Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học cổ điển Đức đã để lại những dấu ấn vàng son trong lịch sử tư tưởng phương Tây, Hãy so sánh những đặc điểm chính của hai nền triết học này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.07 KB, 19 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học cổ điển Đức đã để lại những
dấu ấn vàng son trong lịch sử tư tưởng phương Tây. Hãy so sánh những
đặc điểm chính của hai nền triết học này

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,
Vị trí cơng tác:………………………..
Đơn vị cơng tác:……………...............

Hà Nội – 2020
1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC CỔ
I.
1.1.
1.2.
1.3.

II.

1


2

ĐIỂN ĐỨC ĐÃ ĐỂ LẠI NHỮNG DẤU ẤN VÀNG SON
TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG PHƯƠNG TÂY
Những vấn đề chung về Triết học

2
2

Sự hình thành và những thành tựu nởi bật của Triết học
Hy Lạp cở đại
Sự hình thành và những thành tựu nổi bật

4

của Triết học cổ điển Đức
SO SÁNH NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA

7

TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC CỔ
ĐIỂN ĐỨC

8

Triết học Hy Lạp cở đại có sự phân chia và đối lập giữa
2.1.

các trường phái triết học, trong khi Triết học cổ điển
Đức đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm


2.2.

8

Triết học Hy Lạp cổ đại gắn chặt với khoa học tự nhiên
cịn Triết học cở điển Đức gắn với thực tiễn xã hội

13

Triết học Hy Lạp cở đại có xu hướng đi sâu giải quyết
2.3.

các vấn đề về bản thể luận triết học cịn Triết học Cở
điển Đức đề cao vai trị tích cực của con người

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

14
16
17

MỞ ĐẦU
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung và lịch sử triết học nói riêng,
Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học cổ điển Đức giữ một vị trí hết sức quan
2


trọng. Việc nhận thức một cách đầy đủ các quan niệm triết học trong lịch sử

Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học cổ điển Đức là một vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc, vừa cấp bách, vừa lâu dài. Trong quá trình vận động
và phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại nói chung và tư tưởng triết học nói
riêng, Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học cổ điển Đức có nhiều nội dung
phong phú, đa dạng.
Những giá trị của nó đó để lại dấu ấn đậm nét và có ảnh hưởng lớn đối
với lịch sử loài người. Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học cổ điển Đức khơng
thể thốt ly những vấn đề chung của lịch sử triết học. Mặc dù vậy, giữa Triết
học Hy Lạp cổ đại và Triết học cở điển Đức vẫn có những đặc điểm đặc thù của
nó. Nghiên cứu về Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là
nghiên cứu các quan niệm triết học là một vấn đề phức tạp, nhưng cũng rất lý
thú, vì qua đó ta có thể hiểu biết sâu sắc thêm những giá trị về tư tưởng văn
hoá của nhân loại. Mặt khác, bản sắc văn hoá Việt Nam ảnh hưởng khá sâu sắc
bởi nền Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học cở điển Đức, do đó nghiên cứu
những đặc điểm của Triết học Hy Lạp cổ đại trong mối quan hệ với đặc điểm
của Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là những tư tưởng nhân văn trong thời khai
sáng sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn bản sắc văn hố Việt Nam. Đó là lý
do mà em chọn đề tài “Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học cổ điển Đức đã để
lại những dấu ấn vàng son trong lịch sử tư tưởng phương Tây. Hãy so sánh
những đặc điểm chính của hai nền triết học này” làm đề tài tiểu luận.

3


NỘI DUNG
I. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
ĐÃ ĐỂ LẠI NHỮNG DẤU ẤN VÀNG SON TRONG LỊCH SỬ TƯ
TƯỞNG PHƯƠNG TÂY
1.1. Những vấn đề chung về Triết học
Trong quá trình khám phá thế giới, giải đáp những câu hỏi về nguồn gốc

của con người, nguồn gốc của thế giới và vị trí của con người trong thế giới làm
hình thành ở con người những quan niệm nhất định, trong đó có những yếu tố
cảm xúc và trí tuệ, tri thức và niềm tin… Cùng với sự phát triển ngày càng đa
dạng và phức tạp của hoạt động thực tiễn, tư duy của con người không ngừng
được “mài sắc”. Sự ra đời của triết học cho thấy tính tích cực của tư duy con
người đã đạt được bước chuyển biến về chất nhờ sự xuất hiện của tầng lớp lao
động trí óc trong xã hội cở đại.
Từ khi ra đời, triết học đóng vai trị quan trọng trong nhận thức cũng như
hoạt động của con người, Ph.Ăngghen viết: “Một dân tộc muốn đứng vững trên
đỉnh cao của khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận” [1, tr.136]. Nhưng
tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà
thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hồn thiện mà muốn hồn thiện thì
cần nghiên cứu toàn bộ triết học từ thời đại trước.
Trong lịch sử nhân loại ở phương Đông cũng như phương Tây, triết học
ra đời từ rất sớm. Tuy nhiên, trong thời kỳ nguyên thủy con người chỉ mới có
mầm mống của tư duy triết học ở trình độ thấp, mang tính chất huyền thoại.
Triết học chỉ thực sự tồn tại với tư cách là một môn khoa học khi nhân loại bước
sang xã hội chiếm hữu nô lệ (ở phương Tây, tại Hy Lạp khoảng thế kỷ thứ VII
trc CN, ở phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ… chế độ chiếm hữu nơ lệ cịn
xuất hiện sớm hơn). Lúc đầu, triết học bao gồm tri thức của hầu hết các môn
khoa học, triết học thậm chí cịn coi là “khoa học của các khoa học”. Qua thời
gian và lịch sử do nhu cầu ngày càng đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu thế giới nên
các khoa học cụ thể dần dần tách ra khỏi triết học để trở thành một môn nghiên
4


cứu độc lập. Đổi tượng nghiên cứu của triết học cũng từng bước được xác lập.
Bản thân quan niệm về triết học cũng có sự thay đởi trong lịch sử.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin: “Triết học là hệ thống các
quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới”.

Ăngghen khẳng định “vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học đặc biệt là của triết
học hiện đại, là quan hệ giữa tư duy với tồn tại” [3, tr.267]. Vấn đề cơ bản của
triết học gồm hai mặt:
Mặt thứ nhất, tư duy và tồn tại (ý thức và vật chất) cái nào có trước cái
nào có sau? Cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức thế giới hay không?
Tùy theo cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học mà người ta phân
chia thành hai trường phái: duy vật và duy tâm.
Triết học duy vật cho rằng vật chất có trước, vật chất quyết định ý thức.
Con người hồn tồn có thể nhận thức được thế giới, chỉ có những gì con người
chưa biết chứ khơng có cái gì con người khơng biết. Có những sự vật và hiện
tượng mà các thế hệ hôm nay chưa biết nhưng cùng với sự phát triển của thực
tiễn, của khoa học thì các thế hệ mai sau hồn tồn có thể sẽ nhận thức được.
Triết học duy tâm (dù là duy tâm chủ quan hay duy tâm khách quan) đều
cho rằng ý thức có trước, ý thức quyết định vật chất. Nhìn chung thì triết học
duy tâm phủ nhận khả năng nhận thức của con người nếu có nhận thức được thì
con người chỉ có thể nhận thức được cái bề ngồi chứ khơng thể nhận thức được
bản chất bên trong của các sự vật hiện tượng.
Bên cạnh cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
lịch sử triết học còn diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai phương pháp: biện chứng
và siêu hình.
Phương pháp biện chứng khẳng định các sự vật hiện tượng trong thế giới
tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và vận động, phát triển không ngừng.

5


Phương pháp siêu hình nhìn nhận thế giới trong sự cơ lập, tách rời nhau,
tĩnh tại bất biến, nếu có vận động thì chỉ là sự tăng giảm về số lượng mà khơng
có sự biến đởi về chất.

Triết học ra đời do kết quả của sự tách biệt giữa lao động chí óc và lao
động chân tay. Bên cạnh đó, triết học ra đời còn do tư duy nhân loại đã phát
triển ở trình độ cao - trình độ hệ thống hóa, khái quát hóa và trừu tượng hóa.
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII-VI TCN gắn liền với sự ra đời của các
nền văn minh cổ đại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy lạp… “Triết” theo nghĩa chữ
Hán là trí - Sự hiểu biết của con người, là sự truy tìm bản chất của đối tượng
trong quá trình nhận thức thế giới. “Triết” theo nghĩa Án Độ là Darshna,là sự
chiêm ngưỡng, suy ngẫm con người đến chân lý, là sự hiểu biết nói chung.
“Triết học” theo tiếng Hy lạp là Philosophya (sự ham mê hiểu biết cộng với sự
thông thái). Như vậy dù là ở phương Đông hay phương tây, Triết học thời cở đại
đều có nghĩa là sự hiểu biết, sự nhận thức chung của con người về thế giới.
1.2. Sự hình thành và những thành tựu nổi bật của Triết học Hy Lạp
cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời vào thế kỷ VI TCN và đạt đến đỉnh cao
vào thế kỷ III TCN. Vào thời cổ đại Hy Lạp là nước phát triển nhất Châu âu với
lãnh thổ rộng lớn. Hy Lạp là cầu nối, là điểm nút của giao lưu kinh tế và văn
hoá giữa ba châu lục Âu - Á- Phi, việc giao lưu quan hệ với các nước rất phát
triển. Mặc dù ra đời muộn hơn so với các quốc gia phương đông như Ai Cập,
Ân Độ, Trung Quốc cổ đại nhưng nhờ được kế thừa và phát triển những tri thức
tinh hoa của nhân loại nên kinh tế Hy Lạp phát triển nhanh, đặc biệt là công cụ
lao động.
Vào thế kỷ IX đến thế kỷ VII TCN, nền sản suất chiếm hữu nô lệ ở Hy
Lạp đã phát triển cao,thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Sự phát triển của
thủ công nghiệp đã dẫn đến sự phát triển của thương nghiệp và hình thành các
thành thị như Aten và SPác nởi tiếng thế giới. Người Hy Lạp đã đóng được
những chiến thuyền lớn cho phép họ vượt Địa Trung Hải đến những vùng đất
6


mới, tạo điều kiện cho sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc. Nền văn hoá Hy

Lạp thời kỳ này cũng phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của hai tập trường ca bất
hủ là Iliát và Ôđixê đây là hai viên ngọc quý trong di sản văn hố cở đại của
nhân loại . Sự phân cơng lao động trong xã hội Hy Lạp cổ đại đã làm hình thành
một tầng lớp những người lao động trí óc. Nhờ đó các tri thức khoa học nảy nở
và phát triển , chính sự xuất hiện các tri thức khoa học sơ khai, như việc phát
hiện ra lịch năm 12 tháng với 365 ngày của Ta lét, những phát kiến về tốn học
của TaLét và PiTaGo, về hình học của ƠCơLít, về vật lý học của Ácximét… đã
tạo điều kiện rất lớn thúc đẩy sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp.
Mặt khác cuộc đấu tranh giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ trên lĩnh vực tư
tưởng, triết học đã diễn ra hết sức gay gắt. Tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại
phát triển hết sức phong phú và sâu sắc, một số trường phái còn ảnh hưởng sâu
rộng đến nhiều thế kỷ sau. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Hy
Lạp cổ đại qua ba giai đoạn sau:
Triết học Hy Lạp trong giai đoạn hình thành và bước đầu phát triển của
chế độ chiếm hữu nô lệ. Từ thế kỷ VI đến thế kỷ V TCN là giai đoạn hình thành
và bước đầu phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp. Đây cũng là giai
đoạn khởi đầu của triết học Hy Lạp cổ đại và được đánh dấu bằng sự ra đời của
trường phái duy vật Milê với các đại biểu là Talét, Anaximanđrơ, Anaximen và
trường phái Êlê với các đại biểu như Xênơphan, Pácmênít, Dênông … Cũng
trong giai đoạn này nổi bật lên đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật là
Hêraclít. Về phía chủ nghĩa duy tâm nởi lên trường phái của Pitago.
Triết học Hy Lạp cổ đại trong giai đoạn phồn vinh của chế độ chiếm hữu
nô lệ. Từ thế kỷ V TCN trở đi là thời kỳ hưng thịnh của chế độ chiếm hữu nô lệ
ở Hy Lạp. chiến thắng của người Hy Lạp trong cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba
Tư (500 - 449 TCN) đã giúp họ mở rộng lãnh thở và ảnh hưởng của mình trên
tồn vùng Địa Trung Hải. Hy lạp giờ đây bao gồm hàng trăm quốc gia thành
bang với những hình thức nhà nước và trình độ phát triển kinh tế xã hội khác
nhau. Các thành bang nói trên tuy liên minh với nhau nhưng lại mâu thuẫn với
7



nhau, đơi khi dẫn đến chiến tranh thơn tính lẫn nhau. Cuộc chiến tranh
Pơlôpônedơ(431- 40 4TCN) là biểu hiện của mâu thuẫn gay gắt giữa một bên là
bộ phạn chủ nô dân chủ do Aten đứng đầu với một bên là bộ phận chủ nô quý
tộc do Spáctơ đứng đầu .Trong cuộc chiến tranh này phía Aten bị thất bại kéo
theo sự suy giảm lực lượng của phái chủ nô dân chủ. Về sau, phía Aten tuy khơi
phục được chính quyền nhưng đến nửa cuối thế kỷ IV TCN lại bị Maxeđoan
chinh phục.
Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội phức tạp và đầy biến động nói trên về
khách quan đã thúc đẩy triết học Hy lạp cổ đại phát rtiển lên đỉnh cao : vừa sâu
sắc, vừa phong phú về nội dung, vừa đa dạng, vừa phức tạp trong hình thức thể
hiện của các trường phái và của các hệ thống. Trường phái duy vật tiếp tục phát
triển đạt đến đỉnh cao với học thuyết nguyên tử luận của Đêmơcrít. Trường phái
duy tâm thơng qua đại biểu xuất sắc là Platon cũng phát triển thành một hệ
thống hoàn chỉnh. Ngồi hai trường phái lớn nói trên cịn xuất hiện một trường
phái mới, đó là trường phái nguỵ biện (Sơphít). Cũng trong thời kỳ này đã sản
sinh ra một bộ óc bách khoa toàn thư, một nhà triết học uyên bác nổi tiếng thời
cổ đại là Arixtốt.
Triết học Hy Lạp trong thời kỳ khủng hoảng và suy tàn của chế độ chiếm
hữu nô lệ. Thời kỳ khủng hoảng và suy tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy
Lạp kéo dài từ thế kỷ IV TCN cho đến khi chế độ nô lệ ở Hy Lạp, La Mã bị sụp
đổ (thế kỷ V sau công nguyên) .Trong thời kỳ lịch sử này đã có nhiều sự kiện
ảnh hưởng đến sự phát triển và suy tàn của triết học Hy Lạp cở đại. Sự kiện đầu
tiên là sự thơn tính của một nước ở phía bắc Hy Lạp đối với toàn bộ bán đảo Hy
Lạp. Tiếp theo là cuộc viễn chinh của Alếchxăngđrơ tới nhiều nước ở châu á,
châu Phi đã biến Hy Lạp thành một đế chế rộng nhất thời cổ đại. Đây cũng là
thời kỳ mà ngôn ngữ và văn hoá của Hy lạp đã theo đội quân viễn chinh bành
trướng đến các nước bị nó xâm lược.
Tuy nhiên chính La Mã lại bị nền văn hố rực rỡ lâu đời của Hy Lạp
chinh phục lại.Có thể nói thời kỳ Hy Lạp hoá là đỉnh cao của sự giao lưu văn

8


hoá giữa các quốc gia thuộc đế chế Hy Lạp, đồng thời nó cũng mang đến cho
triết học Hy Lạp cổ đại những sắc thái mới và những nét đặc thù so với thời kỳ
trước. Trong thời kỳ này các nhà triết học ít chú ý đến những vấn đề về tự nhiên,
xã hội mà tập trung tìm hiểu vấn đề hạnh phúc của con người, làm thế nào để
con người thốt khỏi khở đau. Đây cũng là thời kỳ lan truyền của chủ nghĩa triết
trung và chủ nghĩa hoài nghi. Còn các nhà yêu nước, dân chủ, tiến bộ vẫn kiên
trì chủ nghĩa duy vật chống lại chủ nghĩa duy tâm.Tiêu biểu nhất trong số họ là
Êpiquya.
1.3. Sự hình thành và những thành tựu nổi bật của
Triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư
tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX. Đây là đỉnh cao
của thời kì triết học cở điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết
học hiện đại.
Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện của chế độ
chun chế nhà nước Phở và nó là sự bảo vệ về mặt tư tưởng cho chế độ đó.
Thời kì cuối thế kỉ XVIII, cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789) ảnh hưởng mạnh
đến nước Phổ, và Hêghen là một người tán dương cuộc cách mạng đó. Đồng
thời xã hội Phổ lúc này với những điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt đã làm nảy
sinh hệ tư tưởng có tính chất tiểu tư sản, thỏa hiệp. Tất cả cái đó tạo nên nét
riêng của triết học cở điển Đức.
Khái niệm “Triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ sự phát triển triết học của
nước Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ
thống triết học của Cantơ (1724 - 1804) trải qua Phíchtơ (1762 - 1814), Sêlinh
(1775 - 1854) đến triết học duy tâm của Hêghen (1770 -1831) và triết học duy
vật nhân bản của Phoiơbắc (1804 - 1872).
Do điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội hết sức đặc biệt của nước Đức

cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung
cách mạng, nhưng hình thức của nó thì cực kì “rối rắm” và có tính chất bảo thủ.
9


Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước
Đức vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một nước rất lạc hậu về
kinh tế và chính trị so với nhiều nước ở châu Âu như Anh và Pháp. Đó cịn là
một quốc gia phong kiến điển hình, với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một
liên bang Đức chỉ cịn là hình thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Thủ cơng
nghiệp, cơng nghiệp, nơng nghiệp bị đình đốn. Triều đình vua Phở Phriđrich
Vinhem (1770 - 1840) vẫn tăng cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ phong
kiến, cản trở đất nước Đức phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất
nước bao trùm bầu khơng khí bất bình của đơng đảo quần chúng. Đây là một
trong những thời kì hèn kém nhất trong lịch sử nước Đức (Ăngghen).
Trước địi hỏi của q trình phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa ở các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: Phát
hiện ra điện, phát hiện ra ôxy và bản chất sự cháy của Antoine Lavoisier, việc
phát hiện ra tế bào của Robert Hooke, định luật bảo tồn và chuyển hóa năng
lượng của Lơmơnơxốp, học thuyết về dưỡng khí của Pritski và Sielo... Bối cảnh
chính trị - xã hội và sự phát triển của khoa học ở Tây Âu và nước Đức lúc đó
chứng tỏ sự hạn chế và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý
giải bản chất của các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra cuối
thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Nó địi hỏi cần có cách nhìn mới về bản chất các
hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại, cũng như cần có quan niệm
mới về khả năng và vai trị của con người. Triết học cở điển Đức ra đời nhằm
đáp ứng nhu cầu đó.
II. SO SÁNH NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA TRIẾT HỌC HY
LẠP CỞ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC CỞ ĐIỂN ĐỨC
2.1. Triết học Hy Lạp cở đại có sự phân chia và đối lập giữa các

trường phái triết học, trong khi Triết học cổ điển Đức đứng trên lập trường
của chủ nghĩa duy tâm
Triết học Hy Lạp cở đại. Ỏ bản thể luận, tính quyết liệt và triệt để của
cuộc đấu tranh này là cơ sở cho những vấn đề khác. Đêmơcrít kiên định lập
10


trường duy vật vơ thần. Ơng cho rằng cội nguồn của thế giới là ngun tử, là vật
chất. Đêmơcrít đã phát triển thuyết nguyên tử của Lơxíp, người thầy của mình
lên trình độ mới. Ơng cho rằng, ngun tử là hạt vật chất cực nhỏ, khơng phân
chia được, khơng nhìn thấy được, không mùi, vị, âm thanh và tồn tại vĩnh viễn.
Các nguyên tử đồng nhất về chất, chỉ khác nhau về lượng,về hình thức (cấu
tạo), về tư thế (xoay trở) và về trật tự (kế tiếp). Sự hình thành ,tan rã và sự khác
nhau của các sự vật hiện tượng là do sự kết hợp hay tách ra của các nguyên tử
theo những cách thức khác nhau của nguyên tử. Thuyết vũ trụ của ơng cũng
khơng có chỗ cho thần thánh, trong đó chỉ có các nguyên tử vận động theo
những cơn lốc xoáy. Các nguyên tử cùng loại cố kết với nhau làm thành những
vòng lớp nguyên tử, càng nặng càng ở gần tâm, càng nhẹ càng xa tâm. Đất,
nước, lửa, khơng khí là những vịng ở trung tâm cơn lốc. Từ đó hình thành các
hành tinh và trái đất. cịn sự sống và con người, theo ơng là kết quả tất yếu của
tự nhiên phát triển từ thấp đến cao, từ sự vật tới sinh vật, từ sinh vật tới con
người .Con người có linh hồn, cịn sự vật khơng có linh hồn. Linh hồn của con
người được cấu tạo từ những nguyên tử hình cầu, giống như nguyên tử lửa vận
động với vận tốc lớn. Linh hồn mất đi cùng với sự chết của con người. Như vậy,
ông đã bác bỏ thuyết linh hồn bất tử của tôn giáo, của Platon.
Về nhận thức luận, nếu Platon vẫn duy tâm hố nó thì Đêmơcrít lại phát
triển nhận thức luận duy vật. Ở Đêmơcrít, đối tượng của nhận thức là giới tự
nhiên, mục tiêu là đạt tới bản chất của sự vật. Còn ở Platon, đối tượng và mục
tiêu của nhận thức lại là “thế giới ý niệm”. Theo Đêmơcrít, trình độ nhận thức
cảm tính mờ tối, tuy chỉ theo dư luận nhưng là cơ sở của trình độ lý tính. Nhận

thức cảm tính cung cấp tài liệu để nhận thức lý tính. Trong khi đó Platon lại
tuyệt đối hố nhận thức lý tính. Platon cho rằng nhận thức cảm tính chỉ là những
tưởng tượng, những kiến giải về “cái bóng của ý niệm” nên nó khơng chân thực.
chỉ có lý tính ở trình độ “trực giác trí tuệ” mới thấy được “ý niệm” , đó mới là
chân thực. “trực giác trí tuệ” chính là q trình hồi tưởng của linh hồn, linh hồn
nhớ lại những gì mà nó đã thấy rõ khi nó tồn tại ở “thế giới ý niệm”, cái mà nó
11


đã quên đi khi nhập vào thể xác con người. Để hồi tưởng tốt, phải đoạn tuyệt
với thế giới cảm tính. Platon cho rằng chỉ có những con người có linh hồn ưu tú
mới thực hiện được, đó là phương pháp đàm thoại trực tiếp (đặt ra và trả lời
những câu hỏi) nhằm phát hiện ra mâu thuẫn của đối phương trên cơ sở đối
chiếu những khái niệm đối lập nhau từng cặp. Tuy có một số yếu tố biện chứng
nhưng đó là phương pháp biện chứng duy tâm, nó tách rời khỏi sự vật, chỉ hoàn
toàn sử dụng khái niệm với tư duy tự biện.
Đối lập với Đêmơcrít, Platon đứng trên lập trường duy tâm thần bí. Ơng
khẳng định rằng bản nguyên của thế giới là “thế giới ý niệm”, mà ơng gọi là
“những ý tưởng có trước”, một thế giới trừu tượng, bất biến, tĩnh tại, đông lạnh
không có sự sống.Chỉ có cái chung là tồn tại chân thực. Linh hồn do thánh tạo
ra có động cơ và mục đích khác nhau đã khuyến khích các ý niệm vận động rồi
in dấu vào “không tồn tại”, cái mà ông gọi là “vật chất” theo những “tương
quan toán học” những hoà điệu khác nhau mà sinh ra giới tự nhiên, “thế giới các
sự vật cảm tính” mn hình mn vẻ , xấu đẹp khác nhau. Chẳng hạn từ ý niệm
nhà sinh ra cái nhà cụ thể, từ ý niệm cây sinh ra những loài cây cụ thể… Như
vậy, “thế giới các sự vật cảm tính” chỉ là sản phẩm của “thế giới ý niệm”, chỉ là
cái bóng của “của thế giới ý niệm” nên nó là tồn tại khơng chân thực.Chúng
giống như những cái bóng của các sự vật in vào vách hang, khi chúng lướt qua
ở ngoài hang, còn người ngồi ở cửa hang, quay mặt vào trong thì chỉ nhìn thấy
những cái bóng ấy mà thơi. Bàn về sự sống của con người, Platon đưa ra thuyết

linh hồn bất tử. Cơ thể con người do lửa, không khí, và đất tạo ra nên cơ thể
khơng bất diệt, còn linh hồn do thánh ban nên bất tử.
Về đạo đức học, Đêmơcrít hướng đạo đức học vào đời sống hiện thực.
Hạt nhân của nó là lương tâm trong sáng, tinh thần lành mạnh của từng cá
nhân.Tư tưởng về đời sống kinh tế - xã hội là cơ sở của đời sống đạo đức, là tư
tưởng có giá trị của ông. Một người có đạo đức, theo ông là người sống đúng
mức, không gây hại cho người khác. Ngược lại, Platon hướng đạo đức vào đời
sống của thế giới “ý niệm” trong sự tha hố của nó thành thiện, ác, thành sự
12


thơng thái và lịng dũng cảm. Ơng cho rằng chỉ có tầng lớp các nhà triết học và
quý tộc mới đạt tới đạo đức thanh cao. Còn đạo đức của thường dân chỉ là sự
kiềm chế dục vọng thấp hèn. Nơ lệ khơng có đạo đức. Như vậy, đạo đức của
Platon là thứ đạo đức học duy tâm tôn giáo, phân biệt đẳng cấp, hoàn toàn đối
lập đạo đức học tiến bộ duy vật của Đêmơcrít .
Về lơ gích học, hai ơng đều có cơng phát triển lơ gích học, nhưng trong
đó tính chất đối lập cũng rất rõ. Nếu Đêmơcrít coi lơ gích là cơng cụ của nhận
thức, nhấn mạnh phương pháp quy nạp nhằm vạch ra bản chất của giới tự nhiên,
thì Platon lại xem xét lơ gích xen kẽ với phép biện chứng duy tâm nhằm đạt tới
“ý niệm”, coi trọng phương pháp diễn dịch.
Cuộc đấu tranh giữa đường lối Đêmơcrít với đường lối Platon là sự phản
ánh cuộc đấu tranh quyết liệt giữa tầng lớp chủ nơ tiến bộ mà Đêmơcrít là người
đại diện với tầng lớp chủ nô quý tộc phản dân chủ mà platon là người đại diện.
Đêmơcrít ca ngợi chế độ dân chủ chủ nô, bảo vệ tự do, tinh thần nhân ái và lợi
ích cơng dân. Cịn Platon lại bảo vệ chế độ qn chủ chủ nơ, bảo vệ lợi ích của
tầng lớp quý tộc chống lại dân chủ.
Triết học cổ điển Đức. Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ
điển Đức đã xây dựng nên các hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy
biện chứng, lơgic biện chứng, học thuyết về các q trình phát triển, mà tìm tịi

lớn nhất trong tất cả các tìm tịi của họ đó là phép biện chứng. Trước những
bước phát triển như vũ bão của khoa học và thực tiễn xã hội ở châu Âu cuối thế
kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX cho thấy hạn chế của bức tranh cơ học về thế
giới, các nhà triết học cổ điển Đức tiếp thu những tư tưởng biện chứng trong các
di sản triết học truyền thống từ thời cổ đại, xây dựng phép biện chứng trở thành
một phương pháp luận triết học trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên
và xã hội.
Với giả thuyết vân tinh nổi tiếng về sự hình thành vũ trụ và cách nhìn mới
về con người, Cantơ, theo nhận xét của Ph.Ăngghen, là người chọc lỗ thủng đầu
tiên vào quan niệm siêu hình về tự nhiên thống trị trong khoa học và triết học
13


suốt thế kỉ XVI - XVII. Ý nghĩa cách mạng của thuyết vân tinh khơng chỉ ở chỗ
nó chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật và hoàn chỉnh so với các giả thuyết vũ trụ
trước đó, mà cịn ở chỗ nó đem lại một cách nhìn mới - cách nhìn phát triển lịch
sử về thế giới [2, tr.157].
Nó khẳng định, không chỉ Trái đất, mà cả vũ trụ chúng ta là kết quả của
tồn bộ q trình phát triển và tiến hóa lâu dài của vũ trụ, đánh tan quan niệm
siêu hình thống trị thời đó cho rằng, một khi thế giới chúng ta đã tồn tại thì nó
vẫn cứ mãi mãi như thế từ xưa đến nay. Nhờ vậy, “vấn đề cái hích đầu tiên đã bị
loại bỏ; Trái đất và tất cả hệ thống Mặt trời hiện ra như là một cái gì đã hình
thành trong thời gian”. Với giả thuyết này, Cantơ đã bước đầu xây dựng nền
tảng cho quan niệm phát triển biện chứng về tự nhiên.
Đến Hêghen, ông đã phát hiện ra những quy luật và các phạm trù cơ bản
của phép biện chứng, xây dựng nó trở thành một khoa học về sự phát triển của
tất thảy mọi sự vật và tư tưởng. Ý nghĩa thực sự và cách mạng của triết học
Hêghen “là ở chỗ nó đã vĩnh viễn kết liễu tính tối hậu của những kết quả của tư
tưởng và của hành động con người. Theo Hêghen, chân lí mà triết học có nhiệm
vụ phải nhận thức, khơng cịn là một tập hợp những ngun lí giáo điều có

sẵn…, từ nay, chân lí nằm trong chính ngay q trình nhận thức, trong sự phát
triển lịch sử lâu dài của khoa học”.
C.Mác chỉ rõ: “Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải trong
tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình
bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép
biện chứng ấy. Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần
dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lí của nó đằng sau lớp vỏ thần
bí. Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải trong tay Hê ghen – tuyệt
nhiên không ngăn cản Hê ghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao
qt và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng” [4,
tr.189].
14


2.2. Triết học Hy Lạp cổ đại gắn chặt với khoa học tự nhiên cịn Triết
học cở điển Đức gắn với thực tiễn xã hội
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn chặt với khoa học tự nhiên bởi nó xuất phát
từ nhu cầu sản xuất hàng hoá, nhu cầu mở rộng chiến tranh để có thêm nơ lệ và
tài ngun. Đặc trưng của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp - La Mã cổ đại là
nền kinh tế dựa trên buôn bán nô lệ, nô lệ được coi là cơng cụ lao động biết nói,
là hàng hố mà các chủ nô đem trao đổi buôn bán với nhau, nô lệ được sử dụng
để để sản xuất ra của cải vật chất cho giai cấp chủ nơ. Để có nhiều nơ lệ, người
ta phải mở rộng chiến tranh, cịn chiến tranh thì cịn nơ lệ để bn bán và phát
triển chế độ chiếm hữu nô lệ. Để đáp ứng địi hỏi đó thì thần thánh khơng thể
giúp họ được mà địi hỏi người ta phải có tri thức, có khoa học, điều đó được
lặp đi lặp lại trong thực tế cuộc sống của người Hy lạp - La mã cở đại và nó thúc
đẩy khoa học và triết học cùng phát triển , triết học luôn gắn chặt với khoa học
tự nhiên.
Triết học Hy Lạp cở đại nó là sự thống nhất giữa triết học với khoa học tự
nhiên, chưa có sự tách rời giữa triết học với khoa học nên gọi là triết học tự

nhiên , hay triết học là khoa học của mọi khoa học. Triết Học Hy Lạp cở đại thể
hiện tính bao trùm của nó về mọi lĩnh vực thế giới quan của con người cở đại,
nó ra đời trong bối cảnh các tri thức khoa học cịn q ít và sơ khai, nên trình độ
phát triển của tư tưởng và của văn hoá tinh thần nhân loại loại lúc bấy giờ nói
chung là cịn thấp.
Triết học cở điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến
trình lịch sử nhân loại. Triết học thời kì này đặc biệt đề cao vai trị hoạt động
tích cực của con người, thực hiện bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng triết học
phương Tây từ chỗ chủ yếu bàn về những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận…
đến chỗ coi con người như một chủ thể hoạt động, là nền tảng và là điểm xuất
phát của mọi vấn đề triết học. Dĩ nhiên, đề tài con người đã được bàn đến ngay
từ triết học cổ đại. Xôcrat đã hiểu triết học là tự ý thức của con người về chính
15


bản thân mình, và đối với con người thì cái cao quý nhất là sự tồn tại của bản
thân mình, là hạnh phúc của mình.
Kế tục tư tưởng đó và khuynh hướng đề cao con người từ thời Phục hưng,
Can tơ - nhà sáng lập ra triết học cổ điển Đức - lần đầu tiên hiểu con người là
chủ thể, đồng thời là kết quả quá trình hoạt động của mình, khẳng định hoạt
động thực tiễn cao hơn lí luận. Bản thân lịch sử là phương thức tồn tại của con
người. Mỗi cá nhân hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình. Tư tưởng đó được
Hêghen phát triển thêm, khẳng định con người là sản phẩm của một thời đại lịch
sử nhất định, vì vậy, mang bản chất xã hội.
2.3. Triết học Hy Lạp cở đại có xu hướng đi sâu giải quyết các vấn đề
về bản thể luận triết học cịn Triết học Cở điển Đức đề cao vai trị tích cực
của con người
Triết học Hy Lạp cở đại khác với các nhà triết học Trung Quốc và ấn Độ cổ
đại đi sâu vào nghiên cứu con người, nghiên cứu đời sống chính trị, đạo đức xã hội
và đời sống tâm linh con người. Các nhà triết học Trung Quốc và ấn Độ cổ trung

đại cũng đề cập đến vấn đề bản thể luận, nhận thức luận nhưng hết sức mờ nhạt và
cũng chỉ nhằm làm sâu sắc thêm vấn đề con người và đời sống chính trị, đạo đức
và tâm linh của con người mà thơi. Cịn các nhà triết học Hy Lạp cở đại thì ngược
lại, từ Hêracơlít, Talét, Pitago, Arixtốt, Đêmơcơrít, Platon… đều có xu hướng đi
sâu giải quyết các vấn đề về bản thể luận, nhận thức luận.
Họ đều tập trung lý giải thế giới xung quanh ta là gì, nó tồn tại như thế
nào, con người có thể nhận thức được thế giới hay không. Các nhà triết học và
khoa học thời Hy Lạp cổ đại đều hướng vào giới tự nhiên để nghiên cứu lý giải
về nó. Họ đều tập trung làm rõ thế giới này do cái gì tạo nên, là nước, nguyên
tử, hay là lửa… Thế giới này là vật chất hay là thế giới do “ý niệm” tạo nên. các
sự vật hiện tượng trong thế giới này tồn tại như thế nào, chúng có quan hệ, liên
hệ gì với nhau khơng, có vận động biến đởi hay khơng. Tất cả những vấn đề đó
nhằm giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, là giải quyết vấn đề cơ bản
của triết học. Vì vậy, quan điểm triết học của người Hy Lạp cở đại là phải có
16


bốn học thuyết khai thác trên bốn mặt: Bản thể luận; Vũ trụ luận; Tri thức luận;
Nhận thức luận.
Triết học Cở điển Đức đặc biệt đề cao vai trị tích cực của hoạt động con
người, thực hiện bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng triết học phương Tây từ chỗ
chủ yếu bàn về những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận... đến chỗ coi con
người như một chủ thể hoạt động là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề
triết học. Dĩ nhiên, để tài con người đã được bàn đến ngay từ triết học cổ đại.
Xôcrát đã hiểu triết học là tự ý thức của con người về chính bản thân mình. Kế
tục tư tưởng đó và khuynh hướng đề cao con người từ thồi Phục hưng, Cantơ,
nhà sáng lập ra triết học cổ điển Đức, lần đầu tiên hiểu con người là chủ thể,
đồng thời là kết quả quá trình hoạt động của mình, khẳng định hoạt động thực
tiễn cao hơn lý luận. Bản thân lịch sử là phương thức tồn tại của con người. Mỗi
cá nhân hồn tồn làm chủ vận mệnh của mình. Tư tưởng đó được Hêghen phát

triển thêm, khẳng định con người là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất
định, vì vậy, mang bản chất xã hội.
Trước những thành tựu khổng lổ về kinh tế - xã hội và văn hố mà nhân
loại đạt được trong thời kỳ bình minh đầy tính cách mạng của chủ nghĩa tư bản,
các nhà triết học cổ điển Đức từ Cantơ đến Hêghen đều đề cao sức mạnh trí tuệ
và hoạt động con người tới mức cực đoan. Họ thần thánh hoá con người tới mức
coi con người là chúa tể của tự nhiên, bản thân giới tự nhiên cũng chỉ là kết quả
hoạt động của con người. Quan niệm duy tâm đó càng được củng cố bởi sự
thống trị mạnh mẽ của tơn giáo trong xã hội Đức thời đó cũng như sự thoả hiệp
của giai cấp tư sản với ý thức hệ phong kiến. Tuy vậy, cần phải nhận thấy một
trong những thành tựu cơ bản của triết học cổ điển Đức là, thứ nhất, khẳng định
tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực con người nhận thức và
cải tạo thế giới. Con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của toàn bộ nên văn
minh do chính mình tạo ra; thứ hai, nghiên cứu tiến trình lịch sử của nhân loại,
cũng như tồn bộ mối quan hệ “con người tự nhiên” như một quá trình phát
triển biện chứng.
17


KẾT LUẬN
Các quan niệm triết học trong lịch sử Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học
cổ điển Đức đã đặt những nền tảng hết sức có giá trị cho sự phát triển của triết
học, là kết tinh những giá trị văn hóa của thời đại. Những giá trị của hai nền
Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học cổ điển Đức đã đạt được là những viên
ngọc q mà hào quang của nó cịn mãi tỏa sáng khơng chỉ hơm nay mà cịn tới
mãi tận mai sau. Nhìn chung Triết học Hy Lạp cở đại và Triết học cổ điển Đức
đều xoay quanh giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Tuy nhiên, do những đặc
điểm kinh tế xã hội và lịch sử Triết học Hy Lạp cở đại và Triết học cở điển Đức
cũng có sự khác biệt về nội dung, phương pháp tiếp cận, mục đích nghiên cứu,
đối tượng của triết học… Mặc dù có sự khác nhau nhất định, xong Triết học Hy

Lạp cổ đại và Triết học cổ điển Đức đã cơ bản đáp ứng được những vấn đề cấp
bách mà thời đại lúc bấy giờ đã đặt ra. Theo như C.Mác: Mọi triết học chân
chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập (1995), Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia
Sự Thật , Hà Nội.
2. Dỗn Chính (Chủ biên), (1998), Đại Cương Triết Học Phương Đơng
Cở Đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Giáo Trình Triết Học Mác - LêNin, Bộ giáo dục và đào tạo (2002), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Tùng (chủ biên) (2009), Lịch sử Triết học, Nxb Đại học
sư phạm, Hà Nội.
5. Nguyễn Xuân Vinh (Chủ biên), (1998), Lịch sử triết học, Nxb chính trị
quốc gia, Hà Nội.

19



×