Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

BÀI GIẢNG CHI TIẾT CHỦ NGHĨA xã hội KHOA học CHUYÊN đề CNXH hiện thực và các mô hình CHỦ NGHĨA xã hội trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.72 KB, 31 trang )

Bài 4
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC
VÀ CÁC MƠ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI
A. MỤC TIÊU
Về tri thức: Giúp học viên nhận thức đúng, sâu sắc vể chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện thực và một số mơ hình tiêu biểu của chủ nghĩa
xã hội hiện thực trên thế giới hiện nay.
Về kỹ năng: Giúp học viên nâng cao kỹ năng gắn lý luận với thực tiễn, rèn
luyện kỹ năng phân tích đánh giá đúng thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện
thực và có phương pháp luận để so sánh và thấy được sự tương đồng và khác biệt
giữa các mơ hình chủ nghĩa xã hội hiện thực; qua đó rút ra được những bài học kinh
nghiệm cho việc nghiên cứu và hiện thực hóa mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Về tư tưởng: Giúp học viên vững vàng, tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin
và kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa; góp phần rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội
ngũ cán bộ lý luận chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
B. NỘI DUNG
1. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC

1.1. Cách mạng tháng Mười Nga (1917) và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội
hiện thực
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen
vào điều kiện cụ thể của nước Nga, V.I.Lênin đã lãnh đạo thành công cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đưa chủ nghĩa xã hội từ lý
luận thành một chế độ xã hội hiện thực trên thế giới.
Cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917 đã cho ra đời một chế độ
xã hội mới ưu việt: giai cấp công - nông và những người lao động cần lao trở thành
chủ nhân của xã hội – chính quyền Xơ viết – một hình thức của nhà nước xã hội chủ
nghĩa đã khẳng định vị thế, vai trị của mình trong quản lý, tổ chức sản xuất và phân
phối sản phẩm.
1



Cuộc cách mạng vĩ đại đã xóa bỏ hồn tồn chế độ phong kiến Nga sa hoàng
đã lỗi thời phản động, đánh đổ giai cấp tư sản, từng câu kết với thù trong, giặc ngồi
hịng bóp chết thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin và Đảng Bơn-sê-vích Nga, nhân dân Xơ viết
đã khẳng định vai trò, ảnh hưởng to lớn của cách mạng xã hội chủ nghĩa, khẳng định
vị thế của chủ nghĩa xã hội hiện thực từ nước Nga xô viết đến Liên Xô hùng hậu, sau
cách mạng tháng Mười không lâu.
Chế độ xã hội chủ nghĩa đã thể hiện bản chất ưu việt trên tất cả các lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối nội và đối ngoại… là điểm tựa, niềm tin của
nhân loại cần lao trong cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội, vì dân chủ và hịa bình.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô cũng đã tạo ra hậu thuẫn vững chắc cho phong
trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa.
Sau năm 1917, thế giới diễn ra sự song song tồn tại của đời sống chính trị - xã
hội: chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Cũng từ đó mở ra một thời kỳ mới cho
lịch sử nhân loại: thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
1.2. Chủ nghĩa xã hội hiện thực từ năm 1917 đến 1991: Thành tựu, khủng
hoảng và nguyên nhân
1.2.1. Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực
Sau Cách mạng tháng Mười Nga không lâu, Liên Xô trở thành một cường
quốc lớn của thế giới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo
nên mối quan hệ đối trọng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản hiện đại, mở ra
triển vọng phát triển mới, tiến bộ của nhân loại.
Trước hết là thành tựu trong việc xây dựng một chế độ chính trị với nhiều
điểm tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của văn minh nhân loại: chế độ chính trị
xã hội chủ nghĩa xố bỏ mọi áp bức, bất công giữa người và người. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa là Nhà nước từng bước hồn thiện, lơi cuốn đơng đảo người dân vào quản
lý xã hội, quản lý đất nước. Chế độ chính trị này, trên thực tế đã tạo ra thế đối trọng
giữa hai thể chế chính trị trên thế giới: chính trị chủ nghĩa xã hội và chính trị tư bản
chủ nghĩa.

2


Trong quá trình phát triển của mình, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước đã
tạo nên những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực; đã vươn tới nhiều đỉnh cao về khoa
học - công nghệ, đặc biệt đã mở ra kỷ nguyên con người chinh phục vũ trụ. Nền giáo
dục Xô-viết đã được xếp vào hàng tiên tiến hàng đầu thế giới. Liên bang Xô viết và
một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đơng Âu có công lớn trong đào tạo giúp đỡ các
nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, các nước lạc hậu phát triển nguồn nhân lực
đặc biệt là đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và lãnh đạo quản lý ở nhiều quốc gia,
khu vực.
Các lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật… đã phát triển rực rỡ, hết sức phong phú,
độc đáo. Đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân đều được chăm
lo, mọi người dân đều được hưởng thụ những phúc lợi xã hội chất lượng cao, được
sống trong một mơi trường n bình, lành mạnh trong tình thương, lẽ phải và sự tơn
trọng lẫn nhau.
Trên lĩnh vực xã hội, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã có nhiều đóng góp, thành
tựu trong giải quyết hàng loạt vấn đề xã hội, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội
(chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, tạo việc làm cho người lao động, chế độ
phúc lợi công cộng trong giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
v.v…).
Về phương diện đối ngoại, nhờ sự tồn tại, phát triển cả hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã đóng góp thiết thực vào việc giữ gìn
hồ bình trên thế giới, góp phần thúc đẩy các phong trào cách mạng dân tộc, dân chủ
và các phong trào tiến bộ trên thế giới. Với nguyên tắc có giá trị thực tiễn về đối
ngoại là: hịa bình, hợp tác, hữu nghị, cùng có lợi và khơng xâm phạm chủ quyền,
lãnh thổ của nhau của các nước xã hội chủ nghĩa đã góp phần tạo gìn giữ hịa bình
cho nhân loại.
Tóm lại, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên xô và các nước xã
hội chủ nghĩa đã tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo cơ sở vật chất – kỹ

thuật cho chủ nghĩa xã hội, từng bước khẳng định vị thế, sức mạnh của chế độ xã hội
chủ nghĩa. Liên xô trở thành một cường quốc hùng mạnh và đã trở thành trụ cột cho
hịa bình, dân chủ; đồng thời xác lập vị trí, vai trị không thể thiếu trong đời sống
3


chính trị thế giới và các quan hệ quốc tế, với tiếng nói đầy trọng lượng trong những
quyết định quan trọng nhất của thế giới trong thế kỷ XX.
1.2.2. Về khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực
Sau một thời kỳ phát triển với những đóng góp to lớn vào tiến trình cách mạng
thế giới, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng. Dấu
mốc của khủng hoảng là từ những năm 60 của thế kỷ XX.
Xét về hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, mặc dù Liên Xô có
vai trị to lớn trong việc tổ chức 2 Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân tại
Matxcơva (1957 và 1960), nhưng những quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội được 2
Hội nghị này rút ra chỉ dừng lại ở những quy luật chung, phổ quát, lại mang tính áp
đặt, khiên cưỡng, chưa phản ánh nét đặc thù của con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở từng quốc gia, khu vực. Tình hình đó dẫn đến sự rạn nứt trong hệ thống các
nước xã hội chủ nghĩa, bắt đầu và ngày càng gay gắt là bất đồng trong 2 nước lớn:
Trung Quốc và Liên Xô.
Nhân danh việc phê phán tư tưởng cá nhân, cực đoan của Xtalin, Khơrutsốp
đã chủ trương "xem xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin" thực hiện con đường "hồ bình
để đi lên chủ nghĩa xã hội". Trên thực tế đã xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, trong thời kỳ này đã quay lưng lại với
thể chế chính trị Xơ viết, ảnh hưởng lớn đến tính cố kết hệ thống của "phe xã hội chủ
nghĩa". Không lâu sau, ở Trung Quốc lại diễn ra cuộc "cách mạng văn hoá" thực chất
là để thanh trừng lẫn nhau trong bộ máy lãnh đạo cao cấp. Những rạn nứt trong quan
hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc cùng với việc Nam Tư từng bước li khai khỏi hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa đã làm cho chủ nghĩa xã hội hiện thực bị rạn nứt,

khủng hoảng. Biểu hiện rõ rệt nhất của khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực
trên thế giới là khủng hoảng về thể chế chính trị dẫn đến khủng hoảng về kinh tế, xã
hội. Hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước bị xa rời hoặc bị chối bỏ bởi những người
lãnh đạo cao nhất trong Nhà nước Xô viết.

4


Thực chất khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực là khủng hoảng về mơ
hình tổ chức xã hội xã hội chủ nghĩa theo kiểu Xô viết, được áp đặt cho cả hệ thống
các nước xã hội chủ nghĩa. Tình trạng trì trệ, xơ cứng, quan liêu trong bộ máy Đảng
và Nhà nước Xô viết không được khắc phục, ngăn chặn đã dẫn đến khủng hoảng thể
chế chính trị và từng bước rơi vào khủng hoảng toàn diện. Mất đồn kết, khơng
thống nhất ý chí giữa các Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là biểu hiện
thực tế nhất của khủng hoảng về mơ hình và cách thức xây dựng của chủ nghĩa xã hội
hiện thực từ sau những năm 60 của thế kỷ XX.
Những năm 80 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đứng
trước những thách thức to lớn. Khủng hoảng trầm trọng trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội dẫn đến nguy cơ sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Liên Xô, đứng đầu là Goóc ba chốp đã chủ trương "cải tổ" với
hàm nghĩa tích cực ban đầu là cứu vãn, khôi phục lại vị thế của chủ nghĩa xã hội ở
Liên bang Xô viết. Cuộc cải tổ bắt đầu bằng hàng loạt thay thế các vị trí lãnh đạo
cao cấp trong tổ chức của Đảng Cộng sản và Nhà nước Xơ viết. Kế tiếp là các chủ
trương "dân chủ hố" theo cách thức của các nước phương Tây. Ban đầu, dư luận
Liên Xơ ủng hộ việc cải tổ của Gc ba chốp, chưa lường hết được những ý đồ cá
nhân, việc phản bội của ơng ta. Trên thực tế, Gc ba chốp đã hoàn toàn quay lưng
lại với học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội. Vào cuối những năm 80 của thế
kỷ XX, cuộc cải tổ đã dẫn Liên Xơ vào bế tắc và đổ vỡ hồn toàn chế độ xã hội chủ
nghĩa. Đỉnh điểm khủng hoảng của mơ hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xơ là việc giải
thể Liên bang Xô viết dưới thời kỳ Enxin - người kế nhiệm Goóc ba chốp giữ vai trò

Tổng thống Liên bang Nga (1991).
Cùng thời kỳ đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, hàng loạt nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu cũng lâm vào tình trạng tương tự. Sau năm 1991 ở Liên
Xô và Đông Âu, chủ nghĩa tư bản được khôi phục thay thế cho chế độ xã hội chủ
nghĩa. Sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước này là một tổn thất lớn đối
với phong trào cách mạng thế giới. Sau hơn 70 năm tồn tại, sự tan rã của thể chế
chính trị ở Liên Xô và Đông Âu thực chất là sự tan rã của một dạng thức, một mơ
hình của xã hội xã hội chủ nghĩa được coi là "mẫu mực" là "duy nhất đúng". Tuyệt
5


nhiên, đó khơng phải là sự đổ vỡ, sự "kết thúc lịch sử" của chủ nghĩa Mác - Lênin,
chủ nghĩa xã hội khoa học. Tuy nhiên, sau sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu, sự khủng hoảng về niềm tin, về tương lai, triển vọng của xã
hội loài người đã diễn ra trong đời sống chính trị - xã hội thế giới. Cũng từ đây nhiều
trào lưu, xu hướng mới nảy sinh trong nhận thức, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở một số nước, các Đảng Cộng sản, Đảng Công nhân,
Đảng Cánh tả đã có những nhận thức mới, phù hợp hơn về những mơ hình xã hội xã
hội chủ nghĩa, trên cơ sở kế thừa những giá trị lý luận của học thuyết Mác - Lênin về
chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng quốc gia dân tộc .
Sau những tổn thất to lớn từ đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu, chủ nghĩa xã hội đang từng bước khắc phục khó khăn để khơi phục với những
diện mạo mới.
1.2.3. Những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội
hiện thực
a) Những nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, nhận thức, lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã
hội là vấn đề hoàn toàn mới, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chưa có tiền lệ;
mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn luôn luôn đặt ra yêu cầu phải
đánh giá và vận dụng đúng, sáng tạo lý luận Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây

dựng chủ nghĩa xã hội
Nếu so với các mô hình tổ chức xã hội có trước đó thì mơ hình xã hội xã hội
chủ nghĩa là một kiểu tổ chức xã hội hồn tồn mới, chưa có tiền lệ. Bản thân các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin mới dự báo những nét cơ bản ban đầu. Mặt
khác, giữa lý luận và thực tiễn ln ln có khoảng cách lớn: có những quan điểm Mác
- Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội cho đến nay vẫn cịn giữ
ngun giá trị; có những quan điểm cần nhận thức lại, nhận thức cho đúng.

6


Nguyên nhân khách quan này là một thực tế đòi hỏi phải thường xuyên tổng
kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận để có được nhận thức đúng, phù hợp khi xây
dựng với tư cách là một chế độ xã hội hiện thực.
Thứ hai, các xu thế mới nảy sinh trong thời đại đã tác động lớn đến đời sống
chính trị - xã hội thế giới, đến sự tồn vong của chủ nghĩa xã hội hiện thực
Tồn cầu hố trở thành xu thế lớn lôi cuốn hầu hết các quốc gia - dân tộc tham
gia, với những cơ hội và thách thức lớn. Bên cạnh đó, các xu hướng khác như dân
chủ hoá đời sống xã hội, đa phương hoá các quan hệ quốc tế đi kèm với những xung
đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên, biển đảo v.v… đều tác động
không nhỏ đến thể chế chính trị ở nhiều quốc gia, trong đó rất nhiều ảnh hưởng tiêu
cực tác động đến chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước. Những tác động từ
khoa học, công nghệ, các xu thế lớn của thời đại đều diễn ra mạnh mẽ với những ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực đối với chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Thứ ba, việc tồn tại song song hai thể chế chính trị: chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản đã dẫn đến sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch của chủ
nghĩa xã hội trên thế giới
Thời kỳ "chiến tranh lạnh" là thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản hiện đại với mọi toan
tính thâm độc muốn xoá bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực. Rất nhiều âm mưu, thủ đoạn từ
các nước tư bản lớn, nhất là từ Mỹ đã được thực hiện để thay đổi tương quan lực lượng

giữa "hai phe", hai thể chế chính trị trên thế giới.
Trong rất nhiều âm mưu, thủ đoạn chống phá chủ nghĩa xã hội hiện thực có
chiến lược "diễn biến hồ bình" đã được Mỹ và nhiều nước tư bản chủ nghĩa sử
dụng và gây hậu quả nghiêm trọng đối với hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới. Chiến
lược "diễn biến hịa bình" mà các nước đế quốc thực hiện đã góp phần đẩy nhanh
quá trình khủng hoảng và đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước
Đông Âu.
b) Những nguyên nhân chủ quan

7


Bên cạnh những nguyên nhân khách quan vốn có, nhiều nguyên nhân chủ
quan là những nguyên nhân sâu xa chủ yếu, trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng suy
thoái của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Một là, những sai lầm, yếu kém trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và
về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội không được phát hiện, sửa chữa, điều chỉnh
kịp thời.
Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, của lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nói riêng ln ln
địi hỏi các Đảng Cộng sản và cơng nhân phải có các quan điểm lịch sử - cụ thể và
quan điểm phát triển sáng tạo. Tuy nhiên, trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
đã có những nhận thức sai lầm, máy móc, giáo điều khi vận dụng các quan điểm
Mác - Lênin. Sai lầm, yếu kém đã diễn ra khá lâu nhưng không được phát hiện, sửa
chữa, điều chỉnh, dẫn đến tình trạng khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa, nhất
là ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Việc nhận thức giản đơn,
máy móc về mơ hình chủ nghĩa xã hội và việc áp đặt mơ hình xã hội xã hội chủ
nghĩa kiểu Xô viết cho tất cả các nước trong hệ thống là một sai lầm, khuyết điểm
lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn, trong đó, việc tuyệt đối hố những giá trị, những nét
đặc trưng mang tính phổ biến và coi nhẹ, xem thường những giá trị, đặc trưng mang

tính đặc thù của từng quốc gia dân tộc là hoàn toàn trái với quan điểm lịch sử - cụ
thể về tính đa dạng, phong phú của chủ nghĩa xã hội và của con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Ở một phương diện khác, biến cố lịch sử này có nguyên nhân sâu xa là, trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ, bên cạnh những thành tựu có ý
nghĩa lịch sử và quốc tế, cũng có những khuyết điểm, sai lầm chậm được phát hiện
và khắc phục, nhất là về những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng xã hội
mới cùng với việc xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin của
những người lãnh đạo cao nhất của Đảng lúc đó. Cụ thể trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã có những nhận thức
sai lệch các quy luật phát triển xã hội, nhất là các quy luật kinh tế trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Rất nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã quá chủ quan, nóng vội muốn
8


xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế "phi xã hội chủ nghĩa", không vận dụng đúng
các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc xem nhẹ các yếu
tố thuộc lực lượng sản xuất, đề cao, tuyệt đối hố vai trị ưu việt của "quan hệ sản
xuất tiên tiến"; lấy quan hệ sản xuất tiến bộ "mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển"… đã xa rời quan điểm Mác - Lênin về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Việc duy trì cơ chế kế hoạch hố tập
trung, xem nhẹ các yếu tố của thị trường đã làm triệt tiêu những động lực trong phát
triển kinh tế.
Hai là, trong công tác xây dựng Đảng, ở nhiều nước đã xa rời nguyên tắc
trong xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, biến Đảng Cộng sản
thành tổ chức độc quyền, một số cán bộ lãnh đạo cao cấp trở thành kẻ quan liêu,
từng bước xa rời hoặc phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đặc biệt, có hai nguyên nhân cơ bản và trực tiếp liên quan chặt chẽ với nhau:
Một là, những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, về cơng tác xây dựng
Đảng, cơng tác tư tưởng và công tác tổ chức, cán bộ trong quá trình cải tổ; và hai là,

các thế lực thù địch, phản động thực hiện chiến lược "diễn biến hồ bình", tìm mọi
cách tác động làm chệch hướng cơng cuộc cải tổ, cải cách ở Liên Xô, lợi dụng
những sai lầm bên trong để thực hiện mục tiêu xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ở Liên Xô và hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào những thập
niên từ 60 - 90 cuối thế kỷ XX, bộ máy Đảng Cộng sản đã không được xây dựng
theo những ngun tắc mác xít - lêninit. Nhà nước Xơ viết đã từng bước biến chất,
khơng cịn thể hiện quyền lực của nhân dân mà chỉ là biểu hiện quyền lực của các
phe nhóm trong Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng hoàn toàn
bị rời bỏ, trở thành tập trung quan liêu, độc tài, độc quyền.
Những nội dung xây dựng Đảng kiểu mới: về tư tưởng, chính trị, tổ chức, về
đạo đức, lối sống của người đảng viên đã trở thành xa lạ trong Đảng Cộng sản Liên
Xô và nhiều Đảng Cộng sản khác. Những người lãnh đạo cấp cao trong bộ máy
Đảng, Nhà nước Xô viết đã thoái hoá, biến chất rồi trở thành những kẻ phản bội
nhân danh "cải tổ", "cải cách". Đây là nguyên nhân rất trực tiếp đưa chủ nghĩa xã hội
hiện thực đến khủng hoảng, suy thoái.
9


Ba là: Những yếu kém, khuyết điểm trong đường lối chính trị, sự vận hành
kém hiệu quả của hệ thống chính trị và pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Xét về bản chất, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa phải thể hiện những điểm
tiến bộ, ưu việt hơn hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
phải là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; quản lý đất nước bằng pháp luật là
chủ yếu. Thế nhưng sau chiến tranh thế giới thứ II, đặc biệt là từ những năm 60 của
thế kỷ XX về sau, tình trạng phe phái, chia rẽ trong hệ thống chính trị ở nhiều nước
xã hội chủ nghĩa trở thành phổ biến. Đảng Cộng sản là tổ chức lãnh đạo và lấn át cả
quyền lực của Nhà nước làm thay đổi Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội của
quần chúng nhân dân chỉ tồn tại hình thức mà không phát huy được quyền dân chủ
của công dân, quyền giám sát và phản biện xã hội đối với bộ máy Đảng và Nhà
nước. Pháp luật xã hội chủ nghĩa khơng những khơng được củng cố, hồn thiện mà

ngày càng bị buông lỏng, mất hiệu lực. Trên thực tế ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa,
Đảng Cộng sản đã trở thành cơ quan quyền lực cao nhất, chính quyền Nhà nước và
các tổ chức quần chúng không phát huy được vai trị của mình. Ở nhiều nước,
Đảng Cộng sản đã đứng trên cả pháp luật, người cán bộ, đảng viên càng có chức, có
quyền, càng tha hố, biến chất và xa rời quần chúng.
Những yếu kém này đã tạo cớ cho những phần tử cơ hội (điển hình là Gc ba
chốp) đã lấy đổi mới chính trị làm tiền đề, điều kiện cho dân chủ hoá xã hội theo
kiểu phương Tây. Thực chất Goóc ba chốp đã trực tiếp phá vỡ hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa và cả hệ thống pháp luật ở Liên Xô.
Tương tự như Liên Xô, ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa thuộc Đơng Âu cũng
có tình trạng yếu kém, thối hố, mất hiệu lực của hệ thống chính trị và pháp luật xã
hội chủ nghĩa.
Bốn là, không nắm bắt và giải quyết đúng nhiều mối quan hệ diễn ra trong
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhiều mối quan hệ đòi hỏi phải nhận thức đúng, giải quyết phù hợp đều bị
xem thường: quan hệ lợi ích giữa cá nhân - tập thể - xã hội; quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng - xã hội; quan hệ giữa đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị, quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản hiện đại; quan
10


hệ giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa yêu nước; giữa chủ nghĩa xã hội và các
phong trào giải phóng dân tộc, dân chủ, vì hồ bình trên thế giới. Nhiều khi các quan
hệ này đã được giải quyết theo ý chí chủ quan, áp đặt hoặc cực đoan, bất chấp nhu
cầu và xu thế phát triển khách quan của xã hội. Quan điểm biện chứng, quan điểm
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị xa rời khi giải quyết các quan hệ vừa nêu.
Hàng loạt vấn đề thực tiễn lẽ ra phải được tổng kết để rút ra bài học kinh
nghiệm trong giải quyết các quan hệ, song đã gặp phải sự thờ ơ, hoặc thái độ coi
thường của các Đảng Cộng sản cũng như chính quyền Nhà nước ở các nước xã hội
chủ nghĩa. Tình trạng tụt hậu, khủng hoảng, suy thối vì vậy có điều kiện bùng phát

ở hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa.
Năm là, những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm trong chiến lược phát triển các
nguồn lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là chiến lược phát triển nguồn nhân
lực ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế tập trung quan liêu, lấy kế hoạch hoá như là các "chỉ tiêu pháp lệnh"
đã tác động tiêu cực đến chiến lược phát triển các nguồn lực trong các nước thuộc hệ
thống xã hội chủ nghĩa.
Một trong những nguồn lực quan trọng nhất là nguồn lực con người đã không
được quan tâm chăm lo, đào tạo bồi dưỡng và đáp ứng những nhu cầu vật chất, tinh
thần. Mẫu hình lý tưởng hoá con người xã hội mà xem nhẹ yếu tố con người cá nhân
đã kìm hãm sự năng động, sáng tạo của người công dân trong phát triển xã hội.
Những chỉ tiêu về mức sống, chăm sóc sức khoẻ, chế độ bảo hiểm, bảo trợ xã hội
đối với người lao động không được quan tâm đúng mức; người lao động không
được thu hút tham gia các lĩnh vực quản lý xã hội… hàng loạt vấn đề xã hội nảy
sinh đã không được giải quyết thoả đáng, kịp thời. Những hạn chế, yếu kém trên
đã góp phần làm trầm trọng thêm các lĩnh vực chính trị - xã hội ở những nước xã
hội chủ nghĩa.
Sáu là, trong hàng loạt chính sách đối nội, đối ngoại của các nước xã hội chủ
nghĩa đã vấp phải những khuyết điểm, sai lầm trong giải quyết các quan hệ giữa
giai cấp - dân tộc - quốc tế.
11


Trong quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, đã tuyệt đối hoá vấn đề giai cấp, xem
nhẹ vấn đề dân tộc, thậm chí ở Liên Xơ chính sách dân tộc được thực hiện một cách
áp đặt đã làm nảy sinh bất đồng trong các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số với
người Nga.
Quan hệ đối ngoại với chủ nghĩa quốc tế được "lý tưởng hố" khơng những
khơng phát huy vai trò, ảnh hưởng tốt đẹp của chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng
nhân mà cịn làm phương hại đến chủ quyền, ý thức độc lập dân tộc của những quốc

gia dân tộc nhỏ. Trong một số trường hợp, chủ nghĩa quốc tế, thực chất là "chủ nghĩa
đại Nga" mang tính chất ban ơn hoặc áp đặt với nhiều nước trong hệ thống xã hội
chủ nghĩa.
Sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất
lớn đối với phong trào cách mạng thế giới. Việc làm rõ những nguyên nhân dẫn đến
khủng hoảng, suy thoái của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang là việc làm
cần thiết đối với các Đảng Cộng sản và công nhân, nhất là làm rõ những nguyên nhân
chủ quan chủ yếu, trực tiếp dẫn đến khủng hoảng, suy thoái.
1.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện
thực thế giới đối với chủ nghĩa xã hội hiện thực hiện nay
Từ khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới, có thể rút ra một số
bài học đối với chủ nghĩa xã hội hiện thực hiện nay:
Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải luôn luôn dựa trên nền tảng tư tưởng:
đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Việc vận dụng đòi hỏi phải thường xuyên sáng tạo: vận
dụng và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội phù hợp với
điều kiện đặc thù của mỗi nước.
Hai là, mơ hình chủ nghĩa xã hội phải xuất phát từ nguyên tắc kết hợp giữa
tính phổ biến và tính đặc thù, chủ nghĩa xã hội phải được hiện thực hóa theo điều
kiện từng quốc gia - dân tộc; khơng thể áp đặt, hành chính hóa.
Ba là, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là thống nhất, song biện pháp, cách thức
đi lên chủ nghĩa xã hội lại rất đa dạng, phong phú. Do đó, mỗi quốc gia - dân tộc
trên cơ sở nhận thức đúng đắn học thuyết Mác-Lênin, kết hợp với việc tham khảo
12


các mơ hình chủ nghĩa xã hội hiện thực khác nhau để từ đó vận dụng một cách sáng
tạo vào việc xác địnhcách thức, con đường, bước đi cho phù hợp với điều kiện của
nước mình, khơng rập khn, máy móc và giáo điều.
Bốn là, xây dựng Đảng, phát huy vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản chân
chính ln ln có ý nghĩa quyết định cho thành bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực.

Năm là, phải đặt thể chế xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới: sự song song
tồn tại của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Tồn cầu hóa địi hỏi sự tham gia
của nhiều quốc gia, khu vực. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội vừa hợp tác, vừa đấu tranh
trong quá trình tham gia tồn cầu hóa.
2. CÁC MƠ HÌNH XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TIÊU BIỂU TỪ 1991 ĐẾN NAY

Từ sau sự đổ vỡ của mơ hình xã hội chủ nghĩa xơ viết ở Đông Âu và Liên Xô,
các nước xã hội chủ nghĩa cịn lại vẫn kiên trì mục tiêu chủ nghĩa xã hội trên cơ sở
nắm vững và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm nỗ lực cải
cách, đổi mới để tìm kiếm những mơ hình phát triển năng động, sáng tạo hơn và phù
hợp với điều kiện của nước mình để có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Tiêu biểu là các nước: Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba, và một số trào lưu xã hội
chủ nghĩa. Các mơ hình này được nghiên cứu trong chun đề. Riêng mơ hình xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam được nghiên cứu ở bài 6 trong Giáo trình.
2.1. Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc
2.1.1. Nội dung cơ bản của lý luận “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung quốc”
Trong khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực, nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình khởi đầu từ Hội nghị trung ương 3,
khóa XI (12/1978) đã tiến hành cải cách, mở cửa với nhiều thành tựu trong lý luận
và thực tiễn. Phương châm ban đầu của cải cách, mở cửa là: “Giải phóng tư tưởng,
thực sự cầu thị, đồn kết nhất trí, hướng về phía trước”, tiến hành “cải cách làm sinh
động bên trong và mở cửa với bên ngồi để hiện đại hóa”. Những thành tựu tiêu biểu
trong nghiên cứu lý luận, gắn lý luận với thực tiễn của Trung Quốc, xây dựng mơ
hình “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc” thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
- Về hệ thống lý luận
13


“Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc” là sự kết hợp một cách biện chứng
giữa tính phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Trung Quốc. Nói cách

khác, đó cũng chính là q trình “Trung Quốc hoá chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Sau này, qua hơn 30 năm cải cách mở cửa, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tìm ra
được “3 cái một”, bao gồm: Xác lập được một chế độ xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung
Quốc với 4 trụ cột (chế độ đại hội đại biểu nhân dân, chế độ hiệp thương chính trị và
hợp tác đa đảng, chế độ tự trị dân tộc, chế độ tự quản của quần chúng ở cơ sở); hình
thành nên một lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc gồm: Lý luận Đặng Tiểu
Bình, tư tưởng “Ba đại diện” của Giang Trạch Dân, quan điểm phát triển khoa học hài
hòa của Hồ Cẩm Đào và tư tưởng bốn tồn diện của Tập Cận Bình.; mở ra một con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc gồm 5 con đường nhỏ (cơng
nghiệp hóa kiểu mới, hiện đại hóa nơng nghiệp, đơ thị hóa nơng thơn, phát triển chính
trị và tự chủ sáng tạo đặc sắc Trung Quốc).
Phát triển sáng tạo lý luận là một đặc sắc quan trọng của Đảng Cộng sản Trung
Quốc và chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Trong bài phát biểu kỷ niệm 90 năm
thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2011, Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào chỉ rõ:
“Chặng đường phát triển 90 năm qua của Đảng đã nói cho chúng ta, sự thành thục về
mặt lý luận là nền tảng để kiên định về chính trị, tiến cùng thời đại về mặt lý luận là tiền
đề để kiên quyết dũng cảm tiến lên trong hành động, sự thống nhất về tư tưởng là sự
bảo đảm quan trọng để toàn Đảng cùng nhất tề tiến bước”1.
Đảng Cộng sản Trung Quốc tin tưởng rằng nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
là chân lý khoa học, đồng thời tin tưởng chắc chắn rằng chủ nghĩa Mác nhất định sẽ
không ngừng được làm phong phú và phát triển cùng với sự phát triển của thực tiễn,
chứ không phải là giáo điều, cứng nhắc, rập khuôn; tin tưởng chắc chắn rằng ngọn
nguồn lý luận của chủ nghĩa Mác là thực tiễn, căn cứ phát triển là thực tiễn, kiểm
nghiệm tiêu chuẩn cũng là thực tiễn. Thực tiễn phát triển, nhận thức chân lý và sáng tạo
lý luận mãi mãi khơng có giới hạn, nhận thức chân lý mãi mãi khơng có giới hạn, sáng
tạo lý luận mãi mãi khơng có giới hạn. Mỗi bước tiến lên của sáng tạo lý luận, thì vũ
trang lý luận cũng tiến theo một bước, đó là một kinh nghiệm quan trọng để Đảng Cộng
1

Hồ Cẩm Đào: “Bài phát biểu của Hồ Cẩm Đào tại buổi Mít ting kỷ niệm 90 năm thành lập ĐCS Trung Quốc”, mạng

cửa sổ chính phủ Trung ương: www.gov.cn, ngày 01 tháng 7 năm 2011.

14


sản Trung Quốc tăng cường xây dựng chính mình. Do vậy, hệ thống lý luận đặc sắc
Trung Quốc là tiến cùng thời đại chủ nghĩa Mác, là sự kế thừa và sáng tạo chủ nghĩa
Mác. Kiên trì chủ nghĩa Mác, điều quan trọng nhất là nắm chắc thực chất tinh thần
của nó, vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp luận khoa học của nó để
nghiên cứu tình hình mới, giải quyết vấn đề mới. Với nhận thức tư tưởng này, Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã không ngừng thực hiện sáng tạo chủ nghĩa Mác và đã thu
được thành quả lý luận mới nhất của Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác.
Đại hội XIX (2017), Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu lên khái niệm“tư tưởng
Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới” và nhấn mạnh: Tư tưởng chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới là sự kế thừa và phát triển của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư
tưởng quan trọng “Ba đại diện”, quan điểm phát triển khoa học; là thành quả mới
nhất về Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác; là kết tinh của kinh nghiệm thực tiễn và trí
tuệ tập thể của Đảng, nhân dân; là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống lý luận
chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc; là kim chỉ nam hành động để toàn Đảng, tồn
dân phấn đấu thực hiện cơng cuộc phuc hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa, do vậy, cần
phải được kiên trì lâu dài và khơng ngừng phát triển1.
- Về con đường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc và chế độ xã hội chủ
nghĩa đặc sắc Trung Quốc
Về kinh tế, Báo cáo chính trị tại Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung
Quốc chỉ rõ: “Con đường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc chính là dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc, xuất phát từ tình hình cơ bản trong nước, lấy
xây dựng kinh tế làm trung tâm, kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản, kiên trì cải cách mở
cửa, giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội, xây dựng kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa, chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, văn hoá tiên tiến xã hội chủ nghĩa, xã

hội hài hoà xã hội chủ nghĩa, văn minh sinh thái xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự phát
triển toàn diện của con người, từng bước thực hiện toàn thể nhân dân cùng giàu có,
xây dựng đất nước hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài
hịa.
1

Bộ Ngoại giao (Việt Nam), Báo cáo chính trị Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc 18/10/2017 (bản dịch tiếng
Việt), tr.13

15


Về chính trị, chế độ xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc chính là chế độ
chính trị cơ bản của chế độ Đại hội đại biểu nhân dân, bao gồm: chế độ hợp tác đa
đảng và hiệp thương chính trị; chế độ tự trị khu vực dân tộc và chế độ tự trị quần
chúng ở cơ sở do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa
đặc sắc Trung Quốc; chế độ kinh tế cơ bản lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế
nhiều thành phần sở hữu cùng phát triển, cùng với các chế độ cụ thể như thể chế
kinh tế, thể chế chính trị, thể chế văn hố, thể chế xã hội được xây dựng trên nền
tảng những chế độ đó”.
Về văn hóa, xã hội, mơi trường, Đại hội XIX của Đảng Cộng sản Trung Quốc
xác định rõ thực chất tinh thần và nội hàm phong phú của Chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc, đồng thời quán triệt thực hiện chuẩn xác, tồn diện trong các mặt cơng
tác: Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng trong mọi mặt cơng tác; Kiên trì lấy nhân dân làm
trung tâm; Kiên trì đi sâu cải cách tồn diện; Kiên trì quan điểm phát triển mới; Kiên
trì nhân dân làm chủ; Kiên trì quản lý đất nước theo pháp luật toàn diện; Kiên trì hệ
thống giá trị cốt lõi xã hội chủ nghĩa; Kiên trì bảo đảm và cải thiện dân sinh trong
quá trình phát triển; Kiên trì con người chung sống hài hịa với thiên nhiên; Kiên trì
quan điểm tổng thể về an ninh quốc gia; Kiên trì sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối
với quân đội nhân dân; Kiên trì “một nước hai chế độ” và thúc đẩy thống nhất đất

nước; Kiên trì thúc đẩy xây dựng cộng đồng chung vận mệnh nhân loại1.
- Về mục tiêu tổng quát và nhiệm vụ cụ thể
Báo cáo chính trị tại Đại hội XVIII chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc
sắc Trung Quốc, căn cứ chung là giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, bố cục chung
là ngũ vị nhất thể, nhiệm vụ chung là thực hiện hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa và
phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”. Mục tiêu chung này đã phác thảo bản kế
hoạch tổng thể phát triển lâu dài của Trung Quốc.
Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh: Trung Quốc đang và sẽ còn lâu dài ở
trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội. Đây là căn cứ chung để đưa ra mọi chính
sách của Trung Quốc. Thực tế lớn nhất là giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội này yêu
1

Bộ Ngoại giao (Việt Nam), Báo cáo chính trị Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc 18/10/2017 (bản dịch tiếng
Việt), tr.14-16

16


cầu cần phải kiên trì lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, kiên trì bốn nguyên tắc cơ
bản, cải cách mở cửa, làm cơ sở xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách chắc chắn.
Ngay từ năm 1986, Hội nghị Trung ương 6 khoá XII của Đảng Cộng sản
Trung Quốc lần đầu tiên nêu ra mục tiêu tổng quát là lấy xây dựng kinh tế làm trung
tâm, kiên định không thay đổi tiến hành cải cách thể chế kinh tế, kiên định không
thay đổi tiến hành cải cách thể chế kinh tế, thể chế chính trị, tăng cường xây dựng
văn minh tinh thần. Đây là mục tiêu tổng quát “tam vị nhất thể” kéo dài từ Đại hội
XIII đến Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đến Hội nghị Trung ương 6
khoá XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra nhiệm vụ to lớn xây dựng xã hội
hài hoà xã hội chủ nghĩa, mục tiêu tổng quát được phát triển mở rộng thành “tứ vị
nhất thể”, bổ sung tăng cường xây dựng xã hội. Tiếp đó, Đại hội XVIII của Đảng
Cộng sản Trung Quốc một lần nữa bàn đến “văn minh sinh thái”, đồng thời nâng nó

lên tầng diện chiến lược cao hơn. Từ đó, mục tiêu tổng quát của sự nghiệp xã hội
chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc phát triển từ “tứ vị nhất thể” thành “ngũ vị nhất thể”,
bao gồm: xây dựng kinh tế, xây dựng chính trị, xây dựng văn hố, xây dựng xã hội,
xây dựng văn minh sinh thái (tôn trọng tự nhiên, thuận theo tự nhiên, bảo vệ tự
nhiên).
Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh, trong điều kiện lịch sử mới, giành lấy
thắng lợi mới của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, cần phải nắm chắc tám yêu
cầu cơ bản, đó là: kiên trì địa vị chủ thể của nhân dân; kiên trì giải phóng và phát triển
sức sản xuất; kiên trì thúc đẩy cải cách mở cửa; kiên trì duy trì cơng bằng chính nghĩa
xã hội; kiên trì đi con đường cùng giàu có; kiên trì thúc đẩy xã hội hài hịa; kiên trì
phát triển hịa bình; kiên trì sự lãnh đạo của Đảng.
Chỉ có nắm chắc những yêu cầu cơ bản này, đồng thời làm cho nó trở thành ý
chí chung của tồn Đảng, nhân dân các dân tộc trong cả nước mới có thể hồn thành
nhiệm vụ chung của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Đó chính là thực hiện hiện
đại hố xã hội chủ nghĩa và sự phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa. Do vậy, Báo cáo
tại Đại hội XVIII đưa ra hai mục: một là, xây dựng toàn diện xã hội khá giả khi tròn
100 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, hai là, xây dựng thành công quốc gia
17


hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa khi tròn 100 năm
thành lập nước Trung Quốc mới.
Trong Báo cáo Chính trị của Đại hội XIX, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã bổ
sung “Mục tiêu” trên nền tảng hoàn thành xây dựng toàn diện xã hội khá giả, phấn đấu
đến giữa thế kỷ XXI, Trung Quốc hoàn thành xây dựng cường quốc xã hội chủ nghĩa
hiện đại: giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa, tươi đẹp. Đảng Cộng sản Trung Quốc
cũng bổ sung làm rõ hơn “hai mục tiêu 100 năm” - đó là, hoàn thành xây dựng toàn
diện xã hội khá giả với kinh tế phát triển hơn, dân chủ kiện toàn hơn, khoa học giáo dục
tiến bộ hơn, văn hóa phồn vinh hơn, xã hội hài hòa hơn, đời sống nhân dân giàu có hơn
vào dịp 100 năm ngày thành lập Đảng (2021), sau đó phấn đấu tiếp thêm 30 năm, cơ

bản thực hiện hiện đại hóa, xây dựng Trung Quốc thành nước xã hội chủ nghĩa hiện đại
vào dịp 100 năm ngày thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2049)1.
Đồng thời, Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định rõ, mục tiêu tổng quát của Chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc là “năm trong một”, mục tiêu chiến lược là “bốn toàn
diện”, nhấn mạnh kiên định tự tin về con đường, tự tin về lý luận, tự tin về chế độ, tự tin
về văn hóa. Xác định rõ, đặc trưng bản chất nhất của Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ưu thế lớn nhất của chế độ chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc1…
2.1.2. Những khó khăn, thách thức của “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc”
Cùng với những thành tựu đã đạt được, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng chỉ
ra những thách thức, khó khăn to lớn và chủ yếu được biểu hiện ở ba vấn đề, đó là
động lực, cân bằng và xử lý.
Một là, làm thế nào để tạo ra động lực phát triển mới. Nội dung chủ yếu bao
gồm: Năng lực sáng tạo khoa học kỹ thuật chưa đủ mạnh, cơ cấu ngành nghề bất hợp
lý, phương thức phát triển vẫn chủ yếu theo kiểu thơ, cơ sở nơng nghiệp yếu, sự trói
buộc bởi tài nguyên thiên nhiên ngày càng nghiêm trọng, bộ phận các ngành sản
1

Bộ Ngoại giao (Việt Nam), Báo cáo chính trị Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc 18/10/2017 (bản dịch tiếng
Việt), tr.13, 18
1
Bộ Ngoại giao (Việt Nam), Báo cáo chính trị Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc 18/10/2017 (bản dịch tiếng
Việt), tr..13

18


xuất cung vượt quá cầu, doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thể chế cơ chế kìm
hãm khoa học phát triển còn nhiều, nhiệm vụ đi sâu cải cách mở cửa và chuyển đổi

phương thức phát triển kinh tế còn khó khăn.
Hai là, làm thế nào để thực hiện cân bằng giữa phát triển và hưởng thụ công
bằng. Chủ yếu biểu hiện ở: Phát triển không cân bằng, không nhịp nhàng, không bền
vững; khoảng cách phát triển giữa các khu vực, giữa thành thị và nông thôn, khoảng
cách phân phối thu nhập của người dân vẫn còn lớn; các vấn đề dân sinh liên quan
đến lợi ích thiết thân của người dân như giáo dục, việc làm, bảo đảm xã hội, y tế,
nhà ở còn nhiều bất cập; các dịch vụ cơng cộng cơ bản cịn thiếu, đời sống của một
bộ phận quần chúng nhân dân cịn khó khăn, nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo cịn gian
nan, mơi trường sinh thái chưa có chuyển biến cơ bản.
“Ba chênh lệch lớn” mới nảy sinh trong quá trình cải cách: chênh lệch giàu
nghèo, chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, chênh lệch giữa các vùng - miền.
Ba là, mơ hình phát triển truyền thống đầu tư lớn, ô nhiễm nhiều như trước
đây không thể tiếp tục. Hơn nữa cơ cấu kinh tế không hợp lý, một số ngành năng lực
sản xuất dư thừa, khả năng khai thác tài nguyên đã gần đến giới hạn. Tương đối
nghiêm trọng là tình trạng diện tích canh tác giảm mạnh, chất lượng đất canh tác
thối hóa, do đơ thị mở rộng, do đất được đưa vào sử dụng trong công nghiệp và các
loại “trào lưu khu kinh tế mở”, “trào lưu khu thực nghiệm”, “trào lưu xây dựng bất
động sản”, “trào lưu làm sân gôn”, diện tích đất canh tác cịn giảm đi với tốc độ hàng
chục triệu mẫu mỗi năm.
Bốn là, làm thế nào để tối ưu hóa vấn đề tự quản lý của Đảng, Nhà nước và xã
hội. Chủ yếu biểu hiện ở: Trình độ văn minh xã hội và tố chất văn minh con người
vẫn chưa được nâng cao, một số lĩnh vực tồn tại hiện tượng mất đạo đức; mâu thuẫn
xã hội gia tăng; chưa tăng cường xây dựng pháp trị, đặc biệt là việc xây dựng pháp
trị chưa thích ứng, chưa phù hợp với nhu cầu phát triển của Đảng và Nhà nước, sự
kỳ vọng của quần chúng nhân dân. Trình độ năng lực và tư tưởng tác phong cán bộ
lãnh đạo chưa được nâng cao, vai trò gương mẫu tiên phong của cán bộ Đảng viên
chưa được tăng cường, một số tổ chức Đảng cơ sở còn yếu và lỏng lẻo, một số cán
bộ Đảng viên, bao gồm cả cán bộ cao cấp có lý tưởng và niềm tin không kiên định,
19



thối hóa, biến chất… Điều đó làm xói mịn cơ sở đạo đức tư tưởng của Đảng, phá
hoại sự đoàn kết và thống nhất tập trung của Đảng, làm tổn hại đến uy tín của Đảng,
mơi trường chính trị trong Đảng, ảnh hưởng đến sự nghiệp của Đảng và nhân dân.
Cùng với sự phát triển lớn mạnh và ngày càng tham gia sâu vào tồn cầu hóa
của kinh tế Trung Quốc, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng phải đối mặt với
những thách thức có tính tồn cầu. Những thách thức này chủ yếu có nguồn gốc từ
ba vấn đề là thiếu hụt động lực, phát triển thiếu cân bằng và trình độ xử lý lạc hậu.
Xét mơi trường quốc tế, khủng hoảng tài chính quốc tế bùng phát và lây lan
khiến kinh tế thế giới bất ổn. Điều này cũng gây ảnh hưởng rất lớn đối với Trung
Quốc, nền kinh tế Trung Quốc sẽ phải đối mặt với nhiều tác động về tốc độ, cơ cấu
và mô hình.
Trong tương lai, trên con đường cải cách Trung Quốc ít nhất còn phải vượt
qua 3 “bẫy”1: Một là “bẫy thu nhập trung bình”. Hai là “bẫy Tacitus”. (Nhà sử học
La Mã Tucitus cho rằng, khi quyền lực bị mất đi lịng tin của nhân dân, bất luận là
nói thật hay nói dối, làm việc tốt hay làm việc xấu, xã hội đều sẽ đưa ra những đánh
giá tiêu cực). Theo Tổng Bí thư Tập Cận Bình, bẫy này ảnh hưởng rất nguy hại đến
cơ sở cầm quyền và địa vị cầm quyền của Đảng. Ba là “bẫy Thucydides”. (Nhà sử
học Hy Lạp cổ đại Thucydides cho rằng, khi một nước lớn đang trỗi dậy cạnh tranh
với bá chủ thống trị sẵn có, nguy cơ mà hai bên phải đối mặt chính là kết thúc cục
diện này bằng chiến tranh). Hiện nay, xã hội quốc tế lo lắng sau khi Trung Quốc trỗi
dậy nhanh chóng sẽ nảy sinh xung đột với những quốc gia bá quyền cũ như Mỹ.
Tổng Bí thư Tập Cận Bình đã nhiều lần nhấn mạnh, nước mạnh chỉ có thể theo đuổi
chủ trương bá quyền khơng phù hợp với Trung Quốc, Trung Quốc không theo đuổi
hành động này. Trên thế giới khơng có “bẫy Thucydides”, song giữa các nước lớn
ln có những phán đốn chiến lược sai lầm, do đó tự tạo ra “bẫy Thucydides” cho
chính mình.

1


Chu Khả Tân, Cải cách của Trung Quốc: Kinh nghiệm và vấn đề, Tham luận tọa đàm “100 năm cách mạng tháng
Mười Nga”, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 8/2017.

20


Tóm lại, đối với Trung Quốc, sự nghiệp cải cách đã trở thành một cơng trình
hệ thống phức tạp, cần phải tính đến các yếu tố trong và ngồi nước, tiến hành cải
cách toàn diện, đồng bộ ở mọi lĩnh vực.
2.2. Chủ nghĩa xã hội ở Cộng hoà Cuba
Sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tác động mạnh mẽ đến
Cuba do khơng cịn các nguồn viện trợ. Mặt khác, trong hàng chục năm Mỹ và các
thế lực thù địch ln tìm cách chống đối, bao vây, cấm vận, song Cộng hoà Cuba
vẫn kiên cường đứng vững, vẫn giữ vững thành quả của cách mạng vừa phát triển
đất nước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong điều kiện, bối cảnh mới, để phù hợp hơn với tình hình, Đảng Cộng sản
Cuba đã có nhiều nhận thức mới về mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Cuba cần
xây dựng. Quan niệm về mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa xuất phát trước hết từ đặc
điểm, nhu cầu của đất nước Cuba, có tham khảo thêm những bài học kinh nghiệm
đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số nước.
Tháng 4/2011, sau 14 năm khơng tổ chức Đại hội (vì các lý do chủ quan và
khách quan khác nhau), Đảng Cộng sản Cuba đã tổ chức Đại hội VI và thông qua
đường lối cập nhật hóa mơ hình kinh tế - xã hội của đất nước. Tiếp đó tại Đại hội
VII (4/2016), Đảng Cộng sản Cuba đã đánh giá những thành tựu đạt được trong 5
năm thực hiện đường lối cập nhật hóa mơ hình kinh tế - xã hội, đồng thời thơng qua
các văn kiện chính, trong đó đáng chú ý là 3 văn kiện mang tính cương lĩnh để xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Cuba, đó là: 1/ Khái niệm hóa mơ hình phát triển kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa của Cuba; 2/ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tới năm
2030: Đề xuất về tầm nhìn quốc gia, các trụ cột và lĩnh vực chiến lược; 3/ Cập nhật
hóa đường lối kinh tế và xã hội của Đảng và cách mạng cho giai đoạn 2016 – 2021.
Qua các văn kiện quan trọng này có thể khái qt những đường nét cơ bản về

mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Cộng hoà Cuba hiện nay như sau:
Về mục tiêu: Trong Tầm nhìn quốc gia, Đảng Cộng sản Cuba khẳng định mục
tiêu xây dựng đất nước là có chủ quyền, độc lập, chủ nghĩa xã hội, dân chủ, phồn
vinh và bền vững.
21


Về chính trị: Đảng Cộng sản lãnh đạo xã hội và nhà nước, kiên trì mục tiêu
chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kết hợp giá trị các quan điểm Mác - Lênin với đặc trưng
truyền thống của Cuba. Đảng Cộng sản Cuba là tổ chức chính trị duy nhất và tiên
phong của dân tộc, trên cơ sở tư tưởng Hô-xê Mác-ti, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Phiđen Caxtoro; biểu thị của khối đoàn kết nhân dân xung quanh sự lãnh đạo
cách mạng, vì người nghèo và cho người nghèo.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là sự bảo đảm cho quyền tự do, độc lập và chủ
quyền dân tộc. Nhà nước đó đảm bảo dân chủ trên cơ sở quyền lực chủ quyền của
nhân dân được Hiến pháp và pháp luật quy định.
Về kinh tế: Hệ thống kinh tế mà Cuba xây dựng sẽ tiếp tục dựa trên nguyên
tắc sở hữu xã hội chủ nghĩa của toàn dân đối với những tư liệu sản xuất chính. Ngồi
ra, mơ hình quản lý cũng thừa nhận và thúc đẩy các hình thức khác như đầu tư nước
ngồi, hợp tác xã, nơng dân cá thể, những người thuê đất, người thuê nhân cơng,
người làm kinh tế tự doanh và các hình thức khác.
Đảng Cộng sản Cuba khẳng định, việc phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội bởi nó
sẽ cho phép Nhà nước có thể rảnh tay với những hoạt động kinh tế không chiến lược
đối với đất nước và những khu vực mà Nhà nước không thểthực hiện hiệu quả và chất
lượng cần thiết nếu áp dụng hình thức quản lý nhà nước.
Như vậy, Đảng Cộng sản Cuba cơng nhận và đa dạng hóa các hình thức sở
hữu và quản lý để các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật trên quy mô tồn
xã hội, góp phần làm cho tổng thể nền kinh tế ngày càng hiệu quả. Tuy nhiên, trong
hình thức quản lý phi nhà nước, không cho phép việc tập trung sở hữu vào các pháp

nhân và cá nhân.
Kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa là phương thức chủ yếu để quản lý kinh tế
nhưng sẽ tính đến các xu hướng phát triển của thị trường; sẽ tác động vào thị trường
đồng thời có tính đến những đặc điểm riêng của thị trường. Đảng Cộng sản Cuba
khẳng định, việc vận dụng quy luật cung - cầu không mâu thuẫn với nguyên lý kế
hoạch hóa. Hai khái niệm ấy có thể tồn tại song song và cùng đem lại lợi ích cho đất
nước. Việc thừa nhận thị trường trong hoạt động của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
22


khơng có nghĩa là Đảng, Chính phủ và các tổ chức quần chúng từ bỏ thực hiện vai
trị của mình trong xã hội là phải đối phó với bất cứ tình hình nào ảnh hưởng đến lợi
ích của quần chúng nhân dân. Thực hiện nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa “làm
theo năng lực, hưởng theo lao động”.
Phân định rõ vai trò đối với nền kinh tế của các cơ quan nhà nước và các
doanh nghiệp thể hiện trong việc phân định chức năng Nhà nước và chức năng
doanh nghiệp. Muốn vậy, Đảng Cộng sản Cuba chỉ rõ nhất thiết phải tiếp tục phấn
đấu với mục tiêu trao cho các doanh nghiệp quốc doanh xã hội chủ nghĩa sự tự chủ
và các quyền hạn lớn hơn, tách biệt chức năng doanh nghiệp khỏi chức năng Nhà
nước và phấn đấu đạt được việc quản lý các doanh nghiệp quốc doanh ngày càng
hiệu quả và năng suất cao.
Về văn hóa, xã hội: Coi trọng các chính sách xã hội nhằm bảo vệ các giá trị,
đặc biệt là những giá trị đạo đức, chính trị, văn hóa, tăng năng suất nhằm tăng của
cải vật chất cho sự phân phối công bằng.
Đáp ứng nhu cầu đạt được và duy trì sự cân bằng phù hợp giữa phát triển kinh
tế và phát triển xã hội. Bảo đảm quyền lao động, quyền được hưởng các dịch vụ y tế
và giáo dục miễn phí cho mọi cơng dân, đảm bảo đạt trình độ giáo dục tối thiểu và
quyền có cơ hội tiếp cận giáo dục đại học. Ở Cuba, Nhà nước tiếp tục đảm bảo các
dịch vụ giáo dục và y tế không mất tiền cho tồn dân. Nâng cao vai trị của gia đình
là tế bào cơ bản của xã hội; Bảo đảm cung cấp dịch vụ trợ cấp chăm sóc cho những

người khơng nơi nương tựa.
Việc nâng cao các điều kiện sống được thể hiện như một mục tiêu ưu tiên về
lương thực, thực phẩm, nước sạch, vận tải công cộng, nhà ở, văn hóa, thể thao, vui
chơi giải trí cũng như việc bảo vệ và giữ gìn các giá trị văn hóa, nghệ thuật, khoa
học và lịch sử dân tộc được tiếp tục thúc đẩy…Tất cả những người tham gia lao
động đều được hệ thống an sinh xã hội bảo trợ, bất kể về hình thức sở hữu hoặc quản
lý.
Về quyền con người: Đảng cộng sản Cuba khẳng định phẩm giá, sự bình đẳng
và tự do của con người là trung tâm của mơ hình kinh tế - xã hội. Mọi cơng dân bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ; được đảm bảo thực hiện hiệu quả các quyền đó. Trong
23


đó, lao động đồng thời là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân và sẽ được trả
lương tùy theo số lượng và chất lượng của lao động.
Về quan hệ quốc tế: Đảng Cộng sản Cuba đề cao lòng u nước, tình đồn kết
và chủ nghĩa quốc tế; kiên quyết đấu tranh chống sự can thiệp của chủ nghĩa đế quốc
nhằm bảo vệ chủ quyền, độc lập dân tộc và phát triển; xóa bỏ định kiến đối với đầu
tư nước ngoài và thúc đẩy các cuộc đàm phán mới.
Đảng Cộng sản Cuba khẳng định, cần thiết phải có sự thay đổi cơ bản để xây
dựng chủ nghĩa xã hội nhưng phải tơn trọng các ngun tắc cách mạng. Đó là không
áp dụng “liệu pháp sốc” gây tổn hại cho các tầng lớp nhân dân trong xã hội, đi
ngược lại lợi ích của người lao động. Đồng thời, các cơng thức của chủ nghĩa tự do
mới nhất định sẽ không bao giờ được áp dụng vào chủ nghĩa xã hội ở Cuba; cơng
cuộc cập nhật hóa mơ hình kinh tế - xã hội với phương châm: “Không vội vàng
nhưng không ngưng nghỉ”.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Cuba cũng đang gặp những khó khăn cơ bản sau:
Về mặt chính trị, đất nước Cuba vẫn tiếp tục phải đối mặt với sự chống phá
của các thế lực thù địch, đứng đầu là Mỹ, mặc dù năm 2014, sau hơn 50 năm bị bao

vây, cấm vận, Cuba và Mỹ đã ký kết Hiệp định bình thường hóa quan hệ. Bối cảnh
của khu vực Mỹ Latinh và Caribe vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp cũng ảnh hưởng
đến con đường phát triển của Cuba.
Về mặt kinh tế, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu từ năm 2008 có
những tác động hết sức tiêu cực tới nền kinh tế Cuba, nhiều sản phẩm xuất khẩu
truyền thống vốn là thế mạnh và đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho Cuba gặp
khó khăn. Thêm vào đó từ năm 2009, Cuba đến hạn phải trả của một loạt các khoản
tín dụng vay trước đó... Tất cả những tác động đó khiến cho nền kinh tế Cuba gặp rất
nhiều khó khăn như hiệu quả thấp, suy giảm đầu tư cho các cơ sở sản xuất và hệ
thống hạ tầng, dân số không tăng và già hóa nhanh.
Phân tích một cách tổng thể tình hình trên cho thấy việc tìm kiếm một giải
pháp nhằm giải quyết sự mất cân đối vĩ mô và đảm bảo hiệu quả của nền kinh tế trở
thành vấn đề cấp bách để đất nước có thể tiếp tục phát triển. Đây chính là nhiệm vụ
24


trọng tâm mà Đại hội VII (2016) của Đảng Cộng sản Cuba đang tập trung lãnh đạo
đất nước vượt qua khó khăn thử thách để tiếp tục xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội ở Cuba.
2.3. Chủ nghĩa xã hội ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
Từ khi đất nước được giải phóng năm 1975, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
đã tổng kết thực tiễn nước Lào, tham khảo kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
một số nước để hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân và phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan niệm về mơ hình xã hội tương lai đang từng bước được định hình, với
một số nét chủ yếu sau:
Về kinh tế:
Trên cơ sở của đường lối đổi mới, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào từ
một nước kém phát triển, đã từng bước xây dựng nền kinh tế ngày càng phát triển,
cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Trong năm 2016, tăng trưởng GDP của Lào

đạt 7,9%, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 1.970 USD. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X (2016) của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã chỉ rõ tầm nhìn
và chiến lược là: “Phấn đấu đưa đất nước thốt khỏi tình trạng kém phát triển vào
năm 2020, tiến lên trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình cao
theo hướng phát triển xanh và bền vững đến năm 2030”1 .
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận
dụng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từng bước chuyển đổi kinh tế
theo hướng sản xuất hàng hố và thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước;
tăng cường mở rộng giao lưu hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và quốc
tế…
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hiện là một trong những động lực chính đối
với nền kinh tế Lào. Kể từ khi thơng qua Luật Đầu tư nước ngồi năm 1988 đến nay,
Lào đã thu hút được trên 22 tỷ USD với hơn 4.500 dự án của các nhà đầu tư đến từ
54 nước và vùng lãnh thổ. Trong đó, khống sản vẫn là lĩnh vực thu hút nhiều nhà
1

Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Văn kiện kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Quốc gia Lào, Viêng
Chăn, 2016, tr. 83-84.

25


×