanh bền vững, bao gồm:
Bài viết với tựa đề Sản xuất sạch hơn- Hướng đi mới trong phát triển công nghiệp tại Thái
Nguyên theo quan điểm phát triển bền vững của nhóm tác giả Nguyễn Thị Hằng, Nguyễn Văn
Huân, đăng trên Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ số 87 (2011). Bài viết đã phân tích và đánh giá
tốc độ tăng trưởng của tỉnh Thái Nguyên và những vấn nạn môi trường trên địa bàn tỉnh này. Kết
quả nghiên cứu của đề tài đã khẳng định việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp thực sự
trở thành công cụ quản lý hiệu quả về kinh tế, tạo ra những lợi ích xã hội và mơi trường cho các
doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
Tác giả Ngô Thị Nga với cơng trình đã cơng bố trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nhiệt
(2008) với tiêu đề, Sản xuất sạch hơn, khái niệm và phương pháp triển khai. Bài viết đã hệ thống
hóa và tập hợp các tài liệu, trong đó đã xác định bản chất của Sản xuất sạch hơn và nêu một số
phương pháp triển khai Sản xuất sạch hơn trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Báo cáo toàn quốc về Sản xuất sạch hơn là kết quả khảo sát của Tổ hợp sản xuất sạch hơn
trong công nghiệp (CPI) tiến hành và công bố vào năm 2016. Báo cáo này đã hoàn thành dựa trên
kết quả khảo sát 63 Sở Công Thương và 9012 doanh nghiệp sản xuất cơng nghiệp trên tồn quốc để
thu thập số liệu nền cho các mục tiêu trong chiến lược sản xuất sạch hơn của cả nước tới năm 2020.
Báo cáo đã phân tích hiện trạng Sản xuất sạch hơn của cả nước trong năm 2015 và đưa ra các kết
luận quan trọng là: (1) Kết quả khảo sát năm 2015, có 55% doanh nghiệp sản xuất cơng nghiệp có
biết về SXSH và lợi ích của SXSH với mức độ nhận thức khác nhau, từ việc nghe nói đến SXSH
đến việc thực hiện áp dụng SXSH và thu được kết quả giảm định mức tiêu thụ nguyên, nhiên liệu
đáp ứng mục tiêu chiến lược; (2) 92% các doanh nghiệp có nhận thức về lợi ích của việc áp dụng
SXSH đều nhận thức được lợi ích kinh tế và mơi trường của việc áp dụng SXSH. (3) Số còn lại
732


(8%) mới nhận thức được SXSH mang lại lợi ích liên quan tới bảo vệ môi trường và phát triển bền
vững cho doanh nghiêp. Kết quả khảo sát cũng cho thấy SXSH được biết đến tại tất cả các ngành
sản xuất cơng nghiệp khảo sát (Mỏ và khai khống, thực phẩm và đồ uống, cơng nghiệp nhẹ, hóa
chất, vật liệu xây dựng, luyện kim, thiết bị, tái chế, tài nguyên), khơng phân biệt quy mơ (nhỏ, trung

bình, lớn).
Ngồi ra cịn rất nhiều bài viết, các cơng trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan tới
vấn đề Sản xuất sạch hơn, các báo cáo tại các hội thảo khoa học về Năng suất, chất lượng, môi
trường trong những năm qua. Trong tạp chí “Sản xuất sạch hơn” đã trích dẫn hàng trăm bài viết
khác nhau liên quan tới chủ đề. Trong đó, đề cập các nghiên cứu để áp dụng cơng nghệ sản xuất
sạch hơn vào các q trình sản xuất và cung ứng dịch vụ cụ thể như:
“Áp dụng sản xuất sạch hơn, một chiến lược bền vững quan trọng trong nhà máy gạch menNghiên cứu điển hình ở Quảng Châu, Trung Quốc” của nhóm tác giả Yi Huang, Jiwen và Bin Xia.
Cơng trình nghiên cứu đã nghiên cứu, phân tích cân bằng vật chất để phát triển các biện pháp sản
xuất sạch hơn. Nhóm tác giả đã đề xuất 31 biện pháp theo sáu khía cạnh và được thực hiện để đạt
những kết quả rất ấn tượng như: đã giảm tiêu thụ nước 22,3%; mức tiêu thụ năng lượng toàn diện
trên mỗi đơn vị sản phẩm được cắt giảm là 4,3%.
“Tính khả thi của việc chuyển đổi hệ thống trang trại bị sữa sang mơ hình sản xuất hữu cơ
tại Đông nam Me-hi-cô” của J. Nahed- Toral và cộng sự được công bố trên Journal of Cleaner
Production năm 2013, với trích dẫn 31 bài viết và cơng trình có liên quan. Với việc khảo sát 75
trang trại chăn nuôi gia súc thuộc ba hiệp hội sản xuất nông nghiệp; sử dụng 35 biến tích hợp 10 chỉ
tiêu phân tích và việc quan sát trực tiếp để thu thập các dữ liệu, các kết luận khoa học được rút ra từ
nghiên cứu này bao gồm: (1) tất cả các trang trại đều cần phải cải thiện đáng kể cả việc chăm sóc
thú y và điều kiện sản xuất an toàn; (2) các nhà sản xuất cần được đào tạo cả về kỹ thuật sản xuất và
quản lý gia súc để đảm bảo các điều kiện sản xuất sạch hơn và đáp ứng các yêu cầu chất lượng được
chứng nhận.
“Áp dụng khái niệm sản xuất sạch hơn trong quản lý nước tại các đô thị” của . Siebel và
Huub J. Gijzen năm 2002. Với nghiên cứu này, khái niệm Sản xuất sạch hơn đã được áp dụng vào
việc quản lý đời sống xã hội, một lĩnh vực nằm ngoài phạm vi sản xuất nhưng chịu ảnh hưởng môi
trường từ các q trình sản xuất.
Cịn rất nhiều cơng trình nghiên cứu đã được công bố trên các ấn phẩm khoa học trong và
ngồi nước, điều đó cho thấy vấn đề sản xuất sạch hơn đang ngày càng được quan tâm trên khắp thế
giới, nhất là tại các nước đang phát triển. Sản xuất sạch hơn không chỉ được áp dụng trong sản xuất,
mà cịn áp dụng vào mọi khía cạnh đời sống kinh tế - xã hội.
2.2. Ph


ng pháp nghiên cứu

Các dữ liệu sử dụng để phân tích và bình luận trong bài viết chủ yếu được thu thập qua việc
tổng quan tài liệu, sử dụng một số dữ liệu đã được cơng bố trên các tạp chí, các hội thảo trong thời
gian qua. Đặc biệt, để hiểu một cách khái quát bức tranh tổng thể về Sản xuất sạch hơn ở nước ta
trong những năm qua, bài viết có tham khảo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn
2011-2015 của Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Các dữ liệu được thu thập, tổng hợp và được phân tích bằng phương pháp thủ cơng, có sử
dụng bảng tính excel, các sơ đồ, biểu đồ, hình vẽ để trình bày dữ liệu một cách có hệ thống, dựa
733


trên phương pháp luận khoa học lịch sử, so sánh, tổng hợp hóa, khái quát hóa để đưa ra những kết
luận nghiên cứu cũng như những đề xuất, kiến nghị cho bài viết.
3. KHÁI QUÁT VỀ SẢN XUẤT SẠCH HƠN
3.1. Hiểu bi t về Sản xuất sạch h n
Hầu hết các doanh nghiệp hiện đang sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau để sản xuất ra các
loại sản phẩm cũng như cung cấp các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Trong quá
trình này, một số nguồn lực vẫn chưa được khai thác, hoặc các sản phẩm khơng mong muốn có thể
được sản xuất như chất thải vì rất hiếm khi các nguồn lực có thể chuyển đổi 100% trong quá trình
sản xuất, kinh doanh để biến đầu vào thành đầu ra. Vì vậy, các chất này khi được thải ra môi trường
sẽ gây ô nhiễm.
Theo các giai đoạn lịch sử, các nhà kinh doanh thường phản ứng với những vấn đề môi
trường theo 4 cách sau:
Cách thứ nhất, phớt lờ vấn đề. Cách này thường dẫn tới việc tàn phá tối đa môi trường. Sự tàn
phá này tác động không chỉ giới hạn tới địa phương hoặc khu vực dân cư, nó có thể xảy ra trong
toàn bộ khu vực và trong một số trường hợp, tác động của nó ở cấp độ tồn cầu.
Cách thứ hai, dùng chủ thuyết “pha lỗng sự ơ nhiễm”. Tức là sử dụng cách phân tán ô nhiễm
sang các khu vực khác để trách ô nhiễm môi trường tác động tập trung vào một nơi và để giảm tác
động của ơ nhiễm mơi trường tới mức ít nhất có thể.

Cách thứ ba, cố gắn xử lý ô nhiễm thông qua cái gọi là cách tiếp cận đường ống.
Cách thứ tư (và thường xuyên nhất), thông qua sự ngăn ngừa ô nhiễm và chất thải phát sinh từ
chính nguồn của nó. Hình 3.1 dưới đây phản ánh hiệu ứng của 4 cách phản ứng của kinh doanh đối
với vấn đề mơi trường.

Chi phí mơi trường

Làm ngơ

Phan lỗng

Xử lý

Phịng ngừa

Thời gian

Hình 3.1. Phản ứng của doanh nghiệp với vấn đề môi tr ờng
Ngu n: UNEP, Chương trình mơi trường của Liên hiệp quốc, 2007

734


3.2. Khái niệm về sản xuất sạch h n
Để triển khai áp dụng "Sản xuất sạch hơn," một khái niệm chính thống về Sản xuất sạch hơn
(SXSH) sẽ là cơ sở đầu tiên cho việc nhận thức khi nghiên cứu áp dụng nó vào thực tiễn hoạt động
của doanh nghiệp. Hiện nay, có nhiều cách định nghĩa về SXSH cũng như các chương trình tương
tự của các tổ chức khác nhau trên thế giới. Trước tiên hãy xem xét định nghĩa về SXSH do Chương
trình Mơi trường Liên Hợp Quốc (UNEP).
Theo định nghĩa UNEP đưa ra vào năm 1989, “Sản xuất sạch hơn là việc áp dụng liên tục

một chiến lược phịng ngừa tổng hợp về mơi trường đối với các quá trình sản xuất, sản phẩm và
dịch vụ nhằm tăng hiệu suất và giảm rủi ro đối với con người và môi trường”. Mục tiêu của
SXSH là sự phát triển bền vững các quá trình sản xuất, các chu trình tồn tại của sản phẩm, các
hướng tiêu dùng của xã hội. Sản xuất sạch hơn có thể được áp dụng cho các quá trình sử dụng
trong bất kỳ ngành công nghiệp nào, cho sản phẩm và các dịch vụ khác nhau được cung ứng
trong xã hội.
Đối với các quy trình, SXSH nảy sinh từ một số phối thức như, phối thức nguyên liệu và năng
lượng; sự thay thế các chất độc hại bằng các chất ơn hịa hơn và / hoặc giảm độc tính của tất cả
lượng khí thải và chất thải trước khi sản xuất.
Đối với sản phẩm, SXSH tập trung vào việc giảm các tác động môi trường trong tồn bộ vịng
đời của sản phẩm, từ việc chiết xuất nguyên liệu đến việc xử lý cuối cùng của sản phẩm bằng quá
trình thiết kế phù hợp.
Đối với dịch vụ, SXSH đòi hỏi phải kết hợp các mối quan tâm về môi trường vào việc thiết kế
và cung cấp các dịch vụ. Minh họa cụ thể về định nghĩa này được thể hiện trong Hình 3.2 dưới đây.
Như vậy, khái niệm Sản xuất sạch hơn của UNEP thể hiện những quan điểm tiếp cận chính về
SXSH là:
Một là, SXSH địi hỏi q trình liên tục. Nó khơng phải là một hoạt động chỉ diễn ra một lần
duy nhất;
Hai là, SXSH không giới hạn trong các ngành công nghiệp, mà nó có thể được áp dụng cho
tất cả các doanh nghiệp, bất luận là loại hình và quy mơ nào;
Ba là, SXSH tiến tới sự cân bằng giữa tính sẵn có và tiêu dùng của vật liệu (kể cả nước) và
năng lượng. Nó khơng phủ nhận sự tăng trưởng, nhưng nhấn mạnh rằng nó đạt được sự bền vững về
sinh thái;
Bốn là, SXSH đề cập đến cách tiếp cận sản xuất hàng hóa và cung cấp các dịch vụ với những
tác động môi trường tối thiểu, với các giới hạn về công nghệ và kinh tế tại thời điểm hiện tại. Nó
khơng chỉ giới hạn trong việc giảm thiểu chất thải; hơn thế nữa, nó bao gồm một bối cảnh rộng hơn
đồng thời sử dụng thuật ngữ "tác động" trong vòng đời.

735



Sản xuất sạch hơn
Phòng ngừa và phối hợp
liên tục

Chiến lược được
áp dụng cho
Quá trình

Sản phẩm

Dịch vụ

Để tăng cường
hiệu quả

Giảm bớt rủi ro

Cải thiện mơi
trường, nâng cao
hiệu quả, tiết kiệm
chi phí

Nâng cao lợi thế
cạnh tranh

Hình 3.2. Khái niệm về sản xuất sạch h n
Ngu n: Joseph Strahl, 1996.

Hiện nay người ta cịn sử dụng các thuật ngữ khác nhau để nói về SXSH như: “Hiệu suất sinh

thái” (Hội đồng Thương mại Thế giới về Phát triển bền vững sử dụng từ năm 1993); “Phịng ngừa ơ
nhiễm” (được sử dụng chủ yếu ở Canada và Mỹ dựa trên Luật Phịng ngừa ơ nhiễm được Quốc hội
và Cơ quan Bảo vệ Môi trường ((EPA) Mỹ thông qua năm 1990); “Năng suất xanh” (Tổ chức Năng
suất châu Á- PO); “Bảo vệ môi trường tổng hợp” (ở Đức).
Tất cả các thuật ngữ hoặc chiến lược nêu trên đều bao hàm 3 yếu tố kỹ thuật cơ bản là tăng hiệu
suất sử dụng nguyên liệu để sản xuất được nhiều sản phẩm hơn, sinh ra ít chất thải và chất ô nhiễm,
giảm độ độc của các nguyên liệu được sử dụng và thiết kế lại sản phẩm để giảm tác động mơi trường
trong suốt vịng đời sản phẩm (3). SXSH là một tiếp cận mới có tính chất sáng tạo và là q trình áp
dụng liên tục các chiến lược, hoạt động thực tiễn và công nghệ nhằm làm giảm chất thải. SXSH yêu cầu
thay đổi thái độ, từng bước cải thiện cơng nghệ hiện có và đầu tư cho các cơng nghệ sạch hơn.
Ngồi các tác động của vòng đời, SXSH cũng đề cập tới các mối quan tâm về sức khoẻ và an
toàn và nhấn mạnh việc giảm rủi ro. Theo quan điểm này, SXSH là một chiến lược quản lý mơi
trường tồn diện. Như vậy, SXSH là việc nâng cao hiệu quả cả về sản lượng tăng lên và những lợi
thế của đầu ra một cách bền vững. Tóm lại, SXSH là chiến lược "win-win-win" bảo vệ môi trường,
bảo vệ cộng đồng (nghĩa là sức khoẻ và an toàn của người lao động, người tiêu dùng và khu vực lân
cận) cũng như bảo vệ doanh nghiệp (tức là khả năng sinh lợi và hình ảnh của doanh nghiệp). Do đó,
sản xuất sạch hơn sẽ đề cập đến những vấn đề về kinh tế, môi trường cũng như xã hội và không nên
chỉ coi đó là một chiến lược mơi trường.
3.3. Các cuộc cách mạng sản xuất sạch h n
Trong phần trước, chúng ta đã khẳng định rằng SXSH gắn liền với năng suất. Do đó, điều
quan trọng là chúng ta phải hiểu sự tiến triển của khái niệm năng suất trong bối cảnh SXSH. Các
mốc quan trọng trong lĩnh vực Năng suất và Quản lý Mơi trường được thể hiện trong Hình 3.3
dưới đây.
736


Theo truyền thống, năng suất đã được định nghĩa là lượng đầu ra cho mỗi đơn vị đầu vào
được sử dụng. Tăng năng suất đòi hỏi tăng lượng đầu ra và / hoặc giảm lượng đầu vào. Năng suất
cũng bị ảnh hưởng bởi việc tổ chức nội bộ của một doanh nghiệp; Nói cách khác, nâng cao hiệu quả
tổ chức có thể là một cách nâng cao năng suất.

Đầu tiên, cải tiến năng suất tập trung vào số lượng, tức là số lượng sản phẩm đầu ra. Khi thị
trường phát triển và cạnh tranh gia tăng, hiệu quả sử dụng chi phí đã trở thành nhân tố chính dẫn
đến thành cơng. Do đó, cách tiếp cận giảm chi phí đã được sử dụng để nâng cao khả năng sinh lời
hoặc hiệu quả tổ chức; hay quan điểm năng suất dựa trên chi phí.
Tiếp theo, sự ưa thích của người tiêu dùng ngày càng tăng và cạnh tranh mở ra kỷ nguyên của
cuộc chạy đua về chất lượng. Với sự ra đời của nó, năng suất được đo lường khơng chỉ về số lượng
sản xuất, mà còn về tỷ lệ sản phẩm đạt được chất lượng và đáp ứng yêu cầu.
Tính kiên định của việc cung cấp số lượng tối đa của một sản phẩm ở mức mong muốn về
chất lượng theo một cách tiết kiệm và hiệu quả đã làm phát sinh khái niệm thứ ba trong phong trào
năng suất, đó là năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP). Sự chắc chắn này chỉ có thể được khẳng định
chỉ thông qua tổ chức nội bộ của một doanh nghiệp, và từ đây đã xuất hiện một số hệ thống quản lý
chất lượng như: Quản lý Chất lượng toàn diện (Total Quality Management - TQM), Duy trì hiệu
suất thiết bị tổng thể (TPM) và sau đó là Bộ tiêu chuẩn ISO 9000.
Trong khi khái niệm năng suất được mở rộng, lĩnh vực quản lý môi trường cũng đã trưởng
thành và phát triển (Hình 3.3).

2000

TQM, EMS

1996

EMS, ISO 14000

1990s

ISO 9000

Sản xuất sạch hơn


TPM

1980s
1960s

Xử lý ô nhiếm

Phân tán ô nhiễm
Sau thế chiến II
Tảng lờ ơ nhiễm

Hình3.3. Những mốc lịch sử về t duy năng suất gắn với môi tr ờng
Ngu n: UNIDO/ UNEP Guidance Manual, 2005

Các phản ứng trước đó về ơ nhiễm "phớt lờ", "pha loãng" và "xử lý" đã thay đổi để "ngăn
ngừa ô nhiễm", "tái sử dụng chất thải hoặc tạo ra các sản phẩm phụ" và cuối cùng là "xử lý" và "vứt
bỏ" các chất dư lượng một cách có bảo đảm. Sự thay đổi này xuất phát từ nhiều lý do sau đây:
Thứ nhất, áp lực từ các khu dân cư và các tổ chức phi chính phủ (NGO) về môi trường tăng
lên đáng kể. Với cách bỏ qua hoặc thực hành pha lỗng ơ nhiễm, các doanh nghiệp đã có thể phải
737


đối mặt với các vụ kiện tụng hợp pháp, dẫn đến mất uy tín trên thị trường, giảm lợi thế cạnh tranh
và có thể chấp nhận thất bại.
Thứ hai, các tiêu chuẩn về kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường đã ngày càng nghiêm ngặt trên
nhiều phương tiện truyền thông liên quan tới các chất thải khí, nước và chất thải rắn. Các biện pháp
và chế tài xử lý vi phạm trở nên chặt chẽ hơn, đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư đáng kể vào các cơ
sở xử lý và thải bỏ. Điều này cũng có nghĩa là doanh nghiệp cần tăng một khoản đầu tư đáng kể khi
phải mua lại các vùng đất rộng lớn cho vấn đề xử lý mơi trường. Do đó, dẫn đến việc thay đổi căn
bản về tư duy và nhận thức để ngăn ngừa ô nhiễm từ nguồn, nếu doanh nghiệp muốn tồn tại và hoạt

động một cách tiết kiệm và hiệu quả.
Sự nhấn mạnh về phịng ngừa ơ nhiễm mơi trường cần có sự hỗ trợ từ tổ chức nội bộ của
doanh nghiệp, với sự cam kết của ban lãnh đạo. Điều đó đã được thể hiện qua việc công bố áp dụng
hệ thống quản lý môi trường (EMS), chẳng hạn như ISO 14000. Điều này dẫn đến việc đảm bảo
tính nhất quán trong hoạt động môi trường và thiết lập tầm quan trọng chiến lược của tư duy bảo vệ
và thân thiện với môi trường trong kinh doanh.
Lúc này, yếu tố môi trường đã được tích hợp vào các chương trình cải tiến năng suất (ví dụ
như TQM đến TQEM). Ở đây, quan niệm về tổn hại tài nguyên, đánh giá vòng đời và chất thải là
những gánh nặng kinh tế đã được ưu tiên hàng đầu thông qua việc quản lý mơi trường, do đó đã làm
tăng nhu cầu nội địa hóa các vấn đề mơi trường trong kinh doanh.
Vào thập niên 1960, người ta đã nhận thấy sự cần thiết phải thay đổi cơ bản cách tiếp cận kinh
doanh bằng cách sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực tự nhiên, cũng như sự cần phải có quan điểm
xem xét tồn diện về vịng đời sản phẩm. Việc sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên
chuyển thành bảo vệ môi trường, và kết quả là nâng cao năng suất.
Do đó, như Hình 3.4 cho thấy, khái niệm về năng suất đã được duy trì thường xuyên từ cách
tiếp cận "dựa theo số lượng" và "giảm chi phí" sớm nhất, để kết hợp "chất lượng sản phẩm" và cuối
cùng là để đáp ứng các mối quan tâm "mơi trường".

Hình3.4. Những giai đoạn phát triển t duy về khái niệm năng suất
Ngu n: UNEP, Chương trình mơi trường của Liên hiệp quốc, 2007

Tại thời điểm này, các xu hướng về năng suất và quản lý môi trường đã giao nhau và ảnh
hưởng lẫn nhau trong việc phát triển một chiến lược như SXSH.
3.4. Các chi n l ợc có thể lựa chọn để sản xuất sạch h n trong tổ chức kinh doanh
Việc thực hiện SXSH cần theo thứ tự ưu tiên nhất định. Trình tự đó được quyết định từ khi
bắt đầu thiết kế, vận hành hệ thống quản lý ơ nhiễm (4): Phịng ngừa phát sinh chất thải; Tuần hoàn;
738


Xử lý; Thải bỏ hoàn toàn. Để thực hiện SXSH một cách hiệu quả và hướng tới phòng ngừa phát

sinh chất thải từ nguồn, đảm bảo vận hành tiết kiệm và hiệu quả, dưới đây là một số chiến lược
doanh nghiệp có thể cân nhắc lựa chọn để thực hành hiệu quả SXSH.
- Cải thiện việc giữ gìn nhà xưởng để thực hành công việc và các phương pháp và bảo trì
thích hợp các thiết bị có thể mang lại lợi ích đáng kể về tiết kiệm tài nguyên. Các giải pháp giữ vệ
sinh thường có chi phí thấp và mang lại lợi ích từ thấp đến trung bình.
- Tối ưu hóa q trình bao gồm việc hợp lý hóa trình tự quy trình (ví dụ, loại bỏ chuỗi giặt dư
thừa), kết hợp hoặc sửa đổi các hoạt động của quy trình để tiết kiệm tài nguyên và thời gian và nâng
cao hiệu quả của quá trình. Trong một số trường hợp, những thay đổi có thể được giới thiệu tốt nhất
bằng cách thử nghiệm hoặc trình diễn ở quy mô nhỏ hơn. Các lựa chọn này thường từ thấp đến
trung bình và mang lại lợi ích từ vừa phải đến cao.
- Thay thế nguyên liệu thô. Nguyên liệu thô có thể được thay thế nếu lựa chọn tốt hơn về mặt chi
phí, hiệu quả của q trình và giảm nguy cơ liên quan đến sức khoẻ và an toàn. Cách tiếp cận này có thể
là cần thiết nếu các vật liệu đã được sử dụng khó tìm nguồn, hoặc đắt tiền, cũng như nó nằm trong tầm
nhìn của người tiêu dùng, sức khoẻ và an toàn mới, hoặc các quy định về môi trường. Điều quan trọng
là phải đánh giá các lựa chọn thơng qua các nghiên cứu thí điểm / phịng thí nghiệm và thí điểm, để đảm
bảo chất lượng sản phẩm không bị thay đổi và / hoặc chấp nhận được trên thị trường.
- Thay đổi thiết kế sản phẩm có thể gây ra tác động lên cả phía “thượng nguồn” lẫn “hạ lưu”
của vịng đời sản phẩm. Ví dụ, thiết kế lại sản phẩm có thể làm giảm lượng hoặc độc tính của vật
liệu trong một sản phẩm, hoặc giảm sử dụng năng lượng, nước và các vật liệu khác trong quá trình
sử dụng, hoặc giảm yêu cầu đóng gói, hoặc tăng khả năng "tái chế" các linh kiện đã sử dụng. Điều
này có thể dẫn đến các lợi ích như giảm tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên, tăng năng suất và giảm
thiểu các nguy cơ môi trường. Thông thường, điều này giúp cho cả việc thiết lập cũng như mở rộng
thị trường. Tuy nhiên, việc thiết kế lại sản phẩm là một chiến lược kinh doanh chính và có thể u
cầu nghiên cứu khả thi và khảo sát thị trường, đặc biệt nếu chuỗi cung ứng xung quanh sản phẩm đã
được thiết lập và có tính phức tạp.
- Chuyển giao cơng nghệ mới. Nhận và chuyển giao các cơng nghệ mới thường có thể làm
giảm tiêu thụ tài nguyên và giảm thiểu chất thải cũng như tăng năng suất hoặc thông lượng. Những
lựa chọn này thường tốn nhiều vốn, nhưng có thể dẫn đến những lợi ích tiềm năng cao.
4. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI SẢN XUẤT SẠCH HƠN TẠI VIỆT NAM
4.1. Một số k t quả phân tích

Tổng quan về nhận thức và kế hoạch hành động triển khai SXSH ở nước ta
Tại Việt Nam, gần đây khái niệm SXSH đã được đề cập đến ở một số diễn đàn và một số công
bố, nhưng sự hiểu biết về SXSH cũng còn rất khác nhau và đôi khi chưa đầy đủ (3). Đồng thời, các hoạt
động về SXSH cũng đã được khởi sắc và tiến hành tương đối khẩn trương. Chỉ trong một thời gian ngắn
chúng ta đã thu được những kết quả ban đầu tương đối tốt, như: một trung tâm về SXSH đã được thành
lập năm 1998 với sự giúp đỡ của nước ngồi để xúc tiến một số cơng việc khởi đầu về SXSH ở Việt
Nam, đồng thời làm công tác tư vấn, trợ giúp cho các nhà sản xuất áp dụng SXSH (3).
Một kế hoạch hành động quốc gia về SXSH đã được Bộ KHCN & MT xây dựng, trong đó đã đề
xuất một số chương trình tổng thể nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp áp dụng SXSH (3). Ngày 22 - 9 1999 Chính phủ Việt Nam đã ký “Tuyên ngôn quốc tế về SXSH” để khẳng định cam kết trong việc thực
739


hiện chiến lược SXSH theo tinh thần của UNEP. Các tiếp cận về SXSH đã được triển khai ở mức thăm
dị và nghiên cứu trình diễn. Kết quả của các dự án trình diễn này đã chỉ ra nhiều cơ hội giảm chất thải,
đặc biệt là mức độ tiêu thụ nguyên vật liệu, hóa chất, nước cấp, nhiên liệu, năng lượng tính trên một đơn
vị sản phẩm quá lớn cũng như quản lý nội vi trong các cơ sở sản xuất còn kém là ngyên nhân gây ra tải
lượng chất thải cao. Kết quả cũng chỉ ra các cơ hội tiết kiệm nguyên vật liệu, tận thu và tái sử dụng chất
thải cũng như các cơ hội tiết kiệm năng lượng trong sản xuất (3). Tuy nhiên, cho đến nay, các nghiên
cứu trình diễn này mới chỉ tập trung vào một số ngành công nghiệp nhẹ (1). Từ các kết quả nghiên cứu
này cho thấy thơng qua kiểm tốn đánh giá SXSH, các doanh nghiệp tự đánh giá hiệu quả sử dụng
nguyên liệu, nhiên liệu, nước, hóa chất trong quá trình sản xuất, đồng thời giảm được một lượng đáng
kể các loại chất thải cần phải xử lý ngay tại nguồn phát sinh ra chúng.
Tiềm năng SXSH ở Việt Nam là rất lớn. Một số ngành cơng nghiệp có thể tiết kiệm được 40 70% mức tiêu thụ nước 20% - 50% mức tiêu thụ điện, giảm 50% - 100% các chất thải độc hại, giảm
30% - 75% tải lượng COD trong nước thải; giảm 50% - 75% tải lượng BOD trong nước thải; giảm 40%
- 60% tổng chất rắn lơ lửng trong nước thải, giảm 20% - 50% các kim loại nặng trong nước thải (4).
Trên thế giới, SXSH ngày càng được áp dụng rộng rãi, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển như
Mỹ, Canada, ustralia, Thuỵ Điển, Đan Mạch… từ những năm 1985 - 1990. Một số nước Đông u
như Ba Lan, CH Séc, Hungari… và châu Á như Ấn Độ, Singapo, Thái Lan, Trung Quốc… cũng đã bắt
đầu áp dụng SXSH từ khoảng năm 1993 trở lại đây và đã thu được các kết quả rõ rệt.
Một số kết quả ph n tích thực trạng áp dụng chương trình SXSH ở nước ta

Kết quả của 2 điều tra của CPI vào năm 2010 và 2015 đối với 63 Sở Công Thương và 9012
doanh nghiệp sản xuất cơng nghiệp trên tồn quốc và Báo cáo của Bộ Công Thương năm 2018 về
hiện trạng SXSH được thể hiện trong Bảng 3.1 (2) dưới đây:
Bảng 3.1. Mức độ hoàn thành mục tiêu chi n l ợc SXSH giai đoạn 2010-2020

Mục ti u chiến lƣợc

Mục ti u giai
o n

Hiện
tr ng
2010

Hiện tr ng 2015

Hiện
tr ng
năm
2018

20102015

20162020

Tỷ lệ doanh nghiệp công nghiệp có
nhận thức về sản xuất s ch hơn

50%


90%

28%

55%

75%

Tỷ lệ doanh nghiệp áp d ng sản
xuất s ch hơn giảm đư c tiêu th
n ng ư ng, nguyên nhiên liệu trên
m t đơn v sản ph m

25%

50%

11%

32%

35%

8-13%

Đa
d ng

Nguyên liệu, hóa chất: 1-92%; ước: 1-99%;
Than: 2-98%; DO: 1-70%; Điện: 1-68%;

Nhiên liệu sinh khối (củi, trấu): 3-61%; FO: 743%; X ng d u: 5-34%; Gas: 3-30%

-

90%

-

-

67%

90%

18%

73%

>90%

Mức đ giảm n ng ư ng, nguyên
5-8%
nhiên liệu trên m t đơn v sản ph m
Tỷ lệ doanh nghiệp v a và lớn có
b phận chuyên trách về ho t đ ng
sản xuất s ch hơn
Tỷ lệ Sở Công Thương c cán
chuyên trách đủ n ng c hướng
d n sản xuất s ch hơn cho công
nghiệp


70%

Ngu n: Tổng hợp từ Hợp phần Sản xuất sạch hơn trong Công nghiệp (CPI),
và tài liệu Tổng kết sản xuất sạch hơn của Bộ Công thương năm 2018

740


Một số kết quả phân tích hiện trạng SXSH ở nước ta tới năm 2018 theo kết quả điều tra của
CPI và Báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược sản xuất sạch hơn năm 2018 là:
Giai đoạn 2010-2015
Kết quả phân tích mức độ đáp ứng mục tiêu về tỷ lệ doanh nghiệp sản xuất cơng nghiệp có
nhận thức về SXSH.
Kết quả khảo sát năm 2015, có 55% doanh nghiệp sản xuất cơng nghiệp có biết về SXSH và
lợi ích của SXSH với mức độ nhận thức khác nhau, từ việc nghe nói đến SXSH đến việc thực hiện
áp dụng SXSH và thu được kết quả giảm định mức tiêu thụ nguyên, nhiên liệu đáp ứng mục tiêu
chiến lược. Trong đó có 92% các doanh nghiệp có nhận thức về lợi ích của việc áp dụng SXSH đều
nhận thức được lợi ích kinh tế và mơi trường của việc áp dụng SXSH. Số còn lại (8%) mới nhận
thức được SXSH mang lại lợi ích mơi trường cho doanh nghiêp. Kêt quả khảo sát cũng cho thấy
SXSH được biết đến tại tất cả các ngành sản xuất công nghiệp khảo sát (Mỏ và khai khống, thực
phẩm và đồ uống, cơng nghiệp nhẹ, hóa chất, vật liệu xây dựng, luyện kim, thiết bị, tái chế, tài
nguyên), không phân biệt quy mô (nhỏ, trung bình, lớn).
Về việc thực hiện mục tiêu đề ra về số cơ sở sản xuất công nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn,
giảm được tiêu thụ năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu trên một đơn vị sản phẩm
Kết quả khảo sát năm 2015, có 32% (mục tiêu đề ra là 25%) doanh nghiệp cho biết có áp
dụng SXSH, trong số đó có 24% cho biết đã giảm được tiêu thụ năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu
trên một đơn vị sản phẩm và 8% cho biết chưa thu được lợi ích nào rõ rệt. Nhóm 8% doanh nghiệp
này có thể không sẵn sàng cung cấp thông tin về mức tiêu hao nguyên nhiên liệu do ảnh hưởng đến
tính cạnh tranh.

Về việc đáp ứng mục tiêu: Giảm 5-8% năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu trên một đơn vị
sản phẩm
Kết quả khảo sát năm 2015, kết quả thực hiện mục tiêu này đa dạng, từ 0 đến 99% và ở tất cả
các lĩnh vực nguyên liệu, hóa chất, điện, nước, than, dầu.... Tính đến thời điểm khảo sát, có 34%
doanh nghiệp cho biết việc áp dụng SXSH đã giúp doanh nghiệp giảm tiêu thụ năng lượng, nguyên
nhiên liệu trên một đơn vị sản phẩm từ 5% trở lên, số 66% doanh nghiệp cịn lại có mức giảm tiêu
thụ năng lượng, ngun nhiên liệu trên một đơn vị sản phẩm chưa rõ rệt hoặc dưới 5%.
Để tăng tỷ lệ doanh nghiệp giảm mức tiêu thụ năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu trên một
đơn vị sản phẩm trong các năm tiếp theo, hoạt động hướng dẫn SXSH của Sở Công Thương và các
đơn vị tư vấn nên được hỗ trợ và tăng cường bằng các danh mục giải pháp tiết kiệm nước, điện,
than, dầu thông thường, đồng thời tăng cường việc thực hiện các mơ hình SXSH với các hỗ trợ tài
chính đầu tư công nghệ.
Về việc thực hiện vượt mục tiêu 70% Sở Cơng Thương có cán bộ chun trách có đủ năng
lực hướng dẫn SXSH trong công nghiệp
Kết quả khảo sát năm 2015 cho thấy, có 73% Sở Cơng Thương có cán bộ chuyên trách có năng
lực hướng dẫn sản xuất sạch hơn cho công nghiệp với các năng lực tương đối khác nhau, bao gồm 25%
Sở Cơng Thương có cán bộ vừa được đào tạo thực hành hướng dẫn doanh nghiệp, vừa có hoạt động
thực tế hướng dẫn doanh nghiệp tại địa phương và 48% Sở Cơng Thương hoặc là có cán bộ được đào
tạo thực hành hướng dẫn doanh nghiệp, hoặc là có hoạt động thực tế hướng dẫn doanh nghiệp.
741


Giai đoạn 2015-2018
Giai đoạn này, với việc tăng cường thực hiện các kế hoạch, chiến lược sản xuất sạch hơn và
tiêu dùng từ cấp quốc gia đến địa phương và các cơ sở sản xuất, kinh doanh, SXSH trong các ngành
công nghiệp và tiêu dùng bền vững đã được tăng cường, cụ thể như sau:
Chính phủ, các bộ, ngành đã ban hành hàng loạt các văn bản, các quyết định, xây dựng các chiến
lược quốc gia về phát triển bền vững, sản xuất sạch hơn và tiêu dùng bền vững. Chẳng hạn, ngày
10/5/2017, Chính phủ đã ra Quyết định số 622 về việc Ban hành kế hoạch hành động quốc gia thực hiện
chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững với 17 mục tiêu chung và 115 mục tiêu cụ thể để

phát triển bền vững sản xuất, tiêu dùng và đời sống kinh tế xã hội. Tiếp đó, một loạt các chương trình,
kế hoạch của bộ Cơng Thương và các địa phương đã được ban hành như: Quyết định 1788/ QĐ- BCT
ngày 23 tháng 5 năm 2018 của Bộ Công Thương về việc phê duyệt nhiệm vụ đặt hàng năm 2019 thực
hiện chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020; Ngày 30 tháng 11 năm 2019, Bộ
Công Thương đã ra Quyết định số 9140/TTr- BCT trình Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động
quốc gia về Sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021-2030; ban hành Quyết định 1833/QĐ-BCT,
ngày 13 tháng 7 năm 2020 về việc thành lập Văn phòng Sản xuất sạch hơn và tiêu dùng bền vững của
Bộ Công Thương; hàng loạt các quyết định, các kế hoạch hành động của các tỉnh, thành phố để triển
khai chiến lược sản xuất sạch hơn và tiêu dùng bền vững đến năm 2030.
Theo thống kê của Bộ Cơng Thương, tính đến hết năm 2017 trên cả nước đã có 41/63 địa
phương có đầu mối về SXSH. 35 địa phương ban hành Kế hoạch, chương trình thực hiện Chiến
lược SXSH. Đặc biệt, 22 địa phương đã ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược SXSH 2016 2020. Gần 100 trung tâm (khuyến công, tiết kiệm năng lượng, sản xuất sạch hơn, xúc tiến thương
mại, tư vấn phát triển công nghiệp) triển khai các hoạt động tư vấn, hướng dẫn thực hiện SXSH cho
các Doanh nghiệp.
Trong khuôn khổ các hoạt động của Chiến lược, Bộ Công Thương đã tổ chức hàng trăm hội
thảo, tập huấn với sự tham gia của trên 25.000 lượt người. Hàng nghìn bài báo, phóng sự và ấn
phẩm phổ biến SXSH đã được xây dựng ở cấp trung ương và địa phương.
Bộ Công Thương đã ban hành trên 20 hướng dẫn kỹ thuật về SXSH cho các ngành nghề khác
nhau; Thực hiện đánh giá nhanh cho 411 doanh nghiệp, đánh giá chi tiết cho 102 doanh nghiệp;
Xây dựng 02 mơ hình trình diễn. Ở cấp địa phương, đã hỗ trợ đánh giá nhanh 335 doanh nghiệp; Hỗ
trợ 88 mô hình áp dụng SXSH.(2)
Bộ Cơng Thương tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động nâng cao nhận thức và nâng cao năng lực
triển khai cho các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp; Hỗ trợ kỹ thuật và duy trì cơ sở dữ liệu
website về SXSH. Tổ chức khảo sát, đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược sản xuất sạch hơn trong
công nghiệp đến 2020, đề xuất các hoạt động cho giai đoạn 2021-2030. Nhằm hướng đến một nền
công nghiệp sản xuất sạch hơn, Bộ Công Thương sẽ xây dựng hệ thống đánh giá chứng nhận về
SXSH trong công nghiệp cho các doanh nghiệp trên cơ sở tự nguyện.
4.2. Đánh giá thực trạng triển khai SXSH phát triển bền vững tại Việt Nam
Một số kết quả đạt được
Dựa trên kết quả phân tích thực trạng Sản xuất sạch hơn ở Việt Nam trên đây và một số dữ

liệu thu thập được của các cơng trình nghiên cứu khác cho thấy, SXSH ở Việt Nam những năm qua
đã đạt được một số kết quả như sau:
742


Một, vấn đề SXSH và phát triển bền vững đã dành được sự quan tâm và đầu tư thích đáng từ
phía Nhà nước và các Bộ, Ban ngành.
Có thể khẳng định rằng, các lãnh đạo nhà nước đã hết sức quan tâm tới phát triển kinh tế đồng
thời với bảo vệ mơi trường. Điều đó được thể hiện qua việc tích cực tham gia các chương trình quốc
tế về phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Lãnh đạo nhà nước đã tham gia tích cực vào các diễn
đàn quốc tế, các hội nghị thượng đỉnh và cùng ký bản Tuyên ngôn quốc tế về SXSH và phát triển
bền vững để khẳng định cam kết trong việc thực hiện chiến lược SXSH theo tinh thần của UNEP.
Các tiếp cận về SXSH đã được triển khai ở mức thăm dò và nghiên cứu trình diễn và đánh giá nhận
thức tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Chiến lược cho việc SXSH và phát triển bền vững đã được
xây dựng và sau đó, một kế hoạch hành động đã được chỉ đạo cho bộ chuyên ngành soạn thảo và
ban hành và được triển khai trên khắp cả nước ngay từ năm 1999 đến nay một cách liên tục và rộng
khắp cả nước phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế và xu thế hội nhập toàn cầu.
Hai, đã hoàn thành hầu hết các mục tiêu chiến lược phát triển SXSH trong giai đoạn 20102015, tiến tới đạt mục tiêu các giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn 2030.
Theo kết quả phân tích thực trạng trên đây, chúng ta đã hồn thành vượt mức 4 mục tiêu trong số
5 mục tiêu chiến lược SXSH. Việc nghiên cứu, khảo sát tình hình triển khai SXSH trên diện rộng cả
nước thời gian qua cho thấy SXSH đã thực sự được quan tâm và đầu tư đúng đắn. Kế hoạch triển khai
được theo dõi, giám sát, điều tra, báo cáo tổng kết những thành cơng, hạn chế và tìm cơ hội cải tiến kết
quả hoạt động. Điều đó cho thấy, SXSH khơng chỉ là mối quan tâm của doanh nghiệp, của cộng đồng
mà còn là sự đầu tư thích đáng của Nhà nước và các cơ quan quản lý hữu trách nhằm tăng cường hiệu
quả sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm tài nguyên, giảm bớt những rủi ro cho doanh nghiệp, cho người lao
động và cho cộng đồng, đồng thời giảm thiểu tác động môi trường và phát triển bền vững.
Ba, việc phổ biến và xúc tiến áp dụng SXSH, các doanh nghiệp đã thu được những lợi ích
thiết thực.
Đa số các doanh nghiệp đã nhận thức sâu sắc về sự cần thiết và những lợi ích thiết thực của
việc SXSH như tiết kiệm về tiết kiệm nguyên, vật liệu, năng lượng, nước và giảm thiểu chất thải

ngay tại dây chuyền sản xuất đã giúp nhiều doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,
cải thiện môi trường lao động và giảm chi phí mơi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tn thủ
các tiêu chuẩn mơi trường, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp để hội nhập
vào nền kinh tế toàn cầu” (1). Do vậy, SXSH vừa là xu hướng phát triển tất yếu và là lựa chọn hàng
đầu của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Hạn chế và nguyên nhân
SXSH đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ trong thời gian qua, tuy nhiên việc triển
khai SXSH ở Việt Nam vẫn bộ lộ một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất, quá trình thực hiện và kết quả đạt được chưa đáp ứng mục tiêu và yêu cầu của
chiến lược SXSH trong công nghiệp đến năm 2020(1).
SXSH là vấn đề khơng mới, q trình thực hiện đã triển khai ở nhiều ngành và lĩnh vực cơng
nghiệp quan trọng, đã có nhiều doanh nghiệp điển hình thực hiện các biện pháp SXSH hiệu quả.
Tuy nhiên quá trình thực hiện và kết quả đạt được chưa đáp ứng mục tiêu và yêu cầu của chiến lược
SXSH trong công nghiệp đến năm 2020. Sở dĩ một số mục tiêu chưa đạt được là vì quá trình thực
hiện còn gặp phải những vướng mắc, cản trở, bao gồm cả những cản trở liên quan tới cơ chế, chính
sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp cơng nghiệp thực hiện các biện pháp SXSH.
743


Thứ hai, vẫn còn một số mục tiêu chiến lược chưa thể đánh giá được mức độ hoàn thành
trong giai đoạn vừa qua.
Chẳng hạn, mục tiêu chiến lược thứ tư, đó là đạt 90% doanh nghiệp vừa và lớn có bộ phận
chuyên trách về hoạt động sản xuất sạch hơn trong giai đoạn 2016-2020. Mục tiêu này được xác định
chưa cụ thể do đó khó đo lường trong q trình điều tra, khảo sát và đánh giá mức độ hoàn thành (2).
Thứ ba, vẫn còn nhiều cản trở trong việc thực hiện SXSH trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Dữ liệu điều tra cho thấy số lượng các doanh nghiệp chú trọng và quyết tâm triển khai SXSH
ở Việt Nam còn rất khiêm tốn. Có nhiều nguyên nhân cản trở việc cam kết và thực hiện của các
doanh nghiệp. Một trong những nguyên nhân là công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức và hướng
dẫn thực hiện còn chưa thực sự hiệu quả. Kiến thức và kỹ năng hướng dẫn của cán bộ quản lý tại
các sở, ban, ngành còn hạn chế. Một ngun nhân khác khơng kém quan trọng đó là nhận thức và ý

thức thực thi pháp luận của các chủ doanh nghiệp chưa thật cao. Cho nên vẫn cịn hiện tượng làm
ngơ trước những vấn nạn về mơi trường sinh thái, trong đó có cả việc trốn tránh thực thi những quy
định pháp luật và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với việc tổ chức kinh doanh thân thiện
với môi trường, giảm thiểu rủi ro cho chính doanh nghiệp, cho khách hàng và cho cộng đồng.
5. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TĂNG CƯỜNG SẢN XUẤT SẠCH HƠN ĐỐI VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM
Để SXSH thực sự được các doanh nghiệp quan tâm và thực hiện một cách hiệu quả, tôi xin đề
xuất một số kiến nghị sau đây.
iến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước
Một là, cần rà soát, xem xét đánh giá và rà soát lại các án và kế hoạch hành động đã triển khai
để tìm ra những vướng mắc trong quá trình thực hiện, có sự điều chỉnh kịp thời, bao gồm cả việc rà
sốt và hồn thiện các mục tiêu chiến lược. Các mục tiêu này cần được định nghĩa rõ hơn để thuận
tiện cho việc triển khai, giám sát và đo lường kết quả thực hiện trong thời gian tới cũng như xác
định các hoạt động phù hợp để thực hiện mục tiêu.
Hai là, xem xét đánh giá lại những ưu đãi khuyến khích đã có đối với SXSH trong cơng
nghiệp, từ đó có những giải pháp cụ thể và hiệu quả để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc chuyển giao
công nghệ;
Ba là, tăng cường hơn nữa hỗ trợ tư vấn của Nhà nước đối với hoạt động SXSH cho các
doanh nghiệp cơng nghiệp;
Bốn là, rà sốt đánh giá lại các văn bản đã có liên quan đến khuyến khích doanh nghiệp cơng
nghiệp áp dụng các biện pháp SXSH để bổ sung kịp thời;
Năm là, để chất lượng hướng dẫn doanh nghiệp áp dụng SXSH được nâng cao, qua đó tăng
mức tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu cho các doanh nghiệp cơng nghiệp, trong thời gian tới cần có
thêm các hoạt động tập huấn thực hành cho các cán bộ của Sở Công Thương, đặc biệt là các cán bộ
được chỉ định làm đầu mối SXSH tại địa phương, cũng như tạo điều kiện và kinh phí cho các cán
bộ này thu nhận thêm kinh nghiệm thực tế sau tập huấn về hướng dẫn SXSH, không chỉ là đánh giá
nhanh mà cịn bao gồm cả đánh gía chi tiết và triển khai mơ hình SXSH. Nhà nước cần hỗ trợ đào
tạo cán bộ kỹ thuật về SXSH cho các doanh nghiệp cơng nghiệp;
Sáu là, Chính phủ cần tiếp tục và tăng cường hơn nữa các hoạt động phổ biến SXSH như một
cơng cụ chính cho việc ngăn ngừa ơ nhiễm từ các cơ sở công nghiệp; Bộ Công thương, Sở Công

744


thương cần có cơ chế phối hợp với Bộ TN&MT, Sở TN&MT trong việc phổ biến SXSH tại các
doanh nghiệp;
Bảy là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và áp dụng SXSH; củng
cố mạng lưới hỗ trợ SXSH từ Trung ương tới địa phương, phân công đầu mối cụ thể trên địa bàn từng
địa phương; mở rộng các khóa đào tạo, tập huấn cho các doanh nghiệp về phương pháp kỹ thuật; tuyên
truyền, phổ biến kiến thức SXSH, các tài liệu hướng dẫn SXSH cho các ngành cơng nghiệp…
Về phía các doanh nghiệp, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, các doanh nghiệp cần có quan, nhận thức đúng đắn về sự cần thiết khách quan phải
triển khai chương trình sản xuất sạch hơn để theo kịp với xu thế hiện đại. Thực tế hiện nay việc áp
dụng SXSH trong các ngành công nghiệp trên địa bàn cả nước vẫn gặp nhiều khó khăn do nhận
thức của các doanh nghiệp (DN) về lợi ích của SXSH chưa cao. Nhiều DN cho rằng SXSH chỉ đơn
thuần liên quan đến vệ sinh mơi trường. Do đó lãnh đạo DN gần như khơng quan tâm, thậm chí cịn
cho rằng SXSH có thể gây tốn kém thêm cho DN.
Thứ hai, lãnh đạo doanh nghiệp cần có sự cam kết và trách nhiệm cao trong thực hiện SXSH,
với các mục tiêu không thay đổi, luôn xem xét lại quá trình tiến hành và phương thức thực hiện,
trên cơ sở thực hiện chiến lược phát triển công ty. Đồng thời, triết lý SXSH phải được đề cao trong
nội bộ công ty là sự hợp nhất trong các hoạt động. Cho tới nay tất cả các chương trình SXSH thành
cơng đều thực hiện theo ngun tắc này.
Thứ ba, cần chủ động tham gia chương trình SXSH quốc gia đến năm 2030 để tận cơ hội đầu
tư và hỗ trợ từ các chương trình này. Trong thực tế, nhiều DN cịn có tâm lý khơng muốn thay đổi
vì cho rằng họ vẫn hoạt động tốt mà không cần bất cứ sự can thiệp nào khác. Đồng thời họ chưa
thấy rõ những lợi ích trong việc thực hiện chương trình SXSH. Đây cũng chính là và lợi thế của
việc tiên phong, đi đầu trong một xu thế tất yếu để duy trì và phát triển bền vững trong mơi trường
kinh doanh hiện đại.
Thứ tư, cần tăng cường tập trung việc đầu tư nghiên cứu để đổi mới thiết bị, công nghệ, đưa
các công nghệ thiết bị hiện đại vào sản xuất, kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu năng suất,
chất lượng đồng thời bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Hiện nay, việc mở rộng áp dụng

SXSH trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là một yêu cầu khách quan trong tiến trình phát triển
kinh tế nước nhà. Tuy nhiên, rào cản kỹ thuật cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến việc
SXSH chưa thật sự đi vào sản xuất, kinh doanh của DN. Hiện nay, đa số DN trong cả nước là vừa
và nhỏ, trình độ khoa học - công nghệ của các DN trên địa bàn cả nước đều có điểm xuất phát thấp,
cơng nghệ sản xuất còn hạn chế nên việc triển khai thực hiện SXSH cần phải đi đôi với việc đầu tư
công nghệ kỹ thuật hiện đại cho phù hợp với xu thế phát triển.
Thứ năm, cần chuẩn bị nguồn lực cần thiết để triển khai tốt chương trình SXSH và phát triển
bền vững. Trong đó, chuẩn bị năng lực tài chính đủ mạnh để đầu tư cơng nghệ mới cho SXSH. Bên
cạnh đó, cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân viên nhằm nâng cao nhận thức, thái độ
sẵn sàng và có trách nhiệm cũng như nâng cao trình độ chun mơn. Đồng thời từng bước xây dựng
và duy trì một nền tảng văn hóa kinh doanh hiện đại để duy trì và phát triển kinh doanh bền vững
trong xu thế tồn cầu.
Tóm lại, việc áp dụng SXSH có vai trị vơ cùng quan trọng trong chiến lược phát triển bền
vững đối với các doanh nghiệp Việt Nam. SXSH vừa là phương pháp vừa là những công cụ hữu
745


hiệu để thực hành sản xuất tiết kiệm, hiệu quả và tránh được những rủi ro cho doanh nghiệp, cho
người tiêu dùng và cho cộng đồng dân cư. Đồng thời, SXSH cũng là chiến lược được ưu tiên lựa
chọn để phát triển bền vững không những đối với doanh nghiệp mà còn thúc đẩy phát triển bền
vững kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia và toàn thế giới. Do đó cần tăng cường hơn nữa những nỗ lực
tổng hợp của các cấp, các ngành để thúc đẩy SXSH tại các doanh nghiệp Việt Nam. Mỗi doanh
nghiệp cần nghiên cứu, đánh giá lại nguồn lực và từng bước thực hiện thành công SXSH để đạt
được thắng lợi trong kinh doanh và phát triển bền vững./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Công Thương (2019), Quyết định số 9140/TTr- BCT trình Chính phủ phê duyệt Chương
trình hành động quốc gia về Sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021-2030, ngày 30
tháng 11 năm 2019.
2. Bộ Công Thương (2018), Báo cáo Hội nghị về Sản xuất sạch hơn, Đà Nẵng ngày 6 tháng 7 năm 2018.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Kỷ yếu Hội thảo “Sản xuất sạch hơn - Bảo vệ mơi trường

và lợi ích doanh nghiệp”, Ngày 3 tháng 1 năm 2015
4. Chính phủ (2017), Quyết định số 622 về việc Ban hành kế hoạch hành động quốc gia thực hiện
chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, ngày 10 tháng 5 năm 2017
5. CPI (2015), Sản xuất sạch hơn ở toàn quốc, Kết quả điều tra hiện trạng Sản xuất sạch hơn, 2015.
6. Nguyễn Thị Hằng, Nguyễn Văn Huân (2011), Sản xuất sạch hơn và hướng đi mới cho cơng
nghiệp, Tạp chí Khoa học và Công nghệ số 87, 2011.
7. SXSH Việt Nam (2011), Tổng quan về Sản xuất sạch hơn, , (2011).
8. UNEP (2007), UNEP Cleaner Production Guidance Annual, 2007.

746



×