Tải bản đầy đủ (.docx) (185 trang)

Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 185 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ HOA LÊ

BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2020


TRẦN THỊ HOA LÊ

BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Chính trị học
Mã số: 9 31 02 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS, TS. Dương Xuân Ngọc

HÀ NỘI - 2020


iii

LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao nhất có thể. Các tài
liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng.
Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày…...tháng.......năm 2020
Tác giả

Trần Thị Hoa Lê


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Thứ tự

Chữ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

CQĐP

Chính quyền địa phương

2

CHXHCN

Cộng hịa xã hội chủ nghĩa

3


HĐND

Hội đồng nhân dân

4

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

5

QH

Quốc hội

6

UBND

Uỷ ban nhân dân


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN...................................................................................................i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN.................................. ii
MỤC LỤC.........................................................iiError! Bookmark not defined.
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, BẢNG...........................................................................v
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ LUẬN ÁN.......................................................................................................8
1.1. Các cơng trình nghiên cứu lý luận về bầu cử, bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân........................................................................................................ 8
1.2. Các cơng trình nghiên cứu về thực trạng, giải pháp bầu cử, bầu cử đại biểu
hội đồng nhân dân các cấp ở Việt Nam.......................................................20
1.3. Đánh giá kết quả các cơng trình đã cơng bố liên quan đến đề tài và những
nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu....................................................30
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN CÁC CẤP.......................................................................................34
2.1. Về Hội đồng nhân dân các cấp.............................................................34
2.2. Về bầu cử, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.........................43
2.3. Chất lượng và các nhân tố tác động đến chất lượng bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp...........................................................................64
Chương 3: THỰC TRẠNG BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
CÁC CẤP Ở VIỆT NAM....................................................................................71
3.1. Thực trạng xác lập những quy định pháp lý về bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp..........................................................................................71
3.2. Thực trạng sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng và sự quản lý của chính quyền
đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp....................................77
3.3. Thực trạng về sự tham gia của công dân và vai trò của các tổ chức bầu cử,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các
cấp 88


3.4. Thực trạng công tác tuyên truyền, vận động bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp.................................................................................................. 99
3.5. Thực trạng thực hiện quy trình, thủ tục bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp ở nước ta.......................................................................................106
3.6. Nguyên nhân của thực trạng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ở

nước ta hiện nay........................................................................................ 114
Chương 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BẦU CỬ ĐẠI BIỂU
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP NHỮNG NHIỆM KỲ TỚI...................119
4.1. Đổi mới, hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp 119
4.2. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự quản lý của chính quyền
các cấp đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

125

4.3. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của cơng dân; phát huy vai trị của các tổ
chức bầu cử, Mặt trận tổ quốc đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp. 131
4.4. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp................................................................139
4.5. Hồn thiện quy trình, thủ tục bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. 144
4.6. Kế thừa, tiếp thu có chọn lọc các giá trị, kinh nghiệm quốc tế về bầu cử phù
hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam..........................................146
KẾT LUẬN...................................................................................................... 154
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN....................................................................156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BIỂU ĐỒ, BẢNG

Biểu đồ 2.1. Kết quả tỷ lệ lựa chọn đánh giá các nhân tố tác động đến bầu cử đại
biểu HĐND..................................................................................... 69
Biểu đồ 3.1. Kết quả tỷ lệ trả lời Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực ở đâu?

............................................................................................................................. 95
Biều đồ 3.2. Kết quả tỷ lệ lựa chọn phương tiện tiếp cận thông tin về bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp....................................................100
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ tham gia hoạt động tìm hiểu và tiếp xúc cử tri trước khi tiến
hành bỏ phiếu bầu cử đại biểu HĐND các cấp của công dân.......104
Bảng 4.1. Kết quả tỷ lệ khảo sát giải pháp nâng cao chất lượng bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp ở Việt Nam hiện nay..........................132


8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền lực chính trị là phạm trù cơ bản, giữ vị trí trung tâm của chính trị
học. Chính vì vậy mà chính trị học là khoa học của các quy luật, tính quy luật về
đấu tranh giai cấp xoay quanh việc giành, giữ, tổ chức, thực thi và kiểm sốt
quyền lực chính trị trong xã hội được tổ chức thành nhà nước. Ngày nay, nếu coi
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là cái đích mà các chủ thể chính trị đều
hướng đến thì bầu cử chính là con đường để đi đến cái đích quyền lực đó.
Là một trong những chế định quan trọng trong hoạt động chính trị, bầu cử
là quá trình đưa ra quyết định của người dân để chọn ra các cá nhân có những
điều kiện cần và đủ để nắm giữ các chức vụ của chính quyền nhà nước. Bầu cử
được xem là cơ chế thông qua đó, các nền dân chủ đương đại phân bổ chức vụ
trong bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp và ở chính quyền địa phương của các
quốc gia. Là cơ sở pháp lý cho việc hình thành ra các cơ quan đại diện cho
quyền lực nhà nước, bầu cử có một vị trí quan trọng trong nền chính trị đương
đại.
Có thể khái qt các mơ hình bầu cử trên thế giới đương đại, ngoại trừ tính
đặc thù, bao gồm ba mơ hình tiêu biểu: Mơ hình bầu cử của thể chế quân chủ
(gồm quân chủ đại nghị, quân chủ cộng hịa); mơ hình bầu cử của thể chế cộng
hịa tổng thống và mơ hình bầu cử của thể chế hỗn hợp. Nhìn vào thể chế bầu cử

người ta có thể hiểu được sự phát triển cũng như trình độ văn minh của một chế
độ chính trị - xã hội nói chung và thể chế chính trị của các quốc gia nói riêng.
Cũng chính qua đây, tính chất dân chủ của hệ thống chính trị được thể hiện rõ
nét, vì thơng qua hoạt động bầu cử, các cơ chế giành, giữ và thực thi quyền lực
chính trị được bộc lộ một cách sâu sắc nhất.
Trong nền chính trị hiện đại, các cuộc bầu cử tự do và cơng bằng chính là
phương thức để đảm bảo cho việc tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của công
dân, bởi thuật ngữ bầu cử ln gắn bó mật thiết với khái niệm dân chủ. Trong
một nền dân chủ, quyền lực của nhà nước chỉ được thực thi khi có sự nhất trí của
người dân. Cơ chế căn bản để chuyển sự nhất trí đó thành quyền lực nhà nước là
tổ chức bầu cử tự do và công bằng.


Được tiến hành lần đầu tiên vào 06/01/1946, tại Việt Nam, các cuộc bầu cử
nói chung và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp có một vị trí
quan trọng, là phương thức thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân trong việc xây dựng nhà nước nói chung và cơ quan đại diện – cơ quan
quyền lực nhà nước từ Trung ương đến địa phương ở nước ta nói riêng. Bầu cử
chọn ra các đại biểu đại diện nắm giữ các chức vụ trong cơ quan dân cử của
chính quyền theo quy định của hiến pháp và pháp luật. Việc bầu cử ở Việt Nam
hiện nay bao gồm bầu cử Quốc hội (ở Trung ương) và bầu cử đại biểu HĐND
các cấp (ở địa phương). Như Điều 6 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã khẳng
định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân
chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của
Nhà nước” [27].
Thông thường, các cuộc bầu cử được tiến hành khi các cơ quan dân cử (cơ
quan quyền lực nhà nước) hết nhiệm kỳ. Theo quy định của Hiến pháp năm
2013, nhiệm kỳ của Quốc hội (QH) mỗi khóa là năm năm, tương tự, năm năm
cũng là nhiệm kỳ của HĐND các cấp. Chính vì vậy, cứ năm năm một lần, đất
nước ta lại định kỳ tiến hành bầu cử QH và HĐND các cấp.

Hội đồng nhân dân ở nước ta được thành lập từ cuối năm 1945 theo Sắc
lệnh số 63 ngày 22 tháng 11 năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa (lúc đó là Hồ Chí Minh). Theo sắc lệnh này, HĐND
được thành lập ở cấp xã và tỉnh bằng hình thức bầu trực tiếp của nhân dân với
nhiệm kỳ khi đó chỉ 2 năm. Theo điều 1 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân (năm 2003) quy định: "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên” [73].
Hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị, phát huy
dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân và vì
dân” thích ứng với đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh “Tiếp
tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh


đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị...” [10]. Nhiệm vụ này
đặt ra yêu cầu phải đổi mới, hoàn thiện thể chế bầu cử, trong đó có bầu cử đại
biểu HĐND các cấp theo hướng đẩy mạnh phân quyền, phân cấp, bảo đảm tính
thực quyền cho HĐND các cấp. Bởi thông qua các cuộc bầu cử đại biểu QH và
đại biểu HĐND, quyền công dân, quyền làm chủ của dân được thể hiện đúng với
bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Mọi quyền lực thuộc về
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Từ năm 2001, Đảng ta đã chỉ rõ cần phải
“Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, hoàn thiện
những qui định về bầu cử, ứng cử và tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân trên cơ sở thật sự phát huy dân chủ”. Để thực hiện được các mục tiêu
này, một trong những giải pháp quan trọng, là xây dựng và cơ chế dân chủ, thực
hiện quyền dân chủ của người dân thông qua hoạt động bầu cử nói chung và bầu
cử đại biểu HĐND nói riêng. Bởi thực tế cho thấy, hoạt động bầu cử đại biểu
HĐND các cấp ở nước ta mặc dù diễn ra rất sôi nổi, thu hút được đông đảo

người dân tham gia, song vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế nhất định đang đặt ra và
đòi hỏi phải giải quyết.
Xuất phát từ những yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn trên, việc nghiên cứu
đề tài “Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ở Việt Nam hiện nay” có ý
nghĩa quan trọng trong việc đánh giá và nhìn nhận đúng đắn cơ sở lý luận về bầu
cử đại biểu HĐND các cấp ở Việt Nam. Phân tích thực trạng hoạt động này để chỉ
ra được những thành tựu và hạn chế để đề xuất những giải pháp phù hợp nâng cao
chất lượng của hoạt động bầu cử nói chung và bầu cử đại biểu HĐND nói riêng.
Từ đó, phát huy quyền và nghĩa vụ công dân trong việc bầu ra những đại biểu
xứng đáng đại diện cho ý chí và nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân
trong cơ quan quyền lực nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước
ta trong thời gian tới.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về bầu cử và bầu cử đại biểu
HĐND các cấp; đánh giá thực trạng của hoạt động bầu cử đại biểu HĐND các


cấp ở Việt Nam, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
bầu cử đại biểu HĐND các cấp ở Việt Nam những nhiệm kỳ tới.
2.2. Nhiệm vụ
Để hồn thành mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ:
1) Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
2) Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về HĐND các cấp và bầu
cử đại biểu HĐND các cấp
3) Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động bầu cử đại biểu HĐND các
cấp ở Việt Nam.
4) Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bầu cử đại biểu HĐND
các cấp ở Việt Nam những nhiệm kỳ tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án đó là những vấn đề lý luận và thực
tiễn về bầu cử đại biểu HĐND các cấp ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung của Luận án tập trung nghiên cứu hoạt động bầu cử đại biểu HĐND
các cấp ở Việt Nam.
- Không gian nghiên cứu của Luận án: Hoạt động bầu cử đại biểu HĐND các cấp
ở Việt Nam (cấp tỉnh, huyện, xã)
- Thời gian nghiên cứu của Luận án: Luận án nghiên cứu hoạt động bầu cử đại
biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ: 2011 – 2016; 2016 – 2021 (từ 2011 đến nay)
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận của luận án
Luận án dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng về bầu cử, bầu cử đại biểu HĐND các cấp.
Bên cạnh đó, luận án cũng tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu về
bầu cử đại biểu HĐND các cấp của các cơng trình nghiên cứu đã công bố.
Luận án cũng sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu của một số lý thuyết về bầu
cử; lý thuyết dân chủ chính trị; lý thuyết về chủ quyền nhân dân; lý thuyết về xây
dựng nhà nước pháp quyền, về tự do, dân chủ, quyền con người…


4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận
Trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
triết học Mác – Lênin, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp phân tích theo hệ thống, phương
pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp Logic- lịch sử; phương pháp so
sánh để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra trong Luận án.
Chương 1: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
phương pháp phân tích tài liệu nhằm chỉ ra những giá trị mà các kết quả nghiên

cứu đạt được, so sánh và khái quát thành những đánh giá và quan điểm của tác
giả về vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Để xây dựng khung lý thuyết, tác giả luận án sử dụng các
phương pháp phân tích theo hệ thống, phương pháp kết hợp lý luận với thực
tiễn; phương pháp so sánh, tổng hợp.
Chương 3: Để đánh giá thực trạng hoạt động bầu cử đại biểu HĐND các
cấp, tác giả luận án sử dụng phương pháp logic - lịch sử, phân tích, so sánh,
phương pháp nghiên cứu hệ thống; phương pháp cấu trúc chức năng, phương
pháp thống kê để đánh giá thực hiện cơ chế pháp lý thực hiện hoạt động bầu cử
đại biểu tại HĐND các cấp. Đặc biệt là phương pháp điều tra xã hội học, lấy địa
bàn khảo sát điểm là thành phố Hà Nội, thực hiện với 480 phiếu. Với phương
pháp và kết quả nghiên cứu này đã được tác giả sử dụng trong các nội dung
thuộc chương 3 và chương 4 của luận án.
Chương 4: Tác giả sử dụng phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp, lý
thuyết hệ thống nhằm chỉ ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của
hoạt động bầu cử đại biểu HĐND ở Việt Nam trong thời gian tới.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án đã đóng góp một phần vào xây dựng hướng nghiên cứu mới và rõ
hơn về bầu cử đại biểu HĐND các cấp ở Việt Nam trên các nội dung:
- Luận án nghiên cứu các cơng trình về bầu cử làm cơ sở trình bày có hệ thống cơ
sở lý luận về hoạt động bầu cử gồm: khái niệm; vai trò, nguyên tắc. Xây dựng
khung lý thuyết về nguyên tắc, nội dung, quy trình bầu cử đại biểu HĐND, các
nhân tố tác động; vai trò của bầu cử đại biểu HĐND các cấp.


- Trên cơ sở phân tích, đánh giá quy trình, nội dung hoạt động bầu cử đại biểu
HĐND các cấp ở Việt Nam đặc biệt chỉ ra bất cập, hạn chế trong hoạt động này
cần xử lý giải quyết trong quá trình nâng cao hoạt động bầu cử, bầu cử đại biểu
HĐND các cấp.
- Luận án đề xuất hệ giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bầu cử đại biểu

HĐND ở Việt Nam trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu phát huy vai trò của
HĐND và dân chủ hóa xã hội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án là cơng trình có ý nghĩa trên các mặt sau đây:
6.1. Về lý luận
Những kết quả nghiên cứu và đóng góp mới của luận án góp phần trong
việc hệ thống hố các thơng tin, các quan điểm, các học thuyết về chế độ bầu cử
nói chung và bầu cử HĐND ở Việt Nam nói riêng, từ đó góp phần làm sáng tỏ
và phong phú thêm những vấn đề lý luận về hoạt động bầu cử HĐND và thực tế
việc hoàn thiện cơ chế bầu cử HĐND các cấp ở nước ta.
Luận án là cơng trình có ý nghĩa trong việc góp phần bổ sung những kiến
thức lý luận về vị trí, vai trị, quy trình bầu cử đại biểu HĐND giúp người đọc
thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động này trong việc thực hiện
quyền lực nhân dân, thực hành dân chủ và trong quá trình thành lập, hoạt
động của nhà nước.
6.2. Về thực tiễn
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với các nhà nghiên cứu,
hoạch định chính sách, quản lý hoặc giảng dạy về chính trị học, về nhà nước và
pháp luật.
Kết quả luận án có thể được sử dụng phục vụ cho hoạt động đào tạo học
viên cao học, sinh viên đại học tại các cơ sở đào tạo ngành chính trị học và các
ngành khoa học xã hội có liên quan.
Những kết quả nghiên cứu và kết luận rút ra từ luận án có thể được các cơ
quan hữu quan từ trung ương đến địa phương sử dụng làm luận cứ khoa học, tài
liệu tham khảo phục vụ việc đề ra các giải pháp phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, trong nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung (hoặc xây dựng mới) các Luật bầu
cử nói chung và bầu cử đại biểu HĐND ở nước ta trong thời gian tới.


7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu nghiên cứu. Luận án
gồm 4 chương, 18 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Một số vấn đề lý luận về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Chương 3: Thực trạng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ở Việt Nam
Chương 4: Giải pháp nâng cao chất lượng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp ở Việt Nam nhưng nhiệm kỳ tới.


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ LUẬN ÁN
1.1. Các cơng trình nghiên cứu lý luận về bầu cử, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu lý luận về bầu cử
Trên phạm vi thế giới, các cuộc bầu cử dân chủ bắt đầu được tổ chức từ thế
kỷ 17 ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Và ngay khi hoạt động này được tiến hành thì
những nghiên cứu về bầu cử của các nhà khoa học cũng ra đời. Bầu cử được
xem là hoạt động gắn liền với chế độ dân chủ đại diện, nên vai trị của nó được
đề cao trong các nền dân chủ đương đại. Tính đến nay, số lượng cơng trình
nghiên cứu về bầu cử nói chung khá phong phú và đa dạng.
Có thể kể đến một số ấn phẩm tiêu biểu về bầu cử của các học giả nước
ngoài như:
Nghiên cứu của tập thể các tác giả Mark Anstey, Christopher Bennett,
David Bloomfield, K. M. de Silva, Nomboniso Gasa, Yash Ghai, Peter Harris,
Luc Huyse, Rasma Karklins, Michael Lund, Charles Nupen, David M. Olson,
Anthony J. Regan, Ben Reilly, Andrew Reynolds, Carlos Santiso và Timothy D.
Sisk (1998) với ấn phẩm “Democracy and Deep-Rooted Conflict: Options for
Negotiators” do International IDEA (International Institute for Democracy and
Electoral Assistance – Viện Quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử) xuất bản. Trên

cơ sở làm rõ bốn vấn đề của các chế độ chính trị - xã hội hiện nay: (1) – Bản
chất thay đổi của xung đột và quản lý xung đột; (2) – Phân tích xung đột; (3)
Quy trình đảm phán; (4) Các đòn bẩy dân chủ để quản lý xung đột Các nhà
nghiên cứu của cơng trình này chỉ rõ rằng, việc lựa chọn một chế độ bầu cử phù
hợp đối với từng quốc gia có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết mang
tính gốc rễ các xung đột xã hội bằng phương pháp hịa bình.
Denis Petit (2000), Resolving Election Disputes in the OSCE Area:
Towards a Standard Election Dispute Monitoring System, ODIHR Rule of Law
Expert, Warsaw, 2000, © OSCE/ODIHR. Tác giả cho rằng, trong những năm


gần đây, cộng đồng quốc tế ngày càng tập trung vào các cuộc tranh chấp bầu cử.
Điều này xuất phát từ kết quả của những tranh cãi về các hoạt động bầu cử chính
trị và cảm giác khơng tin tưởng vào các thủ tục khiếu nại và khiếu nại ở nhiều
quốc gia. Khơng chỉ có hệ thống tư pháp và các cơ quan bầu cử mâu thuẫn với
nhau mà sự khác biệt và sơ sở trong luật pháp của các quốc gia cũng là nguyên
nhân dẫn đến việc không rõ ràng trong việc giải quyết các khiếu nại của cử tri.
Chính vì vậy, Báo cáo đã dựa trên kết quả của Chương trình Tiêu chuẩn Bầu cử
quốc tế của OSCE cho các tổ chức dân chủ và quyền con người (1998) nhằm
phác thảo các phương pháp tối ưu nhất trong việc giải quyết các tranh chấp,
xung đột trong quá trình bầu cử và sau bầu cử taị các quốc gia.
Các nhà nghiên cứu của International IDEA bao gồm: Andrew Reynolds,
Ben Reilly and Andrew Ellis With José Antonio Cheibub, Karen Cox, Dong
Lisheng, Jørgen Elklit, Michael Gallagher, Allen Hicken, Carlos Huneeus,
Eugene Huskey, Stina Larserud, Vijay Patidar, NigelS. Roberts, Richard
Vengroff, Jeffrey A. Weldon, là đồng tác giả xuất bản ấn phẩm của chuyên khảo
“Electoral System Design: The New International IDEA Handbook” (2005). Đây
là cơng trình nghiên cứu chun sâu rất tiêu biểu về chế độ bầu cử. Cuốn sách
này đề cập một cách trực tiếp và toàn diện đến những vấn đề lý luận, thực tiễn
về hệ thống bầu cử ở 213 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới ở góc độ khái

quát nhất về các hệ thống bầu cử phổ biến trên thế giới dựa trên tiêu chí của đơn
vị bầu cử; phân tích những ưu điểm, những hạn chế của từng hệ thống bầu cử.
Dựa trên cơ sở về đơn vị bầu cử, cuốn sách giới thiệu chế độ bầu cử của một số
nước điển hình.
Nhận thấy những hạn chế nhất định của phụ nữ trong việc tham gia vào các
hoạt động và vị trí quyền lực trong hoạt động chính trị trên thế giới, Ấn phẩm
“Women and Elections: Guide to Promoting the Participation of Women in
Elections” (2005) do Liên hợp quốc xuất bản. Trên cơ sở việc nhìn thấy sự hạn
chế nhất định của phụ nữ trong các cơ quan dân biểu và trong hệ thống chính trị,
Nghiên cứu của Liên hợp quốc như một cẩm nang hướng dẫn việc thúc đẩy, tăng
cường mở rộng sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động bầu cử sau các xung đột
chính trị - xã hội tại các quốc gia.


Andrew Kaplan, IFES Consultant (2005), “A Guide Transparency in
Election Administration”. Cuốn sách sách của tác giả có giá trị như một cẩm
nang cung cấp các thông tin nhằm phục vụ cho việc triển khai nguyên tắc minh
bạch trong quá trình bầu cử và quản lý bầu cử. Theo đó, tác giả khẳng định tính
minh bạch rất cần thiết trong quá trình bầu cử vì nó giúp loại bỏ sự xuất hiện của
khả năng gian lận trong bầu cử, làm cho các cuộc bầu cử trở nên “tự do và công
bằng” hơn. Tác giả cũng nói đến hai cách thức để góp phần minh bạch hơn trong
q trình bầu cử đó là phải rõ ràng, minh bạch ngay trong các điều khoản của bầu
cử, thứ hai là đi kèm với luật về bầu cử, quy tắc trong quá trình bầu cử phải ln
có sự theo dõi, giám sát của các viên chức, cơ quan quản lý bầu cử.
John S. And Jame L. Knight (2005), Buiding Confidence in U.S Election
Report of the Commission on Federal Election Reform, September. Cuốn sách
với dung lượng 113 trang đã cung cấp một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về
cách thức xây dựng niềm tin trong các cuộc bầu cử tại Mỹ của Uỷ ban cải cách
bầu cử Liên bang. Cơng trình đã nêu lên 10 vấn đề quan trọng trong quá trình
bầu cử tại Mỹ bao gồm: Mục tiêu và thách thức đối với chế độ bầu cử; Đăng

ký và Nhận diện cử tri; Công nghệ bầu cử; Cách thức để mở rộng quyền truy
cập bầu cử; Cải thiện sự toàn vẹn của phiếu bầu cử; Quản lý bầu cử; Phạm vi
truyền thông trong bầu cử. Giám sát bầu cử; Lựa chọn các ứng cử viên và Tổng
tuyển cử.
Nghiên cứu của tác giả Guy S. Goodwin - Gill với cuốn sách “Free and
Fair Elections-New Expanded Edition” (2006), do Liên minh Nghị viện thế giới
xuất bản, dưới sự tài trợ của International IDEA. Cơng trình nghiên cứu đã dựa
trên trên cơ cở các văn kiện quốc tế, đặc biệt là Tuyên bố về tiêu chuẩn cho bầu
cử tự do và công bằng (The Declaration on Criteria for Free and Fair Elections)
do Liên minh Nghị viện thế giới thông qua tại phiên họp lần thứ 154 vào ngày
26/3/1994 tại Paris làm cơ sở để mang phân tích và mang đến một cái nhìn
tương đối tồn diện về bầu cử tự do và cơng bằng. Cơng trình cũng nói đến các
biểu hiện cụ thể của hoạt động bầu cử dưới dạng các quyền, nghĩa vụ của các
ứng cử viên, các đảng phái chính trị, các cách thức tổ chức bầu cử, trách nhiệm
và đảm bảo của nhà nước cho bầu cử tự do và công bằng.


Các học giả Alan Wall, Andrew Ellis, Ayman Ayoub, Carl W. Dundas,
Joram Rukambe, Sara Staino (2006) với cơng trình “Electoral Management
Design: The International IDEA Handbook”. Cuốn sách khẳng định: Sự lựa
chọn của hệ thống bầu cử là một trong những quyết định thể chế quan trọng đối
với bất kỳ nền dân chủ nào. Trong hầu hết các trường hợp, sự lựa chọn của một
hệ thống bầu cử cụ thể có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị tương lai
của đất nước; Từ đó, nghiên cứu đã đề cập đến các cách thức tổ chức bầu cử,
những nguyên tắc tổ chức, quản lý để các cuộc bầu cử đảm bảo tính khách
quan, trung thực.
Judith Large, Timothy D. Sisk (2006) thể hiện trong tác phẩm “Democracy,
Conflict and Human Security: Pursuing Peace in the 21st Century”. Nội dung
của cơng trình nghiên cứu chia thành hai tập, trong đó tập 1 các tác giả đi vào
khám phá các cách thức thực hành dân chủ có thể góp phần vào việc quản lý

xung đột đương thời và thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu an ninh và phát
triển. Tập 2 tập trung vào vấn đề bầu cử trong đóc các tác giả bàn về Vai trò
của chế độ bầu cử trong việc phát huy dân chủ, xây dựng xã hội đồng thuận,
đảm bảo quyền con người.
Tác giả David Beetham(2006) thông qua

tác phẩm “Parliament and

Democracy in The Twenty- First Century a Guide to Good Practice”(2006). Đây
là một cuốn sách có giá trị như một cuốn cẩm nang đã cung cấp một cái nhìn
tồn diện và có hệ thống về vai trị trung tâm của nền dân chủ đó là Nghị viện
(Quốc hội) đã phân tích vai trị của Nghị viện ( Quốc hội) - sản phẩm của chế độ
bầu cử trong việc thực thi dân chủ với 5 tiêu chí đó là: tính đại diện, minh bạch,
gần gũi, có trách nhiệm và hiệu quả.
Ở Việt Nam, chế độ bầu cử phổ thông xuất hiện khi Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà ra đời vào 2/9/1945. Từ đó cho đến nay, bàn về bầu cử chính
trị nói chung và bầu cử ở Việt Nam nói riêng bao gồm bầu cử Đại biểu quốc hội
và bầu cử đaị biểu Hội đồng nhân dân các cấp được các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu và các học giả giành nhiều thời gian và công sức nghiên cứu với các
cơng trình, bài viết rất đa dạng và phong phú. Có thể kể đến những cơng trình
tiêu biểu như:


Vũ Hồng Anh (1997), “Chế độ bầu cử của một số nước trên thế giới”,
NXB chính trị quốc gia Hà Nội. Trong cuốn sách giả Vũ Hồng Anh đã làm rõ
khái niệm cơ bản đó là bầu cử và chế độ bầu cử: “Bầu cử là thủ tục mà theo đó,
một nhóm người xác định (nhân dân, cử tri, tập thể, cá nhân) bầu ra một hay
nhiều người để thực hiện chức năng xã hội nào đó”; Cịn chế độ bầu cử là tổng
thể các quan hệ xã hội có trật tự gắn với cuộc bầu cử vào cơ quan nhà nước
Trung ương và địa phương. Những quan hệ xã hội này hợp thành trình tự bầu

cử. Bên cạnh đó, cũng trong cơng trình nghiên cứu này, Tác giả Vũ Hồng Anh
đã giới thiệu khái quát về các nguyên tắc cơ bản trong bầu cử cùng các phương
pháp phân ghế đại biểu… để từ đó làm nền tảng cơ sở cho việc trình bày về
chế độ bầu cử, của các 15 quốc gia điển hình trên thế giới như Anh, Ấn Độ,
Áo, Bỉ, Bồ Đào Nha…
Khoa Chính trị học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, “Chính trị học Việt
Nam”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009. Trong cuốn sách, ở chương 5 về
Đặc điểm thể chế chính trị Việt Nam hiện nay, bên cạnh việc phân tích về hiến
pháp, Đảng Cộng sản Việt Nam, thể chế Nhà nước, các Đoàn thể nhân dân, các
tác giả cũng đã bàn đến thể chế bầu cử của nước ta. Trong đó nêu rõ các nguyên
tắc bầu cử bao gồm: nguyên tắc phổ thông, nguyên tắc bầu cử trực tiếp, nguyên
tắc bỏ phiếu kín; ngun tắc bình đẳng; tiến trình của một cuộc bầu cử bao gồm
các giai đoạn: thứ nhất, ấn định ngày bầu cử; thứ hai, thành lập hội đồng bầu cử;
thứ ba, phân chia các đơn vị bầu cử; thứ tư, giới thiệu ứng cử viên; thứ năm, quá
trình thành lập danh sách cử tri; thứ sáu, tiến hành bỏ phiếu; thứ bảy, kiểm phiếu
và xác định kết quả bầu cử. Về bãi miễn đại biểu, khi có quá nửa tổng số cử tri
đơn vị bầu cử bỏ phiếu bãi nhiệm, hoặc 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội (đối với
đại biểu Quốc hội) hoặc Hội đồng nhân dân (đối với đại biểu Hội đồng nhân
dân) bỏ phiếu bãi nhiệm.
Lưu Văn Quảng (2009): “Hệ thống bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp – lý thuyết
và hiện thực” NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nội dung cuốn sách gồm ba
chương, chương 1 tác giả đã trình bày khái quát về những vấn đề lý luận về hệ
thống bầu cử ở các nước phương tây như: khái niệm hệ thống bầu cử; chức năng
của hệ thống bầu cử trong nền chính trị phương Tây hiện đại; các nguyên tắc và


trình tự tiến hành bầu cử; các hệ thống bỏ phiếu chính; hệ thống bỏ phiếu và
những hệ quả chính trị của nó. Chương 2, tác giả đã phân tích hoạt động bầu cử ở
Anh, Mỹ và Pháp từ giai đoạn tổ chức và trình tự tiến hành bầu cử; các nhân tố tác
động đến quá trình bầu cử; hành vi bầu cử của cử tri cùng những đặc trưng của

những người được bầu. Trên cơ sở đó, chương 3 tác giả nêu lên những giá trị phổ
biến, những hạn chế của hệ thống bầu cử ở Anh, Mỹ, Pháp và những gợi mở cho
việc đổi mới và hoàn thiện công tác bầu cử ở Việt Nam.
Vũ Văn Nhiêm (2009), “Chế độ bầu cử ở nước ta những vấn đề lý luận và
thực tiễn", luận án Tiến sỹ ngành Lịch sử Nhà nước và Pháp luật. Trên cơ sở
phân tích cơ sở lý luận về chế độ bầu cử trong xã hội dân chủ nói chung và ở
Việt Nam nói riêng về: khái niệm, bản chất, vai trò của chế độ bầu cử; những nội
dung cơ bản của chế độ bầu cử, như những nguyên tắc bầu cử, quyền bầu cử,
ứng cử, hiệp thương giới thiệu người ứng cử, vận động bầu cử, đơn vị bầu cử,
các tổ chức phụ trách bầu cử, phương pháp xác định kết quả bầu cử. Tác giả Vũ
Văn Nhiêm đã phân tích sự phát triển của chế độ bầu cử ở nước ta từ cuộc tổng
tuyển cử bầu quốc dân đại hội năm 1946 đến nay. Căn cứ vào những vấn đề lý
luận này, đặc biệt là các nguyên tắc đã bầu cử, tác giả Vũ

Văn Nhiêm làm rõ

những thành tựu trong việc xây dựng, củng cố chính quyền nhân dân từ cuộc
tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 đến nay và những vấn đề còn tồn tại còn bất cập
của chế độ bầu cử nước ta hiện nay. Ở chương 3, tác giả phân tích tính tất yếu
khách quan về sự đổi mới chế độ bầu cử, phương hướng đổi mới và hoàn thiện
chế độ bầu cử, những giải pháp hoàn thiện chế độ bầu

cử trong điều kiện phát

huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, phù hợp với điều kiện,

hồn cảnh của nước ta.

Bùi Hải Thiêm (2011), “So sánh một số hệ thống bầu cử trên thế giới”,

Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 4/2011. Trên cơ sở khẳng định trong các nền dân
chủ đại diện hiện đaị, bầu cử là cơ chế phổ biến nhất để chọn lưạ ra người đại
diện vào nắm giữu vị trí cơng quyền, thực thi quyền lực nhà nước. Theo tác giả,
xét tổng quan trên thế giới, các hệ thống bầu cử rất đa dạng và khác nhau theo
từng quốc gia. Tuy nhiên, dù có sự đa dạng như vậy, nhưng về đại thể, các hệ


thống bầu cử có thể được phân loại thành hai nhóm lớn là hệ thống bầu cử theo
quy tắc tỉ lệ đại diện (Proportional Representation – PR) và hệ thống bầu cử theo
quy tắc lấy đa số. Trên cơ sở phân tích và so sánh hai hệ thống bầu cử này, tác
giả rút ra kết luận, hai hệ thống bầu cử phổ biến trên thế giới này đều có những
lợi thế và khiếm khuyết nhất định. Do đó, các quốc gia nên cố gắng thiết kế hệ
thống bầu cử của mình bằng cách khai thác tối đa những lợi thế của cả hai hệ
thống và giảm thiểu điểm khiếm khuyết của chúng.
Vũ Văn Nhiêm (2013), giáo trình“Bầu cử trong nhà nước pháp quyền”,
Trường Đại học Luật, TP. Hồ Chí Minh. Với cơng trình này, tác giả đã làm rõ
những vấn đề lý luận về bầu cử, trong đó nêu lên khái niệm và bản chất của bầu cử,
nguyên tắc bầu cử đương đại phổ biến, quyền bầu cử, ứng cử, đơn vị bầu cử; các tổ
chức phụ trách bầu cử trong nhà nước pháp quyền. Tác giả cũng phân tích những
vai trò của bầu cử trong nhà nước pháp quyền như: hợp pháp hố chính quyền, là
nền tảng của dân chủ, là cơng cụ điều khiển mạnh mẽ của chính trị, công cụ quan
trọng của nhân dân trong việc giám sát và thực hiện quyền lực nhà nước. Bên cạnh
những lý luận này, tác giả chỉ ra mối quan hệ giữa đảng phái chính trị với bầu cử và
các hệ thống bầu cử điển hình trên thế giới. Đối với chế độ bầu cử ở Việt Nam, tác
giả Vũ Văn Nhiêm đã cung cấp những kiến thức cơ bản về chế độ bầu cử ở Việt
Nam từ 1945 đến nay: từ sự phát triển của chế độ bầu cử ở nước ta đến các nguyên
tắc bầu cử; quyền ứng cử, hiệp thương giới thiệu người ứng cử, vận động bầu cử;
đơn vị bầu cử; các tổ chức phụ trách bầu cử, công tác hướng dẫn bầu cử, phương
pháp xác định bầu cử, thiết của việc đổi mới chế độ bầu cử theo phương hướng đổi
mới của bộ máy nhà nước, phương hướng đổi mới chế độ bầu cử và những giải

pháp đổi mới chế độ bầu cử trong điều kiện phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân và trong xu thế hội nhập quốc tế.
Ngọc Điệp (2014), với bài viết “Toạ đàm kinh nghiệm về bầu cử của Nhật
Bản”, đăng trên báo điện tử Đại biểu nhân dân – 4/21014. Bài viết khẳng định:
bầu cử không những là hoạt động bảo đảm quyền dân chủ của cơng dân mà cịn
bảo đảm tính chính đáng của chính quyền. Chính quyền do nhân dân bầu lên
mới được người dân công nhận và thực sự có quyền lực. Thơng qua bầu cử, phải
lựa chọn ra được những người tài năng, đại diện cho quyền lợi của nhân dân và


quốc gia. Bởi thế, tổ chức hoạt động bầu cử như thế nào cũng là vấn đề phức tạp
và có tính kỹ thuật cao. Trong buổi “Toạ đàm kinh nghiệm về bầu cử Nhật
Bản”, các đại biểu đã nghe giới thiệu và thảo luận về nguyên tắc bầu cử, chức
năng của bầu cử, chế độ bầu cử, phương pháp bầu cử, việc quản lý và kiểm soát
bầu cử, hoạt động bầu cử được thể hiện trong pháp luật về bầu cử của Nhật Bản.
Những kinh nghiệm thực tiễn về bầu cử ở Nhật Bản chia sẻ tại tọa đàm này là
một trong những cơ sở để quốc hội và các cơ quan của QH nước ta nghiên cứu,
chắt lọc, tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung các Luật bầu cử đại biểu
QH và Luật bầu cử đại biểu HĐND sắp tới.
Lê Minh Thơng (2016) “Vai trị của bầu cử trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, Báo điện tử Quân đội nhân, tháng 5/
2016. Trong bài viết, tác giả đã khẳng định vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghiã gắn bó mật thiết với tồn bộ chế độ bầu cử; chỉ khi tổ
chức tốt bầu cử mới cho chúng ta những điều kiện căn bản để tiếp tục xây dựng
nhà nước pháp quyền bởi cội nguồn của nhà nước pháp quyền bắt đầu từ bầu cử.
Chính vì vậy, để xây dựng được nhà nước pháp quyền, cần chăm lo, chỉ đạo để
mọi người dân thực hiện tốt quyền bầu cử với tư cách là quyền chính trị quan
trọng bậc nhất trong các quyền công dân quy định trong hiến pháp.
Thái Vĩnh Thắng, Vũ Hồng Anh (2016), “Chế độ bầu cử (Chương X)”,
Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công

an nhân dân, Hà Nội. Trong nội dung của một chương của cuốn giáo trình, các
tác giả tập trung vào bốn nội dung: thứ nhất, làm rõ khái niệm chế độ bầu cử là gì
và khẳng định bầu cử là một trong những chế định pháp luật quan trọng của ngành
luật hiến pháp, là cơ sở pháp lí cho việc hình thành ra các cơ quan đại diện quyền
lực nhà nước. Thứ hai, trên cơ sở khái niệm thể chế bầu cử, hai tác giả đã chỉ ra
các nguyên tắc bầu cử đó là: ngun tắc bầu cử phổ thơng; ngun tắc bầu cử trực
tiếp, nguyên tắc bỏ phiếu kín, nguyên tắc bầu cử bình đẳng. Nội dung thứ ba, tác
giả nêu lên quy trình của một cuộc bầu cử với các giai đoạn cụ thể như: ấn định
ngày bầu cử, thành lập hội đồng bầu cử, phân chia đơn vị bầu cử, thành lập các tổ
chức phụ trách bầu cử; giới thiệu ứng cử viên; vận động bầu cử và lập danh sách
cử tri; Tiến hành bỏ phiếu; kiểm phiếu và xác định kết quả của cuộc bầu cử, công


bố kết quả. Nội dung thứ tư tác giả bàn đến việc bãi nhiệm đại biểu, trong đó nêu
rõ trong trường hợp mất tín nhiệm, đại biểu quốc hội cũng như đại biểu HĐND sẽ
bị cử tri bãi nhiệm vào bất kỳ thời gian nào. Quyền bãi miễn đại biểu được ghi
nhận ngay từ hiến pháp năm 1946.
Vũ Văn Phúc (2016): “Nguyên tắc cơ bản của bầu cử nước ta hiện nay”,
tạp chí Cộng sản Điện tử, 5/2016. Trong bài viết tác giả Vũ Văn Phúc khẳng
định với tư cách một thiết chế bảo đảm dân chủ, hoạt động bầu cử có những
nguyên tắc chung nhất, mà thể chế bầu cử ở bất cứ quốc gia cũng đều phải tuân
theo. Ở nước ta, bầu cử là một định chế quan trọng của dân chủ, nền tảng hợp
pháp để hình thành các chức danh, cơ quan lãnh đạo của các tổ chức thành viên hệ
thống chính trị. Bầu cử là một q trình đưa ra quyết định của cơng dân hoặc của
thành viên một tổ chức để chọn ra các cá nhân nắm giữ các chức vụ thuộc chính
quyền, thuộc ban lãnh đạo của một tổ chức, cơ quan, đơn vị nào đó. Trong văn
bản pháp luật, thuật ngữ “bầu cử” được hiểu là thủ tục thành lập cơ quan nhà nước
hay chức danh nhà nước. Các nguyên tắc bầu cử là những quy định được áp dụng
cho quyền bầu cử của chủ thể (quyền bầu cử chủ động và quyền bầu cử bị động).
Tác giả khẳng định nguyên tắc bầu cử là điều kiện được quy định bởi luật bầu cử

của mỗi nước, mà việc thực hiện và tuân thủ quy định đó trong q trình bầu cử
quyết định tính hợp pháp của cuộc bầu cử. Từ đó, tác giả tập trung phân tích 4
nguyên tắc bầu cử cụ thể của Luật bầu cử đại biểu QH và đại biểu HĐND nước ta
đó là: ngun tắc phổ thơng, ngun tắc bình đẳng, nguyên tắc trực tiếp và nguyên
tắc bỏ phiếu kín.
Nguyễn Quốc Sửu (2016): “Q trình hồn thiện pháp luật về bầu cử ở
Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản Điện tử, 5/2016. Thông qua bài viết, tác giả
Nguyễn Quốc Sửu khẳng định, bầu cử được hiểu là cách thức nhân dân trao
quyền cho nhà nước và với tư cách là một chế độ dân chủ tiên tiến, nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thể bằng một phương pháp nào khác
hơn là bầu cử để thành lập ra các cơ quan của mình. Cuộc bầu cử là một trong
những hình thức hoạt động chính trị- xã hội quan trọng của nhân dân. Bầu cử
thu hút sự tham gia đông đảo của cử tri đại diện cho các giai cấp, tầng lớp, tơn
giáo, giới tính… Bởi vậy, để đạt được kết quả, các cuộc bầu cử phải được tiến
hành có tổ chức, theo những trình tự chặt chẽ do pháp luật quy định. Nội


dung của bài viết, tác giả đã trình bày một cách khái quát các văn bản pháp luật
về bầu cử ở Việt Nam (từ Hiến pháp - văn bản có hiệu lực pháp luật cao nhất
đến các đạo luật như Luật bầu cử đại biểu QH năm 1997 đã được sửa đổi bổ
sung vào các năm 2001, 2007, 2010; Luật bầu cử đại biểu HĐND năm 2003), và
phân tích những điểm mới trong Luật bầu cử đại biểu QH và Đại biểu HĐND
năm 2015 (Ngày 25-6-2015 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII đã thơng qua
Luật bầu cử đại biểu QH và đại biểu HĐND, có hiệu lực từ ngày 01- 9 - 2015).
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu lý luận về bầu cử đại biểu hội đồng
nhân dân
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2001) “Hồ Chí Minh với Quốc hội và
Hội đồng nhân dân”, Hà Nội. Cuốn sách tập hợp các bài phát biểu của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về QH và HĐND, hai bản Hiến pháp 1946, 1959 và các sắc lệnh,
sắc luật liên quan đến bầu cử, tổ chức và hoạt động của QH và HĐND được

Người ký ban hành từ năm 1945 đến 1969. Về Bầu cử nói chung và bầu cử
HĐND nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Bầu cử QH và HĐND là
một cuộc vận động chính trị quan trọng, nhằm phát huy vai trò làm chủ thật sự
của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân… Do
ý nghĩa thực tiễn trọng đại đó, các cuộc vận động tổ chức bầu cử phải được
chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc trong toàn Đảng, tồn qn, tồn dân ta.
Đặng Đình Tân (2006), “Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. Qua cơng trình
nghiên cứu, tác giả khẳng định bầu cử là phương thức vô cùng quan trọng và hữu
hiệu để thơng qua đó, nhân dân có thể giám sát các cơ quan dân cử của mình như
QH hay HĐND các cấp. Từ đó tác giả phân tích cơ sở lý luận và thực trạng của
chế độ bầu cử nói chung và chế độ bầu cử HĐND ở Việt Nam nói riêng và chỉ ra
những kết luận hữu ích và những giải pháp để nâng cao sự giám sát của nhân dân
đối với các cơ quan dân cử ở Việt Nam.
Vũ Thị Loan (2010), “Một số vấn đề về hoàn thiện chế độ bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, NXB Chính trị quốc gia. Cuốn sách
chuyên khảo với 255 trang được kết cấu thành 3 chương. Chương 1: tác giả đã tập
trung làm rõ lý luận chung về chế độ bầu cử và chế độ bầu cử đại biểu HĐND;
chương 2:


trên cơ sở khẳng định vai trò quan trọng của HĐND trong việc thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân tác giả Vũ Thị Loan đã phân tích chế độ bầu cử đại biểu
HĐND ở nước ta về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bầu cử và bầu cử đại
biểu HĐND; những quy định của pháp luật bầu cử đại biểu HĐND ở Việt Nam;
thực trạng về nhận thức, hành vi của cử tri và các cơ quan tổ chức tham gia bầu cử
đại biểu HĐND. Bằng việc phân tích thực trạng chế độ bầu cử HĐND ở nước ta
trong thời gian qua ở chương 2, chương 3 tác giả đã nêu một số quan điểm và đề
xuất một số giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện chế độ bầu cử HĐND ở Việt
Nam, đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Phan Trung Tuấn (2011), Bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XII và Hội đồng
nhân dân các cấp với xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Báo
dangcongsanvietnam.vn (ngày 13/5/2011). Bài viết đã tổng kết cơng tác bầu cử
QH khố XII và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ ( 2004 - 2009). Từ thực
trạng những thành tựu đạt được và những hạn chế của hoạt động này, tác giả đưa
ra những giải pháp hoàn thiện và nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác bầu cử
này đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay.
Oxfam (2015), “Thúc đẩy sự tham gia của nữ giới trong quy trình bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân Việt Nam”. Ấn phẩm đặc biệt
của Tổ chức phi chính phủ Oxfam tại Việt Nam cho thấy, trong những nhiệm kỳ
qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhằm tăng số lượng và chất lượng nữ đại biểu
dân cử các cấp. Tuy nhên, kết quả đạt được không như chỉ tiêu đề ra và chưa
phản ánh bình đẳng thực chất cơ quan dân cử. Tỉ lệ nữ đại biểu QH giảm qua ba
nhiệm kỳ liên tiếp và tỉ lệ nữ đại biểu HĐND các cấp tăng chậm. Biên soạn cuốn
tài liệu “Thúc đẩy sự tham gia của nữ giới trong quy trình bầu cử Đại biểu QH và
Đại biểu HĐND ở Việt Nam” đã trình bày những cơ sở pháp lý về việc bầu cử QH
và đại biểu HĐND, quy trình bầu cử QH và đại biểu HĐND ở Việt Nam với mục
tiêu: góp phần thực hiện hiệu quả Luật bầu cử 2015, thúc đẩy sự tham gia bình
đẳng của nữ giới và nam giới trong quy trình bầu cử, tăng số lượng, chất lượng nữ
đại biểu QH khoá XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.
Vũ Công Giao, Đặng Minh Tuấn (2016), “Hỏi đáp về luật bầu cử Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,


×