ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GỊN
------------------------------------------------------
TÊN TIỂU LUẬN
TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP CỦA SINH
VIÊN SAU KHI TỚT NGHIỆP
Mơn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học Giảng viên: Lê Nguyễn Bình Minh
Thời gian nộp: 29/04/2021
Năm học 2020-2021
TRANG TÓM TẮT TIỂU LUẬN
Với thế hệ sinh viên hiện tại của chúng tơi – hay cịn được gọi là Gen Z, có rất nhiều
thử thách mà các bạn sinh viên phải đối mặt khi chập chững những bước đầu tiên để
có thể làm chủ được cuộc đời của mình. Một trong số những rào cản đó chính là sự
thất nghiệp sau khi ra trường. Trả lời cho những câu hỏi “Vì sao?”, “Như thế nào?”…
là lý do mà chúng tôi viết nên bài tiểu luận này. Bài của chúng tôi được chia làm 5
chương với những màu sắc khác nhau nhằm làm rõ được bản chất của vấn đề. Chương
đầu tiên, chúng tôi tập trung vào việc nêu lên thực trạng và nguyên nhân cơ bản của
tình trạng sinh viên bị thất nghiệp sau khi ra trường. Phần thực trạng được làm rõ bằng
những số liệu trích từ nhiều nguồn, từ thực tiễn xã hội hiện tại. Để làm rõ nguyên
nhân, bài viết chủ yếu tập trung vào mảng quy trình và chất lượng đào tạo sinh viên
của các trường, cộng hưởng thêm vào đó là một số yếu tố khác như chính sách hay bản
thân của sinh viên. Qua chương 2, chúng tôi làm rõ cho người đọc hiểu được những
khái niệm về thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp cùng với đó là mối liên hệ giữa thất nghiệp
và một số thành tố khác của nền kinh tế. Chương thứ 3, chúng tơi mang tới những
phân tích cụ thể cho việc làm thế nào để có thể nghiên cứu một cách tường tận nhất về
tình trạng thất nghiệp hiện nay. Chương 4, chúng tôi đào sâu hơn vào những phát hiện
của bản thân về việc tại sao sinh viên ra trường có nguy cơ lớn bị thất nghiệp và đề ra
những giải pháp để hạn chế những rủi ro ấy. Cuối cùng, người đọc – nhất là các bạn
sinh viên, có thể rút ra được vài kinh nghiệm quý báu cho bản thân trên con đường lập
nghiệp.
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1
Chương 1: GIỚI THIỆU
2
1.1. Thực trạng và nguyên nhân cơ bản của hiện tượng thất nghiệp của sinh viên
sau khi ra trường
2
1.1.1. Thực trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường
2
1.1.2. Quá trình đào tạo từ các trường đại học.
3
1.1.3. Một số nguyên nhân khác dẫn tới tình trạng thất nghiệp
6
1.2. Lý do chọn đề tài
8
1.3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu
9
1.3.1. Mục đích
9
1.3.2. Mục tiêu
9
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
10
2.1. Thất nghiệp
10
2.1.1. Khái niệm thất nghiệp
10
2.1.2. Tình hình thất nghiệp ở Việt Nam những năm gần đây
10
2.2. Phân loại thất nghiệp
11
2.2.1. Thất nghiệp tạm thời
12
2.2.2. Thất nghiệp cơ cấu
12
2.2.3. Thất nghiệp nhu cầu
12
2.2.4. Thất nghiệp ẩn
13
2.3. Tỷ lệ thất nghiệp
13
2.3.1. Khái niệm
13
2.3.2. Công thức tính tỷ lệ thất nghiệp
13
2.4. Mối liên hệ giữa thất nghiệp và lạm phát – lam phát ảnh hưởng thế nào đến
thất nghiệp và ngược lại
13
2.5. Mối liên hệ giữa thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế - xã hội
14
Chương 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
15
3.1. Thiết kế nghiên cứu
15
3.1.1. Dữ liệu nghiên cứu
15
3.1.2. Lựa chọn mẫu khảo sát
15
3.1.3. Xử lý số liệu
16
3.1.4. Quy trình nghiên cứu
16
3.2. Đối tượng nghiên cứu
16
3.2.1. Khách thể nghiên cứu
16
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu
16
3.2.3. Câu hỏi nghiên cứu
16
3.2.4. Giả thuyết nghiên cứu
16
2
3.3. Phương pháp thu nhập thông tin
3.3.1. Phương pháp phân tích tài liệu
3.3.2. Phương pháp phỏng vấn sâu bán cấu trúc
3.3.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
3.3.4. Phương pháp thống kê
Chương 4: NGHIÊN CỨU
4.1 Nguyên nhân thất nghiệp của sinh viên Việt Nam
4.1.1. Nguyên nhân khách quan
4.1.2. Nguyên nhân chủ quan
4.2. Giải pháp
4.2.1. Về phía sinh viên
4.2.2. Về phía nhà trường
4.2.3. Về phía xã hội
Chương 5: KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
3
17
17
18
18
19
20
20
20
22
24
24
26
27
28
30
LỜI MỞ ĐẦU
Có bao giờ các bạn đã ngồi xuống và suy nghĩ rằng tại sao chúng ta lại học đại
học khơng? Học xong thì phải tìm một cơng việc ổn định để làm việc, hay chúng ta
thấy người ta sao thì mình làm vậy cứ theo tự nhiên. Chúng ta ngồi đây đã là năm
nhất đại học, đang làm bài nghiên cứu khoa học rồi chuẩn bị thi cuối kì và thế là hết
năm nhất. Các bạn có định hướng được là mình đang học ngành QTKD, KDQT,... thì
sau này sẽ làm những cơng việc gì khơng hay vẫn đang mông lung quay cuồng với sự
đắn đo không biết sau này làm gì thì sẽ phù hợp với mình. Chính vì lẽ đó, nhóm 9
chúng tơi sẽ nghiên cứu về vấn đề “Tình trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi tốt
nghiệp” để chúng ta nhận thức đúng đắn và có những kế hoạch học tập và làm việc
hiệu quả.
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội tồn tại ở nhiều thời kì, nhiều xã hội.
Thất nghiệp được xem là vấn đề trung tâm của các xã hội hiện đại. Khi tỉ lệ thất
nghiệp cao nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến mọi mặt của xã hội.
Khi thất nghiệp gia tăng thì một phần tài nguyên sẽ lãng phí, thu nhập của người dân
sẽ bị giảm sút. Về mặt xã hội, thất nghiệp gây ra hậu quả nặng nề về con người tâm lí
và xã hội. Về kinh tế, khi tỉ lệ thất nghiệp tăng sẽ kéo theo sự gia tăng của sản lượng
bị bỏ đi hoặc không sản xuất. Cho dù thất nghiệp gây ra nhiều hậu quả xấu cho xã hội
nhưng để u cầu một xã hội khơng có thất nghiệp là một khó khăn. Vì vậy, Chính
phủ ln đưa ra các biện pháp nhằm mục đích giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống đúng
bằng tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên. Việc đưa ra các giải pháp liên quan đến thất nghiệp là
mối quan tâm của mọi quốc gia xã hội. Đối với nước ta có dân số đơng thì vấn đề giải
quyết vấn đề việc làm cho người lao động gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt là những
năm gần đây, khi đất nước đang vươn mình đổi mới thì tình trạng thất nghiệp trở nên
nhức nhối. Nhất là thế hệ sinh viên khi mà số sinh viên sau khi ra trường năm nay
luôn cao hơn trước.
1
Chương 1 : GIỚI THIỆU
Nền kinh tế của đất nước ta đang trên đà phát triển, từ nền kinh tế bao cấp nhà
nước hỗ trợ tồn bộ chí phí đầu tư, lỗ đâu nhà nước chịu tồn bộ thì giờ đây đất nước
ta đang phát triển lên nền kinh tế thị trường, cơ chế thị trường nhiều thành phần, tự do
kinh doanh, tự do phát triển. Chính vì vậy đất nước đã có sự thay đổi đáng kể, chúng ta
có thể nhìn thấy một bộ mặt mới của đất nước. Bên mặt thuận lợi thúc đẩy phát triển
kinh tế của nền kinh tế thị trường thì cũng có khơng ít những khó khăn, những tiêu cực
phát sinh trong nền kinh tế và một trong những khó khăn mà nhà nước ta đang phải
đương đầu đó là tình trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường ngày càng tăng
trong cơ chế thị trường ngày nay vấn đề mà gần như khơng xảy ra trong thời kì bao
cấp. Đất nước càng phát triển bao nhiêu ngồi những cơng nghệ hiện đại phục vụ cho
kinh doanh sản xuất thì một trong những yếu tố quyết định sự phát triển của đất nước
là lượng lao động, trong nền kinh tế thị trường ngày nay lực lượng lao động là những
sinh viên được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng… là lực lượng trẻ của đất
nước rất năng động và có năng lực trong cơng việc. Chính vì vậy sinh viên là nguồn
nhân lực rất quan trọng, chúng ta cần biết cách sử dụng một cách hợp lý và hiệu quả
nhất. Nhưng tình trạng thất nghiệp của sinh viên nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác
nhau, nhiều cách nhìn khác nhau, quan điểm khác nhau. Vì vậy, mọi người chưa có sự
nhìn nhận vấn đề một cách tồn diện, tổng thể mà chỉ nhìn một cách phiến diện.
1.1. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN CỦA HIỆN
TƯỢNG THẤT NGHIỆP CỦA SINH VIÊN SAU KHI RA TRƯỜNG:
1.1.1. Thực trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường:
Đất nước ta đang trên đà phát triển, hội nhập với những chính sách mở cửa giao
lưu hợp tác với các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới, từ nền kinh tế bao
cấp tập trung, đất nước không phát triển đi lên được, người giỏi có năng lực khơng
được trọng dụng khơng có khả năng phát triển phát huy năng lực thì giờ đây đất nước
đã chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, tự do kinh doanh, tự do cạnh
tranh phát triển phát huy được rất nhiều mặt tích cực đặc biệt là ta đã nhìn thấy được
một bộ mặt mới của đất nước. Có được điều đó thì sự cố gắng vươn lên của lớp thanh
niên mới là rất quan trọng để có thể đáp ứng nhu cầu, địi hỏi ngày càng cao của cơng
việc, của nền kinh tế thị trường. Sự phát triển mở rộng, hội nhập kinh tế thị trường đã
thực sự mang lại những cơ hội làm việc cho những sinh viên năng động, đầy năng
lượng, linh hoạt. Những sinh viên ra trường không phải ai cũng có thể đáp ứng nhu
cầu của cơng việc, dẫn tới tình trạng thất nghiệp và đây chính là vấn đề mà xã hội, nhà
nước quan tâm. Trong thời kỳ bao cấp tỷ lệ học đại học, cao đẳng… cịn rất ít nên tình
trạng thất nghiệp hầu như khơng có nhưng trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay
các trường đại học, cao đẳng, đào tạo nghề mọc lên rất nhiều nhằm đáp ứng nhu cầu
lao động có kỹ năng, kinh nghiệm. Theo nguồn tin trên Internet cho biết với trên 200
2
trường đại học, cao đẳng cho thấy tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp ra trường hằng năm rất
nhiều, điều đó cho thấy tỷ lệ với việc sinh viên thất nghiệp rất cao. Và con số mới nhất
của viện kinh tế phát triển thì sinh viên khối kinh tế ra trường thất nghiệp 80% hoặc
làm việc trái ngành nghề. Trong cơ chế thị trường ngày nay, về phía sinh viên bên cạnh
những sinh viên ra trường có đủ năng lực để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các
nhà tuyển dụng và những sinh viên có người thân xin việc hộ thì bên cạnh đó là những
sinh viên ra trường phải tự xin việc chật vật chạy đôn chạy đáo tìm việc làm qua báo
chí, tivi truyền thơng, qua những trung tâm giới thiệu việc làm… Do sinh viên ra
trường ngày càng nhiều mà khối lượng công việc khan hiếm có giới hạn mà nhiều
trung tâm giới thiệu việc làm “ma” mọc ra rất nhiều thuê địa điểm được vài ba bữa để
lừa đảo, thu phụ phí của những người đi xin việc rồi biến mất dẫn tới tình trạng sinh
viên vừa bị mất tiền, vừa khơng tìm được việc làm, chán nản rồi chấp nhận làm trái
ngành nghề hoặc làm bất cứ việc gì miễn là có thu nhập. Hiện nay sinh viên ra trường
ngày càng nhiều xong tỷ lệ thất nghiệp lại vẫn cao, có phải tất cả là do cơng việc có
giới hạn đã đủ nhân lực không cần người nữa? Vậy mà các nhà tuyển dụng lao động
vẫn “than thở “ rằng họ thiếu nguồn nhân lực, thiếu những người có kinh nghiệm và
năng lực thật sự và năng động trong công việc. Và một thực trạng thật đáng buồn hiện
nay, những sinh viên ra trường đi xin việc tại các công ty đều thấy rất khó khăn vì
khơng đáp ứng đủ những u cầu mà nhà tuyển dụng đưa ra.
Vậy một câu hỏi chúng ta cần đặt ra: "phải chăng do cơng việc ít ỏi hay do sự địi
hỏi khó tính của các nhà tuyển dụng, hay tình trạng học khơng đến nơi đến chốn của
sinh viên khi còn ngồi trên ghế nhà trường, hay q trình đào tạo của các trường đại
học cịn nhiều mặt chưa được tốt?" Đất nước càng ngày càng đi lên phát triển lên một
tầm cao mới. Như vậy, nhu cầu địi hỏi của cơng việc khơng chỉ dừng ở đây mà sự đòi
hỏi còn phải cao hơn nữa, nếu vậy sinh viên của đất nước ta có thể đáp ứng được
khơng? Tình trạng thất nghiệp có cịn tăng hay không? Một câu hỏi được đặt ra cho
các nhà nước, cho các nhà tuyển dụng và cho các nhà giáo dục đào tạo hiện nay. Và
chính phủ đã có những biện pháp gì để giải quyết vấn đề trên?
1.1.2. Quá trình đào tạo từ các trường đại học:
a. Về cơ cấu - tổ chức đào tạo sinh viên trong trường đại học:
Có rất nhiều ngun nhân dẫn tới tình trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra
trường như do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường hay do một phần chính sách của
nhà nước hay do bản thân của sinh viên, những suy nghĩ của gia đình sinh viên những
người đang được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng… Nhưng chúng ta không
thể không nhắc tới một phần trách nhiệm của nhà đào tạo, những người đã đào tạo ra
nguồn lao động trẻ hiện nay và trong tương lai. Các trường đại học, cao đẳng, trung
tâm dạy nghề… đa phần đã được xây dựng cách đây mấy chục năm do vậy cơ sở hạ
tầng thì cũ kỹ, lạc hậu, thiếu thốn làm ảnh hưởng rất nhiều tới quá trình đào tạo của
3
các trường. Mặt khác, hiện nay khi đất nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ, hội nhập
giao lưu thì các chương trình đào tạo của các trường đại học ở nước ta được đánh giá
trên thế giới là còn quá lạc hậu, chưa bám sát vào thực tế, lý thuyết quá nhiều mà thực
hành không được là bao dẫn tới tình trạng sinh viên ra trường lý thuyết thì thuộc làu
làu nhưng khi bắt tay vào thực tế thì cịn rất non kém, khơng có sự linh hoạt nên ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế. Do đâu dẫn tới tình trạng đó? Phải
chăng do trang thiết bị, cơ sở hạ tầng để phục vụ cho q trình học tập của sinh viên
cịn q nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu, không phát huy được hết khả năng tư duy sáng
tạo của sinh viên. Trong khi đất nước đang phát triẻn cả về kinh tế, xã hội, trong năm
2007 (27/11/2007) đất nước ta đã gia nhập WTO, mở cửa nền kinh tế. Chính vì vậy
khối lượng sinh viên dồn vào khối kinh tế quá nhiều dẫn tới tình trạng 90% sinh viên
ra trường trong khối kinh tế khơng có việc làm. Trong khi đất nước ta đang rất cần đến
những đội ngũ kỹ sư về kỹ thuật, cơng nghệ, xây dựng cơ bản thì nguồn cung cấp từ
phía đào tạo chưa đáp ứng được hết nhu cầu, dẫn đến cán cân về cơ cấu tổ chức bị
lệch, không cân bằng. Một phần trách nhiệm là do nhà đào tạo chưa nắm được nhu cầu
thực tế về nguồn nhân lực, khơng có thơng tin đầy đủ cho sinh viên về việc chọn
ngành nghề cho phù hợp với bản thân, với sự phát triển của đất nước để tránh hiện
tượng hiện nay rất nhiều học sinh, sinh viên chọn ngành nghề theo cảm ứng thấy hay,
thích là học mà khơng tính đến mục đích học về phục vụ cho tương lai và khả năng xin
việc sau khi ra trường.
Việt Nam đào tạo một khối lượng lớn cử nhân nhưng khơng thành tri thức. Ví dụ
cay đắng nhất là mỗi năm hàng nghìn tri thức trẻ bước vào bộ máy hành chính. Nhưng
nền hành chính cơng bao nhiêu năm tiếp tục trì trệ, lạc hậu. Đội ngũ cán bộ công chức
đang bị coi là khâu yếu nhất trong tiến trình cải cách hành chính. Đào tạo tri thức trẻ
thực chất là đào tạo hai con người trong một: một người tri thức và một người chuyên
gia. Nền giáo dục hiện nay chưa đặt ra mục tiêu rõ ràng, không có q trình đào tạo và
đó là ngun nhân nhiều người thợ không ra thợ, thầy không ra thầy. Và đây chính là
vấn đề thứ hai chúng ta cần quan tâm tới: chất lượng đào tạo của các trường đại học
hiện nay như thế nào?
b. Chất lượng đào tạo sinh viên của các trường đại học, cao đẳng:
Việt Nam hiện nay đang cần một nguồn lực tri thức trình độ cao để xác định một
hình thái kinh tế mới cao hơn, hồn thiện hơn và hiệu quả hơn đó chính là nền kinh tế
tri thức. Với yêu cầu này, nếu chất xám của tri thức nhạt màu thì cũng coi đó là một
ngun nhân dẫn tới thất nghiệp. Chính vì vậy chất lượng đào tạo tại các trường đang
là mối quan tâm của rất nhiều người. Trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta
hiện nay thì chất lượng đào tạo và thực tế nhu cầu đòi hỏi của cơng việc với sinh viên
cịn một khoảng cách q xa. Những gì trường đại học, cao đẳng đào tạo sinh viên và
những gì sinh viên học được, tiếp thu được vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu của
4
khối lượng công việc ngày càng cao của nền kinh tế thị trường. Một phần do cơ sở
trang thiết bị vật chất phục vụ cho giảng dạy và học tập còn thiếu thốn, nghèo nàn quá
nhiều so với thực tế dẫn tới tình trạng học khơng thể đi đơi với hành. Chính vì vậy,
trên thế giới hiện nay, qua sự phát triển của đất nước và qua những cuộc thi quốc gia,
qua sự giao lưu kinh tế chính tri, văn hoá sinh viên Việt Nam được thế giới đánh giá
rất giỏi về lý thuyết nhưng thực hành thì cịn non kém, chính vì vậy khơng thể phát
huy được hết khả năng tư duy sáng tạo của sinh viên. Một tình trạng cũng khá phổ
biến xảy ra ở hầu hết tất cả các trường đại học, cao đẳng ở tại những giảng đường giáo
viên ở trên cứ giảng dạy còn sinh viên ở dưới làm gì thì làm, ngủ trong giờ, nói chuyện
riêng, nghe nhạc... Nhiều giáo viên khơng cần quan tâm xem sinh viên có học bài
khơng, hay có tiếp thu được gì hay khơng? Để rồi chữ thầy trả lại cho thầy dẫn tới việc
chuyên môn non kém không làm được việc. Và một thực trạng cũng đáng buồn vẫn
đang xảy ra tại các trường đại học, cao đẳng... là tình trạng “chùa thầy” cịn xảy ra khá
phổ biến, đi thầy đi cô để giới hạn đề thi, coi thi lỏng lẻo, chấm bài cho điểm cao. Vì
thế mà kết quả trên bảng điểm sau khi ra trường của sinh viên hiện nay khơng phản
ánh một cách chính xác, trung thực được khả năng, năng lực thực tế của sinh viên,
khơng khuyến khích sự tư duy phát triển, khả năng sáng tạo.
Chính vì vậy, mà đó là một trong những nguyên nhân cơ bản ở ngay bên trong các
trường đại học, cao đẳng… vì sao sinh viên ra trường lại có tỷ lệ thất nghiệp cao như
vậy? Phải chăng q trình học khơng chăm chỉ thì ra trường khơng làm được việc,
không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của công việc? Mặt khác, do xã hội ngày
một phát triển với tốc độ cao, một luồng mạnh mẽ nhanh chóng vì vậy phương thức
sản xuất cũng phải thay đổi theo để phù hợp với sự phát triển. Khi phương thức sản
xuất thay đổi theo tốc độ phát triển của xã hội thì nó cũng địi hỏi sự thay đổi của lực
lượng sản xuất đặc biệt vấn đề ta cần đề cập đến là nguồn lao động có năng lực nhưng
lực lượng này lại không bắt kịp theo sự phát triển của phương thức sản xuất. Lý do vì
sao lại như vậy? Do cơ cấu, tổ chức, chất lượng đào tạo khơng bắt kịp sự thay đổi này,
nó bị tụt hậu hơn, do đó cán cân khơng cân bằng, đồng bộ giữa quá trình đào tạo và
thực tế yêu cầu công việc làm cho sinh viên sau khi ra trường khơng đủ khả năng đáp
ứng địi hỏi của các nhà tuyển dụng lao động. Tại một số nước nền giáo dục rất hiện
đại, phát triển như Mỹ, Pháp, Anh…. thì sinh viên khi mới học hết năm thứ ba họ có
thể đi làm tại các cơ quan, doanh nghiệp theo đúng ngành nghề mà họ được đào tạo, có
thể phát triển hết khả năng sáng tạo, vận dụng thành thạo những gì họ được học và họ
cịn học thêm các khoá học về ngoại ngữ, tin học để củng cố nguồn kiến thức của
mình. Và ở nước ta hiện nay các trung tâm dạy ngoại ngữ, tin học mọc ra rất nhiều với
những giảng viên nước ngoài, một số trung tâm rất có tiếng và uy tín như Anh Ngữ
Luân Đôn, Apollo,… nhưng phần lớn sinh viên sau khi học lượng kiến thức cũng
không được củng cố là bao nhiêu. Vì sự phát triển của khoa học - kỹ thuật ngày càng
cao nên cơng việc cũng địi hỏi đội ngũ lao động có trình độ, năng lực. Điều này đòi
5
hỏi ngành giáo dục phải đưa ra phương pháp đào tạo mới và những giải pháp để cải
thiện chất lượng đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng…
1.1.3. Một số nguyên nhân khác dẫn tới tình trạng thất nghiệp:
a. Từ phía nền kinh tế - xã hội:
Những năm về trước nước ta vẫn cịn thực hiện chế độ chính sách bao cấp thì thực
trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường hầu như là khơng có. Ngày đó sinh
viên đi học đại học cịn rất ít, sinh viên ra trường được phân cơng tác ln, nhìn vào có
thể đã có việc làm nhưng đơi khi trong cơng việc chỉ là sự sắp xếp cho đủ chỗ mà thơi,
cho có hình thức, khơng thì làm chơi dài đến cuối tháng nhận lương, nhà nước khơng
có chính sách thay đổi, khuyến khích sự phát triển khả năng của người lao động.
Nhưng trong những năm trở lại đây, nhà nước đã có chính sách mở cửa kinh tế, hội
nhập chuyển sang nền kinh tế thị trường tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, nhà nước
không bao cấp như trước nữa mà lỗ đâu doanh nghiệp phải chịu, lãi thì hưởng, chính
vì vậy vấn đề việc làm càng ngày càng trở nên bức bách. Việt Nam đang cần một
nguồn lực tri thức trình độ cao để xác định một hình thái kinh tế mới cao hơn, hoàn
thiện hơn và hiệu quả hơn đó là nền kinh tế tri thức. Trong các cơ quan nhà nước,
doanh nghiệp, tư nhân hiện nay thì cơ chế tổ chức làm việc gọn nhẹ hơn trước nhiều
nó địi hỏi một người có thể làm cơng việc của 2 - 3 người. Do vậy những lao động
được tuyển vào được cân nhắc rất kỹ lưỡng và cẩn thận tuỳ theo khối lượng, tính chất
mà cơng việc đòi hỏi và khả năng của người đi xin việc. Thực tế hiện nay phần lớn
sinh viên phải tự mình tìm việc làm trừ một số ngành như bộ đội, cơng an… thì được
phân cơng tác. Do nhu cầu đời sống ngày càng cao, ai cũng muốn sướng không muốn
chịu khổ nên sinh viên ra trường luôn muốn trụ tại các thành phố lớn để làm việc. Để
được làm việc ở thành phố, họ có thể làm bất cứ ngành nghề gì miễn là có thu nhập, kể
cả làm trái ngành nghề đào tạo. Chính vì vậy, ở một số nơi ở vùng sâu vùng xa, hải
đảo, dân tộc vẫn thiếu trầm trọng nguồn lao động trong khi ở thành phố đang đương
đầu với tình trạng thất nghiệp ngày càng cao. Vấn đề nào cũng có tính hai mặt của nó.
Nền kinh tế thị trường cũng vậy, chúng ta có thể nhìn thấy rất rõ tính hai mặt của vấn
đề này: một mặt nó tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển mạnh, tạo ra sự
cạnh tranh, tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển đi lên. Cũng chính vì vậy nó
khiến cho mọi người phải có sự cố gắng hết mình, nỗ lực hết mình, để trang bị cho
mình những kiến thức phong phú hơn, đầy đủ hơn để đáp ứng được nền kinh tế ngày
một khó tính hơn. Mặt khác nền kinh tế thị trường cũng có những tác động lớn đến xã
hội gây ra sự thiếu thừa về lực lượng lao động, làm mất sự cân đối về nguồn lực lao
động và nảy sinh ra nhiều vấn đề khác trong việc làm.
6
b. Về phía chính sách nhà nước:
Bên cạnh những nguyên nhân về kinh tế - xã hội, về phía đào tạo thì chính sách
của nhà nước cũng là yếu tố đáng kể tác động đến vấn đề này. Trong những năm gần
đây nhà nước đã có sự quan tâm rất nhiều đến q trình đào tạo nói chung và đào tạo
đại học nói riêng, khuyến khích sử dụng sinh viên sau khi ra trường. Ví dụ như: sinh
viên trường sư phạm khơng phải đóng học phí, đối với các trường khác những sinh
viên thuộc diện chính sách như: con thương binh, bệnh binh, con nhà nghèo vượt
khó… thì được miễn giảm một phần học phí và có thể được trợ cấp thêm một khoản
tiền. Nhưng bên cạnh đó, nhà nước vẫn chưa có những chính sách hợp lý lắm để
khuyến khích sinh viên sau khi ra trường về vùng sâu vùng xa n tâm cơng tác, ví dụ
như: do nhà nước chưa có những chính sách hợp lý lắm mà sinh viên sau khi ra trường
không tự nguyện công tác ở vùng sâu vùng xa, dân tộc ít người mà tồn phải bắt buộc,
cưỡng ép. Bên cạnh đó, do nền kinh tế càng phát triển, nhà nước có rất nhiều chính
sách để phát triển kinh tế. Chính vì vậy sinh viên lựa chọn khối kinh tế quá nhiều rồi
dẫn tới tình trạng dư thừa nguồn nhân lực trong khối kinh tế trong khi các ngành nghề
khác như nông lâm nghiệp, thuỷ hải sản… không được nhắc tới nhiều trên truyền
thông nên người dân ln có xu hướng học những ngành đó sẽ khơng xin được việc,
khó xin việc mà chỉ đâm đầu vào kinh tế dẫn tới tình trạng 90% sinh viên khối kinh tế
thất nghiệp. Phải chăng nhà nước cần phải có những chính sách biện pháp hợp lý hơn,
cụ thể hơn thoả đáng hơn nữa cả về mặt vật chất cũng như tinh thần để sinh viên sau
khi tốt nghiệp sẵn sàng làm việc ở bất cứ đâu, các ngành nghề phát triển một cách cân
bằng để góp phần vào sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
c. Về phía bản thân – gia đình của đối tượng được đào tạo:
Ngay bản thân sinh viên cũng là một nguyên nhân rất quan trọng dẫn tới tình trạng
thất nghiệp hiện nay. Chúng ta những người đã từng trải qua giai đoạn là sinh viên
cũng hiểu rằng kiến thức mà sinh viên tiếp thu được cịn rất ít và những chương trình
học ở các trường đại học khơng áp dụng được mấy khi ra trường. Cũng chính vì vậy
tình trạng học đối phó, học trước qn sau, học để có cái bằng đang là xu hướng khá
phổ biến tại các trường đại học hiện nay. Do vậy sinh viên tốt nghiệp ra trường năng
lực và kiến thức không nhiều, không thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của
cơng việc và tình trạng khơng tìm được cơng việc đúng với chuyên môn được đào tạo
là khá phổ biến dẫn tới việc sinh viên chấp nhận làm trái ngành nghề chỉ để có thu
nhập nhằm bám trụ lại thành phố. Và một suy nghĩ khác của những sinh viên tỉnh lẻ,
nông thôn họ đã phải chịu cái cảnh khổ cực muốn học hành để vươn lên thoát khỏi số
phận. Chính vì vậy khi ra trường họ khơng có suy nghĩ hay xu hướng về quê hương
phục vụ quê hương mà muốn kiếm việc ở những thành phố lớn như Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh… để thốt khỏi cảnh thôn quê và thành phố đang phải đương đầu
với tình trạng quá tải về dân số cũng như sức ép về việc làm. Bản thân sinh viên là một
7
vấn đề nhưng bên cạnh họ là những người thân, gia đình của sinh viên cũng có lối suy
nghĩ như vậy, ln muốn con mình học ở những trường đại học tốt có tiếng rồi ở ngồi
thành phố đi làm ln khơng cần biết con mình làm việc gì có đúng ngành nghề
khơng? Vì họ khơng có sự hiểu biết rõ ràng, đúng đắn. Ví dụ: có những cha mẹ đã nói
với con mình rằng: "Con phải học hành chăm chỉ cố gắng ra trường kiếm công việc ở
thành phố trở về quê làm gì cho khổ, thế mới đổi đời được con ạ". Nếu ai cũng có
những tư tưởng như vậy thì lấy ai để phát triển quê hương, học để phục vụ quê hương
minh phát triển hơn, giàu đẹp hơn. Tình hình này đã và đang diễn ra làm ảnh hưởng
xấu đến chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước ở miền núi, nông thôn,
vùng sâu vùng xa.
1.2. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong xã hội hiện đại, việc làm cho người lao động có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia nói chung và đối với cuộc sống của
mỗi cá nhân, gia đình nói riêng. Giải quyết việc làm cho người lao động, đặc biệt là
lao động trẻ đã trở thành chương trình mục tiêu quốc gia ở nhiều nước trên thế giới
trong đó có Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang ở trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”
với tỷ lệ thanh niên cao nhất trong lịch sử phát triển nhân khẩu học của đất nước khi
nhóm dân số trẻ từ 10 - 29 tuổi chiếm khoảng 33% dân số cả nước. Đây là một lợi thế
rất lớn để thực hiện mục tiêu “cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” đất nước. Tuy nhiên
thực tế cho thấy, vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên đặc biệt là thanh niên có
trình độ cao ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, tình trạng dư cung vẫn cịn khá phổ
biến trên thị trường lao động. Số lượng sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học, cao
đẳng, trung cấp trong cả nước khơng tìm được việc làm ngày càng nhiều. Cụ thể:
- Theo báo cáo tổng hợp của Viện Khoa học Lao động và Xã hội hợp tác với 3
trường đại học ở Hà Nội: năm 2013, cứ 10 người thì có 3 người đã từng bị thất nghiệp
trong vòng 1 năm kể từ khi ra trường. Sau 1 năm tốt nghiệp hơn 90% đối tượng khảo
sát có việc làm trong đó 33% chấp nhận làm việc trái ngành, nghề và trình độ; 9% đối
tượng vẫn khơng thể tìm được việc làm.
- Mới đây nhất, theo số liệu Điều tra Lao động Việc làm Quý 4/2015 của Tổng cục
Thống kê, cả nước có 155,5 nghìn người có trình độ từ đại học trở lên, 115 nghìn cao
đẳng chuyên nghiệp và 6,1 nghìn cao đẳng nghề bị thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp của
các nhóm này lần lượt là 3,3%, 8,16% và 3,44% cao hơn so với tỷ lệ thất nghiệp chung
của cả nước là 2,31%.
Qua những số liệu thống kê trên ta thấy được tình trạng sinh viên sau khi ra trường
khơng có việc làm của cả nước ngày càng phổ biến. Do vậy việc tìm ra những nguyên
nhân, những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến khả năng có việc làm của sinh viên tốt
nghiệp cũng như tìm ra những giải pháp hiệu quả và mang tính khả thi để giải quyết
8
tình hình này là vấn đề rất cần thiết. Xuất phát từ thực tế trên, tác giả lựa chọn đề tài:
“Tình trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi tốt nghiệp”.
1.3. MỤC ĐÍCH VÀ MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
1.3.1. Mục đích:
Tìm hiểu thực trạng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp, những yếu tố ảnh
hưởng đến hiện tượng thất nghiệp của sinh viên hiện nay. Từ kết quả thu được, đóng
góp một vài giải pháp thiết thực giúp sinh viên có thể tìm được cơng việc sau khi ra
trường.
1.3.2. Mục tiêu:
Giúp cho mọi người và bản thân thành viên của nhóm hiểu rõ được vấn đề thất
nghiệp của sinh viên có tác động đến lực lượng lao động như thế nào, kinh tế xã hội có
bị ảnh hưởng nhiều không.
9
Chương 2 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ THẤT NGHIỆP
2.1. THẤT NGHIỆP:
2.1.1. Khái niệm thất nghiệp:
Ở Việt Nam, thất nghiệp là vấn đề mới nảy sinh trong thời kỳ chuyển đồi nền kinh
tế cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Vì vậy, tuy chưa có văn bản
pháp qui về thất nghiệp cũng như các vấn đề có liên quan đến thất nghiệp, nhưng có
nhiều cơng trình nghiên cứu nhất định. Những nghiên cứu bước đầu khẳng định thất
nghiệp là những người khơng có việc làm, đang đi tìm việc và sẵn sàng làm việc. Vì
vậy thất nghiệp ở Việt Nam có thể được định nghĩa là những người trong độ tuổi lao
động, có khả năng lao động, có nhu cầu việc làm, đang khơng có việc làm”. Trong
kinh tế học, thất nghiệp là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà khơng tìm
được việc làm.
2.1.2. Tình hình thất nghiệp ở Việt Nam những năm gần đây:
Đổi mới kinh tế và chính trị trong 30 năm qua đã thúc đẩy phát triển kinh tế và
nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở
thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp từ năm 2008. Mặc dù vậy, hệ thống bảo
hiểm thất nghiệp nói riêng và hệ thống an sinh xã hội nói chung tại Việt Nam vẫn chưa
hoàn thiện để phục vụ tốt người lao động, do đó đa số người dân phải làm mọi công
việc để tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình. Đây cũng chính là ngun nhân
khiến cho tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam thường thấp hơn so với các nước đang phát
triển. Theo kết quả TĐTDS&NO 2019, tỷ lệ thất nghiệp của dân số từ 15 tuổi trở lên
của Việt Nam là 2,05%; trong đó theo giới tính thì tỷ lệ thất nghiệp của nam giới từ 15
tuổi trở lên là 2,00%, còn ở nữ giới là 2,11%.
Bên cạnh đó, kết quả TĐTDS&NO 2019 của Tổng cục Thống kê đã cho thấy, tỷ lệ
thất nghiệp của người dân ở khu vực thành thị và nông thơn cũng có sự khác biệt khá
lớn. Việt Nam có tới 65,57% dân số cư trú ở khu vực nông thôn nhưng tỷ lệ thất
nghiệp của khu vực nông thôn lại thấp hơn gần hai lần so với khu vực thành thị. Tỷ lệ
thất nghiệp chung của người dân từ 15 tuổi trở lên ở nơng thơn chỉ có 1,64% (trong đó
ở nam giới là 1,59%, ở nữ giới là 1,69%); trong khi đó ở thành thị, tỷ lệ này lên tới
2,93% (trong đó ở nam giới là 2,86%, cịn ở nữ giới là 3,01%). Sự khác biệt về cơ hội
tiếp cận thơng tin về việc làm, trình độ chun môn kỹ thuật và khả năng lựa chọn
công việc linh hoạt của người lao động có thể là nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch
này.
Tính theo vùng kinh tế, Đơng Nam Bộ là vùng có tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên
thất nghiệp cao nhất cả nước với 2,65% dân số; tại đây tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là
2,96%, ở nơng thơn là 2,14%; cịn theo giới tính thì nữ giới lại có tỷ lệ thất nghiệp cao
hơn nam giới trong vùng với mức tương ứng là 2,71% và 2,60%. Đứng thứ 2 là Đồng
bằng sông Cửu Long với tỷ lệ thất nghiệp chiếm 2,42% số dân trong vùng, Bắc Trung
10
Bộ và Duyên hải miền Trung với tỷ lệ 2,14%. Hai vùng kinh tế có tỷ lệ thất nghiệp
thấp nhất cả nước lần lượt là Trung du và miền núi phía Bắc 1,20% và Tây Nguyên
1,50%. Theo Kết quả TĐTDS&NO 2019, những người thất nghiệp thường có độ tuổi
khá trẻ; hầu hết nguồn thất nghiệp có độ tuổi từ 15-54 tuổi (chiếm tới 91,7% tổng số
người thất nghiệp của cả nước); trong đó, tỷ lệ thất nghiệp của nam giới từ 15-54 tuổi
cao hơn nữ giới trong cùng độ tuổi, tương ứng là 92,6% tổng số nam giới thất nghiệp
và 90,9% tổng số nữ giới thất nghiệp. Người trong độ tuổi từ 25-54 tuổi có tỷ lệ thất
nghiệp cao nhất, chiếm gần một nửa tổng số lao động thất nghiệp của cả nước
(47,3%); và thực trạng này ở khu vực thành thị lên tới 52,7% và ở khu vực nông thơn
là 42,9%.
Điều đáng nói là kết quả Tổng điều tra cũng chỉ ra rằng, đối với tỷ lệ lao động thất
nghiệp theo trình độ tốt nhất đạt được, người thất nghiệp có trình độ từ cao đẳng trở
lên chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động thất nghiệp (18,9%) trong khi người thất
nghiệp chưa được đào tạo hoặc chỉ được đào tạo ngắn hạn (bao gồm: sơ cấp, trung
cấp) chiếm tỷ trọng thấp hơn rất nhiều (6,6%). Cũng trong 6 tháng đầu năm 2020, tổng
số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 29.000, tăng 38,2% so với cùng
kỳ năm 2019. Riêng trong quý II/2020, số lao động mất việc làm trong độ tuổi lao
động khoảng 1,3 triệu người và tăng 221.000 người so với cùng kỳ năm trước. Tình
hình thiếu việc làm quý II năm 2020 là 1,4 triệu người, tăng 292 nghìn người so với
quý trước và tăng 648,4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Theo số liệu của Tổng
cục Thống kê, số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý II/2020 là gần 1,3 triệu
người, tăng 192,8 nghìn người so với quý trước. Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao
động 6 tháng đầu năm 2020 là gần 1,2 triệu người, tăng 123,9 nghìn người so với cùng
kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động khu vực thành thị, quý II là
4,46%, tăng 1,28 điểm phần trăm so với cùng kỳ quý trước và 1,36 điểm phần trăm so
với cùng kỳ năm trước. Đây là tỷ lệ thất nghiệp cao nhất của khu vực này trong vòng
10 năm qua. Trong quý 1 năm nay, số người thiếu việc làm được ghi nhận là 971.400
người, tăng 143.200 người so với quý trước. Cũng theo Tổng cục Thống kê, số người
thất nghiệp trong độ tuổi lao động gần 1,1 triệu người, giảm 137.000 người so với quý
trước và tăng 12.100 người so với cùng kỳ năm trước. Tỉ lệ thất nghiệp trong độ tuổi
lao động quý 1 năm nay là 2,42%, tăng 0,08 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm
trước. Tỉ lệ thanh niên khơng có việc làm và không tham gia học tập hoặc đào tạo
trong quý 1 là 16,3%, tương đương với gần 2 triệu thanh niên, tăng 0,9 điểm phần trăm
tương đương tăng 51.600 người so với cùng kỳ năm trước.
2.2. PHÂN LOẠI THẤT NGHIỆP:
Thất nghiệp là một hiện tượng phức tạp cần phải được phân loại để hiểu rõ về nó.
Căn cứ vào nguồn gốc của thất nghiệp, ta có thể phân loại như sau:
11
2.2.1. Thất nghiệp tạm thời:
Là loại thất nghiệp xảy ra khi có một số người lao động đang trong thời gian tìm
kiếm một nơi làm phù hợp hơn hoặc những người mới bước vào thị trường lao động
đang chờ việc… Loại thất nghiệp này tồn tại ngay cả khi thị trường lao động cân bằng
Loại thất nghiệp này phát sinh do sự di chuyển không ngừng của người lao động giữa
các vùng, các loại công việc hoặc giữa các giai đoạn khác nhau của một số người tìm
việc làm sau khi tốt nghiệp hoặc di chuyển chỗ ở từ nơi này đến nơi khác... Vì sao ln
có tình trạng thất nghiệp tạm thời? Vì các loại hàng hóa mà doanh nghiệp và các hộ gia
đình có nhu cầu thường thay đổi theo thời gian. Khi nhu cầu về hàng hóa thay đổi, nhu
cầu lao động về những hàng hóa đó cũng thay đổi theo. Sự thay đổi trong cơ cấu nhu
cầu giữa các ngành (hoặc vùng) được gọi là sự dịch chuyển giữa các ngành. Sự dịch
chuyển này thường xuyên xảy ra, vì lao động cần có thời gian để thay đổi ngành nghề
của mình nên thất nghiệp tạm thời luôn tồn tại.
2.2.2. Thất nghiệp cơ cấu:
Thất nghiệp cơ cấu xảy ra khi có sự mất cân đối cung cầu giữa các thị trường lao
động (giữa các ngành nghề, khu vực...) loại này gắn liền với sự biến động cơ cấu kinh
tế và khả năng điều chỉnh cung của các thị trường lao động. Thất nghiệp cơ cấu gây ra
do sự suy thối của một ngành nào đó hoặc là sự thay đổi cơng nghệ dẫn đến địi hỏi
lao động có chất lượng cao hơn. Trong nền kinh tế hiện đại, khi thất nghiệp loại này
thường xuyên xảy ra và kéo dài thì nạn thất nghiệp sẽ trở nên nghiêm trọng và chuyển
sang thất nghiệp dài hạn.
2.2.3. Thất nghiệp nhu cầu:
Loại thất nghiệp này xảy ra trong tình trạng nền kinh tế suy thoái, khi mức cầu
chung về lao động giảm xuống. Nguồn gốc chính là sự suy giảm tổng cầu.
- Thất nghiệp cổ điển: là dạng thất nghiệp liên quan tới loại việc làm mà tiền công
thực tế trả cho người làm cơng việc đó cao hơn mức tiền cơng thực tế bình qn của
thị trường lao động chung, khiến cho lượng cung về lao động đối với công việc này
cao hơn lượng cầu. Dạng thất nghiệp này còn được gọi là thất nghiệp tiền công thực tế.
- Thất nghiệp cơ cấu: là dạng thất nghiệp do người lao động và người th mướn
lao động khơng tìm được nhau vì những lý do như khác biệt về địa lý, thiếu thông tin,
v.v...
- Thất nghiệp chu kỳ: là loại thất nghiệp liên quan đến chu kỳ kinh tế tại pha mà
tổng cầu thấp hơn tổng cung dẫn tới doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất và phải giảm
thuê mướn lao động. Dạng thất nghiệp này còn được gọi là thất nghiệp Keynes vì
Keynes là người đề ra lý thuyết về tổng cung - tổng cầu. Ở các nền kinh tế thị trường,
nó gắn liền với thời kỳ suy thối của chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất
hiện của loại này là tình trạng thất nghiệp xảy ra tràn lan ở khắp mọi nơi, mọi nghề.
12
- Thất nghiệp ma sát: là loại thất nghiệp tạm thời do người lao động đang chờ để
tìm được việc làm mà họ kỳ vọng chứ không phải không thể tìm được việc làm nào.
- Thất nghiệp trá hình: là dạng thất nghiệp của những người lao động không được
sử dụng đúng hoặc không được sử dụng hết kỹ năng. Thuộc loại này bao gồm cả
những người làm nghề nông trong thời điểm nông nhàn (đôi khi những người này
được tách riêng thành những người thất nghiệp theo thời vụ).
2.2.4. Thất nghiệp ẩn:
Là dạng thất nghiệp không được báo cáo. Như vậy, con số thất nghiệp là con số
mang tính thời điểm. Nó ln biến động theo thời gian.
2.3. TỶ LỆ THẤT NGHIỆP:
2.3.1. Khái niệm:
Tỷ lệ thất nghiệp là số công nhân thất nghiệp chia cho tổng số lao động dân sự, mà
bao gồm cả người thất nghiệp và những người có cơng ăn việc làm (tất cả những người
sẵn sàng và có khả năng làm việc cho thanh tốn).
2.3.2. Cơng thức tính tỷ lệ thất nghiệp:
(2.1)
2.4. MỚI LIÊN HỆ GIỮA THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT – LẠM PHÁT
ẢNH HƯỞNG THẾ NÀO ĐẾN THẤT NGHIỆP VÀ NGƯỢC LẠI:
Tình trạng thất nghiệp gia tăng tương quan với áp lực giảm lạm phát. Điều này
được minh họa bằng đường cong Phillips trong kinh tế học.
13
Trong ngắn hạn, thất nghiệp và lạm phát đúng là có sự chuyển dịch ngược chiều
nhau, do hai yếu tố này bị tăng trưởng kinh tế tác động theo hai hướng khác nhau. Khi
nền kinh tế bước vào giai đoạn phục hồi hoặc tăng trưởng cao, nhu cầu thuê mướn
công nhân tăng làm tỷ lệ thất nghiệp giảm, trong khi tổng cầu tăng gây ra lạm phát.
Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, tổng cầu giảm khiến lạm phát giảm, đồng thời
làm tăng tỷ lệ thất nghiệp. Các quan điểm khác nhau có thể đúng theo từng giai đoạn
khác nhau, góp phần đưa ra cái nhìn tồn diện về thực trạng thất nghiệp.
2.5. MỐI LIÊN HỆ GIỮA THẤT NGHIỆP VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ - XÃ HỘI:
Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp – các
nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và
dịch vụ. Thất nghiệp cịn có nghĩa là sản xuất ít hơn, giảm tính hiệu quả của sản xuất
theo quy mơ. Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ khơng có
người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt giảm. Hơn
nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít đi so với khi nhiều việc
làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn.
14
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU:
Đề tài được thực hiện qua hai giai đoạn là nghiên cứu định tính và nghiên cứu định
lượng. Nghiên cứu định tính được thực hiện thơng qua kĩ thuật phỏng vấn, thảo luận ý
kiến với một số anh chị sinh viên đã ra trường nhằm khám phá và xây dựng thang đo
để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xin việc làm đối với một sinh viên mới
ra trường và các yếu tố sinh viên nên trang bị. Nghiên cứu chính thức được thực hiện
bằng phương pháp định lượng, sau khi bảng câu hỏi được đánh giá là đạt, ngôn từ dễ
hiểu không gây nhầm lẫn về mặt ý nghĩa, cấu trúc và số lượng câu hỏi phù hợp.
3.1.1. Dữ liệu nghiên cứu:
Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ Internet. Dữ liệu sơ cấp thu thập thông qua bảng
câu hỏi khảo sát.
3.1.2. Lựa chọn mẫu khảo sát:
Trước tiên tính cỡ mẫu tối thiểu. Ta có cơng thức sau: n = p% * q% * (z/e%)2
(3.1)
Trong đó:
n : cỡ mẫu tối thiểu
p%
: tỷ lệ thuộc về một loại cụ thể
q% : tỷ lệ không thuộc về một loại cụ thể
z : giá trị z tương ứng với mức yêu cầu
e% : biên sai số yêu cầu
Khi tổng thể nhỏ hơn 10 000, ta có thể dùng mẫu nhỏ hơn mà khơng ảnh hưởng
đến độ chính xác. Đây gọi là cỡ mẫu điều chỉnh tối thiểu. Cỡ mẫu này được tính theo
cơng thức sau: n’ = n/(1+n/N)
(3.2)
Với:
n': cỡ mẫu tối thiểu điều chỉnh
n: cỡ mẫu tối thiểu
15
N: tổng thể
Áp dụng cơng thức tính trên, bây giờ tác giả tiến hành tính cỡ mẫu tối thiểu. Căn
cứ trên bài đọc về các phương pháp nghiên cứu, tác giả quyết định cần 95% chắn chắn
độ tin cậy trong ước lượng, điều này tương ứng với giá trị z = 1.96 và biên sai số có
thể chấp nhận được e = 3%. Theo một nghiên cứu sơ bộ trước ước lượng có trên 90%
sinh viên ra trường có việc làm nên tác giả quyết định chọn p = 91% và q = 9% từ đó
có được cỡ mẫu tối thiểu n = 350.
3.1.3. Xử lý số liệu:
Sử dụng phần mềm SPSS 20.0 và Excel để xử lý số liệu thu được từ khảo sát được:
thống kê dữ liệu, mô tả dữ liệu và thực hiện các phép kiểm định bằng phần mềm
SPSS. Sau đó tác giả dùng phần mềm Excel để vẽ biểu đồ dựa trên bảng tần số thu
được.
3.1.4. Quy trình nghiên cứu theo thứ tự:
1. Cơ sở lý thuyết.
2. Thảo luận ý kiến.
3. Khảo sát thu thập.
4. Thống kê mô tả, kiểm định Bảng câu hỏi.
5. Kết quả.
3.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
3.2.1. Khách thể nghiên cứu:
50 sinh viên đang học tập và đã tốt nghiệp
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu:
Tìm hiểu sinh viên tại một số trường đại học, cao đẳng.
3.2.3. Câu hỏi nghiên cứu:
Tình hình việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên hiện nay như thế nào?
Những yếu tố nào ảnh hưởng tới cơ hội tìm kiếm việc làm của sinh viên sau khi tốt
nghiệp ra trường?
Những giải pháp nào nhằm nâng cao hơn cơ hội tìm kiếm việc làm của sinh viên
hiện nay và trong tương lai?
3.2.4. Giả thuyết nghiên cứu:
Sinh viên khơng có định hướng nghề nghiệp trước khi học.
Sinh viên khơng có kinh nghiệm làm việc thực tế.
Sinh viên không chủ động học ngoại ngữ, tin học.
16
Sinh viên khơng biết tìm kiếm thơng tin và PR hình ảnh.
Sinh viên khơng thiết lập mạng lưới quan hệ.
Sinh viên bị động khi tìm việc.
Sinh viên dựa dẫm vào mạng Internet thái quá.
Sinh viên luôn than trách và đổ lỗi cho số phận.
Sinh viên ra trường thiếu kỹ năng làm việc.
Sinh viên xem thường buổi phỏng vấn.
Sơ yếu lý lịch không ấn tượng.
Chất lượng đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu xã hội.
3.3. PHƯƠNG PHÁP THU NHẬP THÔNG TIN:
Các phương pháp nghiên cứu xã hội học được sử dụng để thu thập thông tin phục
vụ cho nghiên cứu. Từ yêu cầu của Câu hỏi nghiên cứu và Giả thuyết nghiên cứu,
cộng với năng lực của người nghiên cứu, các phương pháp đặc trưng của ngành Xã hội
học như phân tích tài liệu; phương pháp quan sát; phương pháp phỏng vấn sâu đã được
chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu này. Phần này sẽ trình bày cách thức tiến hành các
phương pháp đã nêu.
3.3.1. Phương pháp phân tích tài liệu:
Phương pháp này giúp chúng tơi có thêm nhiều cơ sở để tiến hành nghiên cứu đề
tài. Sử dụng phương pháp này, chúng tôi biết được rằng, những nghiên cứu trước đã
làm được những gì, nghiên cứu của chúng tơi góp phần củng cố luận điểm nào, bổ
sung luận điểm nào… Ngồi ra, phân tích tài liệu cịn giúp chúng tơi có được các
thơng tin thứ cấp phục vụ cho việc chứng minh luận điểm nghiên cứu. Trong đề tài
này, việc phân tích tài liệu được tiến hành theo cách thức như sau: phân loại tài liệu
bao gồm hai loại: tài liệu thứ cấp và tài liệu sơ cấp.
a. Phân tích tài liệu thứ cấp:
Các tài liệu thứ cấp được phân thành các dạng chính, bao gồm: sách chuyên khảo,
báo, tạp chí, luận văn thạc sĩ - luận án tiến sĩ và các cơng trình nghiên cứu khác. Mỗi
dạng lại được xem xét cụ thể về: số lượng tài liệu của mỗi dạng, nội dung của tài liệu,
các kết luận chính rút ra được từ tài liệu, phần bình luận về cái được, chưa được, cái
còn thiếu của tài liệu đó. Việc làm này giúp chúng tơi có được cái nhìn tổng quan về
vấn đề mà chúng tơi tìm hiểu, từ đó tìm ra hướng nghiên cứu cho đề tài của chúng tôi.
Dạng tài liệu
Sách
Tên tác phẩm
Tác giả, năm
xuất bản, nhà
xuất bản
Nội dung
Các kết luận
chính
Bình luận của
người nghiên
cứu
Ngồi ra, trong q trình viết báo cáo, chúng tơi cũng sử dụng phương pháp phân
tích tài liệu thứ cấp bằng việc trích dẫn các kết quả nghiên cứu, các nhận định của các
17
nghiên cứu đi trước (có thể là kết quả đó giống hoặc khác với kết quả nghiên cứu của
chúng tôi) để minh họa thêm cho nghiên cứu của chúng tôi.
b. Phân tích tài liệu sơ cấp:
Tài liệu sơ cấp được chúng tơi sử dụng chính là các kết quả thu được từ phỏng vấn
sâu, từ việc xử lí các số liệu thu được qua phỏng vấn bằng bảng hỏi. Đây là nguồn tài
liệu chính phục vụ cho việc viết luận văn và chứng minh các giả thuyết nghiên cứu của
chúng tôi.
3.3.2. Phương pháp phỏng vấn sâu bán cấu trúc:
Phương pháp phỏng vấn sâu bán cấu trúc được dùng chủ yếu để nghiên cứu sơ bộ
và kiểm tra lại các thông tin với nguồn thông tin thu thập.
- Phỏng vấn sâu các đối tượng có liên quan tại một số trường đại học. Phương
pháp tiến hành là trao đổi trực tiếp qua trò chuyện với 10 người bao gồm cán bộ quản
lý, giảng viên có tham gia xây dựng chương trình đào tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh
nhằm tìm hiểu chương trình đào tạo từ giai đoạn năm 2011 đến 2021 có thay đổi, phát
triển như thế nào? Chương trình đào tạo thay đổi/ phát triển dựa trên cơ sở nào. Ngồi
ra, khi tiến hành thay đổi chương trình đào tạo các cơ sở đào tạo có tham khảo ý kiến
của người sử dụng lao động khơng? Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo có tạo mối quan hệ
hợp tác đào tạo với các doanh nghiệp hay không? Nguồn thông tin này là cơ sở để xây
dựng phiếu hỏi.
- Tiến hành phỏng vấn sâu bán cấu trúc hoặc liên hệ hoặc xin phép trao đổi qua
điện thoại với 5 người sử dụng lao động, để tìm hiểu những yêu cầu nào của người sử
dụng lao động có ảnh hưởng đến chương trình đào tạo. Phỏng vấn sâu người sử dụng
lao động về các yêu cầu của người sử dụng lao động hiện nay đối với sinh viên tốt
nghiệp đại học như: tìm hiểu ý kiến của người sử dụng lao động về năng lực của sinh
viên tốt nghiệp, những mặt mạnh và những mặt hạn chế của sinh viên tốt nghiệp đại
học được tuyển dụng. Mặt khác tìm hiểu các hoạt động mà người sử dụng lao động đã
tham gia vào quá trình đào tạo cụ thể: người sử dụng lao động có tư vấn với các trường
đại học trong việc xây dựng chương trình đào tạo hoặc chuẩn đầu ra hay không?...
Trong bước thực hiện này nhằm xác định những yêu cầu của người sử dụng lao động
hoặc các hoạt động của người sử dụng lao động làm nảy sinh các u cầu có liên quan
đến chương trình đào tạo trong những năm qua.
- Liên hệ và tham khảo ý kiến từ 2 chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục để thu thập
ý kiến và đối chiếu với kết quả nghiên cứu.
3.3.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
Để đánh giá thực trạng hoạt động tư vấn nghề nghiệp cho sinh viên các trường đại
học Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học qua khảo
18
sát sinh viên để tìm hiểu về nhu cầu tư vấn nghề nghiệp và đánh giá về hoạt động tư
vấn nghề nghiệp của trường đại học nơi sinh viên đang theo học.
Xây dựng mẫu phiếu khảo sát sinh viên gồm có 15 câu hỏi, trong đó các câu hỏi
được xây dựng theo ba nhóm:
- Các câu hỏi đánh giá về nhận thức, nhu cầu về hoạt động tư vấn nghề nghiệp đối
với bản thân sinh viên.
- Các câu hỏi đánh giá về tổ chức hoạt động tư vấn nghề nghiệp cho sinh viên của
trường đại học qua đánh giá về nội dung, hình thức, chủ thể, cách thức tổ chức hoạt
động tư vấn nghề nghiệp cho sinh viên của nhà trường.
- Các câu hỏi về nguyện vọng, đề xuất của sinh viên đối với hoạt động tư vấn nghề
nghiệp của nhà trường.
3.3.4. Phương pháp thống kê:
Đây là phương pháp nhằm đưa ra các số liệu thực tế phục vụ cho việc nghiên cứu
của đề tài, phương pháp thống kê chủ yếu là:
- Thống kê những yêu cầu của người sử dụng lao động đối với sinh viên tốt nghiệp
trên mẫu tuyển dụng lao động trên báo chí.
- Thống kê các ý kiến khảo sát thu thập được từ người sử dụng lao động và cán bộ
quản lý, giảng viên có liên quan để tìm hiểu mối quan hệ giữa yêu cầu của người sử
dụng lao động và chương trình đào tạo.
- Tính hệ số tác động (tương quan), kiểm định giả thuyết…đo lường, so sánh và
đánh giá tác động của các biến số tới sự thay đổi chương trình đào tạo.
19
Chương 4 : NGHIÊN CỨU
4.1. NGUYÊN NHÂN THẤT NGHIỆP CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM:
Như thực trạng đã được đề cập đên trong phần trước của đề tài nghiên cứu, đa
phần sinh viên Việt Nam sau khi tốt nghiệp đều gặp tình trạng khó khăn khi xin việc ở
các doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài. Thực tế đã cho
thấy một số lượng lớn sinh viên sau khi tốt nghiệp phải nằm dài chờ được gọi phỏng
vấn sau khi đã nộp hồ sơ, trong đó khơng ít người thì tìm ngay đến những cơng việc
lao động chân tay để kiếm đồng tiền sinh sống qua ngày, số còn lại thất nghiệp nằm
dài ở nhà hoặc kiếm một ngành nghề khác khơng đúng vói chun ngành đã được học
từ giảng đường Đại học. Có thể nói số lượng “cung” thì ln ln vượt mức tiêu chuẩn
nhưng số lượng thực chất mà xã hội “cầu” thì chiếm một tỷ trọng phần trăm rất nhỏ so
với thị trường cung ứng lao động dồi dào hiện nay. Vậy đâu là nguyên nhân của thực
trạng đáng buồn kể trên, trong bài nghiên cứu sẽ đề cập đến 2 khía cạnh nguyên nhân
tác động khách quan tác động từ bên ngoài và chủ quan nội tại xuất phát từ bản thân
những sinh viên đã, đang và sẽ học tập tại và lao động ở mơi trường Việt Nam làm ảnh
hưởng đến tình trạng thất nghiệp khi ra trường của sinh viên Việt Nam hiện nay.
4.1.1. Nguyên nhân khách quan
a. Chương trình đào tạo chưa gắn với nhu cầu thực tế
Từ bao lâu nay, những mặt báo ln được đánh bóng với những tiêu đề chỉ trích
chất iượng và năng lực làm việc sau khi tốt nghiêp của sinh viên Việt Nam ở mức kém,
kể cả những sinh viên đạt được tấm bằng cử nhận loại Giỏi và Xuất sắc, các chủ doanh
nghiệp nhà nước và tư nhân luôn phàn nàn về việc họ phải chi một khoản tiền rất lớn
để đào tạo ỉại những sinh viên được nhận vào làm trước khi cho họ bắt tay vào công
việc thực sự, không chỉ thiếu kiến thức về chuyên môn mà những sinh viên này còn
thiếu trầm trọng những kĩ năng mềm như xử ỉý tình huống, làm việc nhóm, giao tiếp,
ngoại ngữ, quả là những yêu cầu rất cao đòi hỏi sinh viên phải hấp thu kiến thức và tự
rèn ỉuyện cho bản thân mình ngay trong quá trinh học. Để tìm hiểu ngọn ngành về điều
đó, có lẽ nguyên nhân đầu tiên xuất phát ngay từ chính nguồn đào tạo hay chính những
trường Đại học của Việt Nam, có thể nói giáo trình ở những trường Đại học cùa Việt
Nam từ trước đến nay ln được xếp vào loại khó về chun môn tuy lại không mang
sát với thực tế, phân bổ chương trình thường dạy sinh viên những kiến thức mang nặng
tính lý thuyết mà sau này các sinh viên mãi không được dùng những kiến thức đã được
học ở trên ghế giảng đường để rồi sinh viên cầm ra những tấm bằng cử nhân mang
danh sinh viên Khá, Giỏi hoặc Xuất sắc nhưng thực ra lại chẳng biết gì ngồi những lí
thuyết trên mặt giấy, nhìn cơng việc với một tâm lý xa lạ như thể chưa bao giờ được
biết đến làm việc thực tế lại khác xa đến vậy. Những môn học thiết thực rèn luyện
những kĩ năng xã hội là khá hiếm trong chương trình học, có chăng thì cũng chỉ xuất
20
hiện vài buổi dưới hình thức cơng tác tun truyền và định hướng về nghề nghiệp sơ
sài và thiếu thông tin trầm trọng của các trường Đại học. Trong quá trình học, sinh
viên đồ xơ đi học những loại bằng được đồn thổi là hữu ích cho q trình xin việc và
cứ cắm đầu vào học mà quên đi việc rèn luyện những kĩ năng cần thiết trong cuộc
sống trong mồi trường làm việc sau này, đặc biệt là khi được tuyển dụng vào những
cơng ty của nước ngồi, việc phải hoạt động nhóm liên tục giữa các phịng ban khác
nhau của công ty là không thể tránh khỏi, với việc độc lập trong suy nghĩ như đa số
những sinh viên được học ở bậc giảng đường thì việc hịa nhập, tiếp thu và đỏng góp ý
kiến cùa mình trong mơi trường nhóm là quả khó khăn, nhất là với những cá thể có cái
“ tơi “ q cao sẽ dễ nảy sinh tranh chấp và cãi vã trong công việc, không chỉ làm ảnh
hưởng đến mối quan hệ với những đồng nghiệp mà cịn khiến cho cơng việc được thực
hiện một cách không hiệu quả. Không chỉ dừng ờ đó, khả năng giao lưu và làm việc
với đối tác nước ngồi của những sinh viên này cũng vơ cùng hạn chế, việc khơng chịu
tìm tịi những tập tục văn hóa cũng như cách làm việc của các đối tác khiến cho các
doanh nghiệp e dè khi để sinh viên mới được tuyển thực hiện những nhiệm vụ ấy vì
đơi khi chỉ một sơ xuất nhỏ trong cách ứng xử cũng có thể khiến cho những hợp đồng
họp tác trị giá tiền tỷ của các doanh nghiệp tan thành mây khói hay đơn giản hơn là
câu chuyện của hàng chục tập hô sơ xin việc bị các nhà tuyển dụng bỏ qua hay những
e-mail điện tử nộp hồ sơ dễ dàng bị nhấn nút “Xóa”, những kĩ năng viết e-mail tưởng
chừng rất đơn giản nhưng hầu hết sính viên lại không biết, viết và thể hiện một cách
qua loa, hời hợt từ hình thức lẫn nội dung thể hiện sự thiếu kiến thức về qui tắc soạn
thảo văn bản cũng như gửi thư điện tử và sự tôn trọng tối thiểu với nhà tuyển dụng.
Truyền thống về cách giảng dạy cũng ngấm sâu vào văn hóa sư phạm của Việt Nam từ
cấp Tiểu học cho đến Đại học, học sinh, sinh viên đã quá quen với cách thức thầy
giảng trò chép, một trong những ngun nhân chính hình thành nên tố chất lười suy
nghĩ, thụ động, không sáng tạo và sinh viên là sản phẩm cuối cùng của hệ thống giáo
dục cũ kĩ và lạc hậu ấy và những sản phẩm ấy như thế nào thì chúng ta đã rõ, những
sản phẩm “lỗi”, khó có thể sử dụng nếu khơng sửa chữa.
b. Sinh viên chưa được định hướng một cảch đủng đắn
Nguyên nhân ngoại lai thứ hai tác động mạnh mẽ đến tình trạng thất nghiệp của
sinh viên hiện nay đó là sự xác định sai phương hướng ngay từ thời điểm khởi đầu mà
hơn ai hết là sự tác động từ gia đình và xã hội là chủ yếu. Xã hội Việt Nam vốn từ lâu
nay đã nổi cộm lên vấn đề trọng bằng cấp, nhất là với những công ty doanh nghiệp nhà
nước, chỉ tuyển những sinh viên có bằng đại học chính quy đã dấy lên sự quan ngại
cho những bậc làm cha làm mẹ, phải bằng mọi cách để cho con đỗ vào một trường Đại
học cơng lập, khơng cần biết đó là trường nào chỉ cần đảm bảo được tấm bằng đại học
đầu ra. Điều này vơ tình khiến những học sinh cuối cấp mất đi sự lựa chọn của bản
thân mình vì việc chống đối lại gia đình là một việc khó khăn, khơng được học những
21