Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC: PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.34 KB, 19 trang )

9

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----***----

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN
DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Họ và tên sinh viên: Bùi Minh Quang
Mã sinh viên: 2014450212
Lớp: Anh 4 – Khối 1 – CLC KTQT
Lớp tín chỉ: TRIE114.CLC.2
Khóa: 59
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Trần Huy Quang
Hà Nội, tháng 3 năm 2021

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----***----

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN
DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Họ và tên sinh viên: Bùi Minh Quang
Mã sinh viên: 2014450212


Lớp: Anh 4 – Khối 1 – CLC KTQT
Lớp tín chỉ: TRIE114.CLC.2
Khóa: 59
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Trần Huy Quang
Hà Nội, tháng 3 năm 2021

2


3


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

5

CHƯƠNG 1: Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
1.1. Sự ra đời của phép biện chứng.

6

1.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
1.2.1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến.
6
1.2.2. Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến.

7

CHƯƠNG 2: Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.

2.1. Vấn đề tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
2.1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế.

8

2.1.2. Khái niệm về công bằng xã hội.

8

2.1.3. Tổng quan về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam

8

2.2. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
2.2.1. Mối liên hệ của tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.

9

2.2.2. Việc nhận thức mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội theo
quan điểm của triết học duy vật biện chứng.

10

2.2.3. Tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội là tất yếu khách quan.

11

2.3. Quá trình đảm bảo cơng bằng xã hội trong q trình phát triển kinh tế ở Việt Nam
hiện nay.
2.3.1. Quan điểm của Đảng về tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng

xã hội.

13

2.3.2. Thành tựu đã đạt được của Việt Nam hiện nay.

14

2.3.3. Hạn chế của việc gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
16
2.3.4. Giải pháp giải quyết các hạn chế còn tồn tại trong quá trình.

16

KẾT LUẬN

18

TÀI LIỆU THAM KHẢO

19

4


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay vấn đề phát triển kinh tế là một mục tiêu phấn đấu của toàn xã hội, của tất cả
các nước trên thế giới. ở Việt Nam hiện nay đang hướng tới xây dựng một đất nước mà
con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng theo
lao động, người dân có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Để thực hiện được mục tiêu

dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa(XHCN) của Đảng và nhà nước,
đưa nước ta đạt đến trình độ phát triển kinh tế nhất định việc phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN đã góp phần giải phóng và phát huy năng lực sản xuất thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng bên cạnh đó phát triển kinh tế hàng hố nhiều thành phần
đã bộc lộ nhiều hạn chế: tình trạng phân hoá giàu nghèo, sự suy thoái về đạo đức, văn
hố truyền thống…. Nó đã đặt ra hàng loạt vấn đề về công bằng xã hội, về việc phát triển
kinh tế đảm bảo công bằng xã hội như thế nào và việc giải quyết những vấn đề trên như
thế nào?
Là một sinh viên kinh tế, việc nhận thức mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội là cần thiết. Vì vậy, với những tìm tịi tài liệu, sách báo, sách tham khảo cùng
với sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn, em đã quyết định chọn đề tài “Phép biện chứng
vệ mối liên hệ phổ biến, vận dụng phân tích mối liên hệ giữa vấn đề tăng trưởng và công
bằng xã hội”. Đề tài giúp em hiểu và thấy được những chính sách, giải pháp và hướng đi
đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới.
Với những hiểu biết và kinh nghiệm thực tế cịn hạn chế, những sai sót trong khi thực
hiện sẽ là điều không thể tránh khỏi, em rất mong được những lời nhận xét và góp ý quý
báu của thầy, cô giáo.

5


CHƯƠNG 1: Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
1.1. Sự ra đời của phép biện chứng.
Biện chứng và siêu hình là hai phương pháp tư duy trái ngược nhau trong triết học.
Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái đứng im, không
vận động, tách rời cô lập và tách biệt nhau. Cách xem xét cho chúng ta nhìn thấy sự tồn
tại của sự vật hiện tượng ở trạng thái đứng im tương đối, nhưng nếu tuyệt đối hoá
phương pháp này sẽ dẫn đến sai lầm phủ nhận sự phát triển, không nhận thấy mối liên hệ
giữa các sự vật hiện tượng. Trong khi đó trái lại, phương pháp biện chứng là: là phương
pháp xem xét những sự vật hiện tượng và những phản ánh của chúng vào tư duy, chủ yếu

là trong mối liên hệ qua lại của chúng, trong sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng".
Trong lịch sử triết học có những thời gian, tư duy siêu hình chiếm ưu thế so với tư duy
biện chứng. Nhưng xét trong tồn bộ lịch sử triết học, thì phép biện chứng ln chiếm
một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần xã hội. Phép biện chứng là một khoa học triết
học, vì vậy nó cũng phát triển từ thấp tới cao mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật
Mác - xít của triết học Mác - Lênin. Đồng thời, phép biện chứng duy vật là sự thống nhất
hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Chính vì vậy, nó đã
khắc phục được những hạn chế của phép biện chứng chất phác thời cổ đại và những
thiếu sót của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại. Nó đã khái quát đúng
đắn những quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Phép
biện chứng duy vật trở thành một khoa học.
Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đánh giá cao phép biện chứng, nhất là phép biện chứng duy
vật, coi đó là một cơng cụ tư duy sắc bén để đấu tranh với thuyết không thể biết, tư duy
siêu hình, củng cố niềm tin vào sức mạnh và khả năng của con người trong nhận thức và
cải tạo thế giới.

1.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
6


1.2.1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến.
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự
vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ
biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để
chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng, trong đó những mối liên hệ phổ
biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối
tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa các mặt đối lập,
lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng,
v.v.. Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc

thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định, đồng thời, cũng
tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất. Trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự thể
hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối
liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại,
tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong thế giới tự nhiên, xã hội và
tư duy. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng: mỗi liên hệ
phổ biến là phạm trù triết học để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng
trong thế giới.

1.2.2. Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến.
Từ nghiên cứu quan điểm duy vật về mối liên hệ phổ biến, chúng ta rút ra phương pháp
luận khoa học đề nhận thức và cải tạo hiện thực.
Thứ nhất là quan điểm toàn diện. Đây là quan điểm đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật
trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố và trong sự tác động qua lại
giữa sự vật đó với sự vật khác. Địi hỏi chúng ta phái phân biệt từng mối liên hệ, phải
biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mỗi liên hệ bản chất, mối liên hệ tất nhiên...
Thứ hai là quan điểm lịch sử - cụ thể. Quan điểm này đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về
sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Cũng
như để xác định đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ
xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước.

7


CHƯƠNG 2: Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
2.1. Vấn đề tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
2.1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế.
Theo quan điểm kinh tế học thì tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng sản lượng của nền kinh
tế trong một thời kỳ nhất định. Thường được đo bằng sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội

theo thời gian hoặc tăng thu nhập đầu người theo quan niệm triết học. Khi xem xét mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội thì khái niệm tăng trưởng được hiểu
theo nghĩa rộng hơn: Tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiên quyết cho phát triển kinh tế.
Muốn phát triển kinh tế trước hết phải có sự tăng trưởng kinh tế. Nhưng không phải sự
tăng trưởng kinh tế nào cũng dẫn đến phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế bao hàm trong nó là mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội. Nghĩa là muốn phát triển kinh tế phải đảm bảo mối quan hệ trên. Tăng
trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức cao và ổn định trong thời gian
dài, giải quyết tốt vấn đề công bằng xã hội.

2.1.2. Khái niệm về công bằng xã hội.
Cơng bằng xã hội là một khái niệm mang tính lịch sử, bị quy định bởi hồn cảnh cụ thể.
Có thể nói, mỗi xã hội đều có chuẩn mực riêng của mình về cơng bằng xã hội, do hồn
cảnh lịch sử cụ thể ở đó quy định. Bàn về sự khác biệt giữa bình đẳng xã hội và cơng
bằng xã hội, trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta”, Mác vạch rõ: trong xã hội
XHCN "mỗi một người sản xuất nhận được trở lại vừa đúng cái mà anh ta đã cung cấp
cho xã hội". Đó là ngun tắc cơng bằng. Tuy nhiên, trong điều kiện của CNXH, công
bằng xã hội khơng đồng nhất với bình đẳng xã hội, nghĩa là bình đẳng khơng phải là
ngang bằng nhau về mọi phương diện. Phải chấp nhận tình trạng bất bình đẳng ở một giới
hạn nhất định đối với mọi thành viên trong xã hội. Như vậy, công bằng xã hội là một khái
niệm rất rộng, bao gồm cả yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

2.1.3. Tổng quan về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam.
Trước đổi mới ta áp dụng dập khuôn mô hình kinh tế kế hoạch hố tập trung của Liên
Xơ trong khi hoàn cảnh kinh tế, xã hội của Liên Xô khác xa so với nước ta và chủ
trương công nghiệp nặng trong khi nền kinh tế chưa ổn định và chưa có điều kiện, cơ sở
8


để phát triển. Chính vì vậy trong thời gian này ta gặp phải rất nhiều những khó khăn

khơng giải quyết được: nền kinh tế kém phát triển theo định hướng XHCN để thực hiện
tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội là một chủ trương đúng đắn.
Trong q trình đó, Nhà nước đóng vai trị đặc biệt quan trọng trong việc sử dụng các
công cụ của mình để điều tiết và phân phối lại nguồn thu nhập, điều hồ lợi ích giữa các
tầng lớp dân dư. Tuy nhiên, việc đó khơng được làm triệt tiêu động lực của sự phát triển
sản xuất. Nhà nước điều tiết qua các sắc thuế đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân để giảm bớt
chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và huy động đóng góp của những người có
thu nhập cao vào sự phát triển của xã hội.

2.2. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
2.2.1. Mối liên hệ của tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội,
Trước hết ta cần nghiên cứu mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện tất yếu cho tiến bộ xã hội. Do đó, trên thực tế, hầu hết
chính phủ các nước tìm mọi cách ưu tiên các nguồn lực của mình cho sự tăng trưởng kinh
tế, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội..., làm cơ sở để giải quyết hàng loạt vấn đề
kinh tế, chính trị, xã hội khác. Như thế, tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự thịnh suy của
từng quốc gia dân tộc. Vậy, phải chăng cứ tăng trưởng kinh tế là có sự tiến bộ xã hội?
Nhìn một cách tổng quát là như vậy. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào tăng trưởng
kinh tế cũng đi liền với sự tiến bộ xã hội, bởi cịn tùy thuộc vào mục đích của tăng trưởng
kinh tế. Nếu tăng trưởng kinh tế chỉ nhằm đạt được lợi nhuận sẽ đem lại thảm họa cho con
người. Ngược lại, tăng trưởng kinh tế để tất cả cho con người và vì con người thì ln
ln đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Như vậy tăng

trưởng kinh tế tạo điều kiện

vật chất để thực hiện công băng xã hội.
Công bằng xã hội là một khái niệm rộng, bao gồm công bằng trong các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa và xã hội. Trong đó, cơng băng trong kinh tế là cơ sở, công bằng trong
lĩnh vực phân phối có ý nghĩa quyết định đến việc phát huy nội lực các thành phần kinh
tế, đến từng thành viên trong xã hội. Vì vậy, sự tăng trưởng kinh tế phải hướng tới mục

đích phục vụ các mục tiêu xã hội và các mục tiêu xã hội phải hướng tới con người. Không

9


thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, có hiệu quá cao và bền vững trong một xã hội
với trình độ nhân dân thấp kém.
Cơng bằng xã hội dẫn đến lợi ích của mỗi cá nhân và mỗi chủ thể kinh tế được đảm bảo
đầy đủ theo mức độ đóng góp bằng nhiều hình thức như bằng lao động bằng vốn, tài sản,
trí tuệ, trí thức, trình độ tay nghề. Như vậy khi lợi ích kinh tế được đảm bảo đã tạo ra sự
kích thích cho mỗi cá nhân khơng ngừng phát huy tính năng động và năng lực sáng tạo
của mình. Do đó cơng bằng xã hội là động lực thúc đầy tăng trưởng kinh tế.

2.2.2. Việc nhận thức mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng.
Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau,
vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện để thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế cao và bền vững là thước đo của tiến bộ và
công bằng xã hội; tiến bộ, công bằng xã hội là biểu hiện của tăng trưởng kinh tế. Như vậy,
tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội không phải là những yếu tố đối lập mà có
quan hệ nhân quả với nhau.
Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là khát vọng của tất cả các quốc gia và
trong mọi thời đại. Tuy nhiên, việc đạt được mong muốn kép này là hết sức khó khăn và
trong thực tiễn đã có những ý kiến cho rằng có sự đối lập giữa tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ, cơng bằng xã hội. Bài tốn đặt ra hiện nay đối với các quốc gia là thực hiện tăng
trưởng kinh tế trước, sau đó mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội hay đặt tiến bộ và
cơng bằng xã hội lên trước, sau đó mới chú trọng cho việc tăng trưởng kinh tế hay giải
quyết hài hịa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, cơng bằng xã hội? Thực tế ở nhiều quốc gia
cho thấy không thể thực hiện tiến bộ hay công bằng xã hội trước nếu như không bảo đảm
nền kinh tế tăng trưởng cao, liên tục theo hướng phát triển bền vững. Mặt khác, những

chính sách dựa trên ưu tiên mục tiêu tiến bộ và cơng bằng xã hội có thể dẫn đến triệt tiêu
các động lực tăng trưởng kinh tế, kết cục cả mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế đều
không thực hiện được.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và tiến bộ, công bằng xã hội một cách khoa học. Đảng ta cho rằng, giữa tăng trưởng kinh
10


tế và tiến bộ, cơng bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, làm tiền đề
cho nhau cùng phát triển. Mặt khác, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là động lực, điều
kiện quan trọng có tác dụng thúc đẩy, bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Đại hội
X của Đảng khẳng định: "Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hóa, y tế, giáo
dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.”

2.2.3. Tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện công bằng xã hội là tất yếu khách
quan.
Ở nước ta, trước những năm đổi mới, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao
cấp và một nền kinh tế phi thị trưởng, chế độ phân phối bình qn, nền kinh tế, khơng
những khơng tăng trưởng mà trì trệ, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội vào giữa thập
niên 80, buộc chúng ta phái tiến hành đổi mới. Tinh thần đổi mới của Đảng thể hiện trước
hết ở đổi mới tư duy kinh tế, hình thành và hồn thiện qua các Đại hội VI, VII,VIII và IX.
Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đã
khẳng định rằng, để thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân
chủ, văn minh địi hỏi phải kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Tăng trưởng
kinh tế cùng với chế độ chính trị ưu việt là điều kiện, yếu tố quan trọng để có cơng bằng
xã hội. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội biểu hiện một cách đa
dạng, chứ không phải tăng trưởng đi trước công bằng theo sau. Mác viết: "Với một công
việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội

thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh (sản phẩm lao động, vật phẩm tiêu dùng) nhiều hơn
người kia, người này vẫn giàu hơn người kia”.
Từ những luận điểm của Mác, chúng ta thấy, công bằng xã hội khơng đồng nhất với bình
đẳng xã hội, cơng bằng xã hội, bình đẳng xã hội khơng có nghĩa là chia đều, ngang bằng
nhau, và trong CNXH vẫn tồn tại sự bất bình đẳng: bình đẳng trong CNXH là bình đẳng
về địa vị xã hội của con ngưởi. Trong điều kiện ở những nước chậm phát triển như nước
ta, liệu có thể vừa tăng trưởng kinh tế, vừa phát triển và thực hiện công bằng- xã hội được
không? Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Chủ nghĩa xã hội là cơng bằng hợp lý: Làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm thì khơng được hưởng. Những người già yếu
hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”. Nói về việc thực hiện cơng bằng xã
11


hội trong điều kiện nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: trong
cơng tác phân phối, không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, khơng sợ nghèo, chỉ sợ lịng
dân khơng n.
Thấm nhuần tư tưởng của các nhà sáng lập CNXH khoa học, của Hồ Chí Minh về quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, xuất phát từ thực tiễn của Việt Nam
trong sự nghiệp đôi mới, Đảng ta đã nêu rõ tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là
động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
CNXH. Từ cương lĩnh xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ, rõ ràng chúng ta đã có một
quan niệm khác với các nước XHCN trước đây là đặt ra các mục tiêu xã hội quá cao so
với trình độ phát triển kinh tế hiện tại, rút cục các mục tiêu xã hội trở thành ảo tưởng.
Chúng ta quan niệm, việc thực hiện các vấn đề xã hội, các mục tiêu xã hội tuy khơng thể
thốt ly tăng trưởng kinh tế, khơng thể vượt ra ngồi phạm vi cho phép, nhưng khơng thể
nhận thức một cách giản đơn: Cứ tăng trưởng kinh tế thì các vấn đề khác của xã hội sẽ
giải quyết được, cũng khơng chờ đến khi có cho sự tăng trưởng cao của kinh tế mới bắt
đầu thực hiện sự cơng bằng xã hội, mà mỗi bước tiến của chính sách xã hội (qua những
mục tiêu đạt được của nó) đều phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, và ngược lại, mỗi

bước phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế đều thúc đây tiễn bộ xã hội, công bằng xã hội.
Báo cáo gần đây nhất (năm 2003) về phát triển con người của Chương trình phát triển
Liên hợp quốc (UNDP) đã nêu rõ chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam được
tiến hành dựa trên những tính tốn các thành tựu về phát triển quan trọng như mức sống,
y tế, giáo dục liên tục được cải thiện, từ 0,583 (năm 1985) tăng lên 0,605$ (năm 1990) và
O,68$ (năm 2002-2003). Đồng thời, báo cáo còn nhắn mạnh: kết quả có ấn tượng nhất là
tỷ lệ nghèo đã giảm mạnh từ trên 70% vào cuối thế kỷ 20 xuống cịn khoảng 29% vào
năm 2002.

2.3. Q trình đảm bảo cơng bằng xã hội trong q trình phát triển kinh tế
ở Việt Nam hiện nay.
2.3.1. Quan điểm của Đảng về tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng
xã hội.
12


Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước đề
ra những quan điểm, chủ trương để xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực
hiện công bằng xã hội. Tư tưởng đó dần được hồn thiện qua các kỳ đại hội của Đảng.
Giai đoạn 1986-1990, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, được đánh dấu bằng Đại hội
lần thứ VI của Đảng (năm 1986). Đại hội VI, lần đầu tiên đặt vấn đề về mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế với việc giải quyết các mục tiêu xã hội khi xác định: “Trình độ phát
triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu
xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”.
Giai đoạn 1991-1995, định hướng gắn kết tăng trưởng với tiến bộ và công bằng xã hội thể
hiện trong nội dung Cương lĩnh năm 1991. Các định hướng chính sách lớn trong giai đoạn
1991-1995 tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển các thành phần kinh tế, hình
thành các thị trường nhân tố sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế thị trường.
Giai đoạn 1996-2000, bên cạnh tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao với mục tiêu tăng trưởng
cao hơn giai đoạn trước (tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng từ 9%-10% hàng năm),

quan điểm về phát triển xã hội nhấn mạnh thêm vấn đề tạo việc làm, giảm thất nghiệp và
xóa đói giảm nghèo.
Giai đoạn 2001-2005, quan điểm của Đảng về tăng trưởng có sự thay đổi rõ nét, đó là
tăng trưởng nhanh, nhưng bền vững. Mục tiêu về tốc độ tăng GDP khoảng 7,5% hàng
năm, tức thấp hơn giai đoạn trước; đồng thời cần chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động theo hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Giai đoạn 2006-2010, Đảng chủ trương thực hiện các định hướng chính sách lớn trong
giai đoạn này theo hướng kết hợp giải quyết các vấn đề xã hội thơng qua chính sách kinh
tế. Đại hội lần thứ X, Đảng đã thể hiện sâu sắc hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khi coi đây là một trong
những nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn 2011-2016, Đảng khẳng định rằng, tiến bộ xã hội và công bằng xã hội là hai
mục tiêu song trùng của sự phát triển xã hội; mục đích tối cao của tăng trưởng kinh tế là
nhằm phát triển con người; mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xét cho cùng, là để
giải phóng những giá trị văn hóa tích cực nhất cho lồi người, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội.
13


2.3.2. Thành tựu đã đạt được của Việt Nam hiện nay.
Thực hiện đường lối đổi mới từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, quá trình đổi
mới tư duy của Đảng về mối quan hệ của tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội đã đạt
được những thành tựu quan trọng. Ba trụ cột chính của đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh
tế, là: Thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện bước chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện chính sách mở cửa, tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế. Những tư duy này được phát triển qua các đại hội Đảng tạo nên tính năng động
sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, huy động các nguồn lực phát triển kinh tế.
Các chủ trương, quan điểm của Đảng đã được Chính phủ thể chế hóa thành các chính
sách, kế hoạch, chương trình dự án cụ thể để đưa vào cuộc sống. Nhờ vậy, qua gần 25

năm đổi mới đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc thực hiện kết
hợp tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Điểm quan trọng là đổi mới nhận thức về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội. Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể đã chuyển sang tinh thần
năng động, chủ động và tích cực xã hội của tất cả các tầng lớp dân cư. Từ chỗ đề cao quá
mức lợi ích của tập thể một cách chung chung, trừu tượng, đã từng bước thực hiện phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Nhờ vậy, công bằng xã hội được
thể hiện ngày một rõ hơn. Từ chỗ khơng chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đến
khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đơi với tích cực xóa đói, giảm nghèo. Từ
chỗ muốn nhanh chóng xây dựng một cơ cấu xã hội "thuần nhất" chỉ còn giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức đã đi đến việc xây dựng một cộng
đồng xã hội đa dạng, đồn kết, góp phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh. Đã coi phát
triển giáo dục đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát triển
xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững. Thực hiện công bằng trong giáo dục, chăm
sóc sức khỏe nhân dân, có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo.
Nhờ đổi mới tư duy về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
nên kinh tế tăng trưởng khá nhanh và liên tục trong nhiều năm. Trong điều kiện khủng
hoảng kinh tế toàn cầu năm 2007 - 2008, Việt Nam vẫn là nước có tốc độ tăng trưởng

14


kinh tế khá và là một trong số ít nước có tăng trưởng kinh tế dương trong năm 2009. Bảng
sau đây cho chúng ta thấy điều đó:
Bảng: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam
Năm
Tốc độ

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
6,8 6,9 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,48 6,18 5,32


tăng trưởng
GDP (%)
Nguồn: Niên giám thống kê
Thế giới đánh giá rất cao những thành tựu gắn kết tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công
bằng xã hội ở Việt Nam. Việt Nam đã thực hiện sự phát triển kinh tế hướng vào con
người, nhất là những người nghèo. Các chỉ tiêu xã hội có xu hướng được cải thiện rõ rệt.
Chỉ số HDI đo sự tiến bộ trung bình của một nước về phát triển con người bao gồm tuổi
thọ, trình độ dân trí và thu nhập GDP tính theo đầu người của Việt Nam năm 2007 đã lên
tới 0,725, tăng hơn so với năm 2006 (đạt 0,709) và thứ hạng HDI của Việt Nam được cải
thiện 4 bậc (từ thứ 109/177 lên 105). Chỉ số phát triển con người của Việt Nam cao hơn
một số nước có thu nhập bình qn đầu người cao hơn nước ta.
Nhìn chung, sau gần 25 năm đổi mới mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết một cách khá
hiệu quả. Các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp
dân cư. Đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và
khối đại đồn kết tồn dân tộc được củng cố và tăng cường. Vị thế nước ta trên trường
quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo
ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó
chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.

2.3.3. Hạn chế của việc gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Một là việc tổ chức triển khai thực hiện quan điểm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với
thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội cịn chưa đồng bộ và triệt để. Do sức ép về tăng
trưởng kinh tế nên nhiều ngành, nhiều địa phương ít quan tâm đến phát triển văn hóa và
cơng bằng xã hội, chỉ tập trung vào lợi ích kinh tế. Trên thực tế đã cho thấy, tăng trưởng
nhanh (tăng trưởng GDP năm 2015 là 6,68%) nhưng tính ổn định chưa cao; tăng trưởng
chủ yếu dựa vào vốn, ít dựa vào nguồn nhân lực chất lượng cao
15



Hai là văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Đầu tư cho phát triển
văn hóa ít hiệu quả. Một số chính sách chưa phù hợp với thực tiễn nhưng chậm được sửa
đổi; hệ thống thiết chế văn hóa chưa đồng bộ, chưa hồn chỉnh, dẫn đến nhiều di sản văn
hóa, cả vật thể và phi vật thể khơng được giữ gìn, tơn tạo. Tình trạng mất dân chủ, cửa
quyền, quan liêu, xuống cấp về tư tưởng, đạo đức, lối sống chưa được ngăn chặn có hiệu
quả. Tệ nạn xã hội và tội phạm (nhất là trong lớp trẻ) gia tăng đáng lo ngại.
Ba là số người nghèo, thất nghiệp còn nhiều. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nhất là tỷ lệ
thiếu việc làm ở nơng thơn cịn cao. Xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái
nghèo cịn nhiều.
Bốn là khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người dân cịn hạn chế. Trong lĩnh
vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, mạng lưới y tế tuy được mở rộng nhưng phân bố chưa
hợp lý, chưa thuận tiện cho người dân. Chất lượng khám, chữa bệnh chưa đáp ứng yêu
cầu, nhất là tuyến cơ sở. Việc khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện cịn chậm. Cơ chế,
chính sách bảo hiểm y tế, thu viện phí và khám, chữa bệnh cho người nghèo, đồng bào
vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn bất cập. Sự đầu tư và sự hưởng thụ về giáo
dục, sức khỏe và các dịch vụ khác ngày càng nghiêng về phía người có nhiều tiền sống ở
thành thị.

2.3.4. Giải pháp giải quyết các hạn chế còn tồn tại trong quá trình.
Tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
phát triển và trong suốt quá trình phát triển; phát triển kinh tế bền vững gắn với bảo vệ
môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, giảm bất bình đẳng; bảo đảm thống nhất chính sách
phát triển kinh tế và chính sách xã hội.
Thứ nhất, hồn thiện mơ hình tổng quát giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn đến 2030. Mơ
hình phát triển kinh tế Việt Nam lựa chọn trong giai đoạn tới tiếp tục phải là mơ hình “gắn
kết hài hòa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ, cải thiện môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu
và bảo đảm quốc phịng, an ninh”.
Thứ hai, hồn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;

chủ động hội nhập quốc tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường để phát triển nhanh và bền vững.
16


Thứ ba xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh. Nội dung cụ thể của
giải pháp này là: nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước để tạo môi trường,
điều kiện thuận lợi, an tồn để nền kinh tế vận hành thơng suốt, hiệu quả và hội nhập quốc
tế.
Thứ tư, hồn thiện chính sách phân phối. Chính sách phân phối và phân phối lại phải bảo
đảm lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp. Chú trọng phân phối lại qua
phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Thực hiện chế độ phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
Thứ năm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, con người Việt Nam phát triển toàn diện. Nội
dung cụ thể của giải pháp này là: xây dựng mơi trường văn hóa, đạo đức lành mạnh; khắc
phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam; ngăn chặn sự xuống cấp về văn hóa,
đạo đức; xây dựng các cơ chế, chính sách để gắn kết chặt chẽ xây dựng văn hóa và phát
triển con người; phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục, đào tạo.
Thứ sáu, phát triển và quản lý phát triển xã hội bền vững trên nền tảng dân chủ, khoa học,
thượng tôn pháp luật. Cùng với phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, quản lý phát triển
xã hội hợp thành khâu trung tâm của chiến lược phát triển đất nước, hướng tới mục tiêu
dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.

KẾT LUẬN

17



Ngay từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển đổi kinh tế từ kế hoạch tập trung sang
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã lựa chọn mơ hình gắn kết
giữa tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này thể hiện ngay
trong các văn kiện của Đảng. Quan điểm đó của Đảng được cụ thể hóa trong các chính
sách của Nhà nước.
Việt Nam là một trong số quốc gia có thành tựu về kinh tế, xóa đói giảm nghèo, phát triển
giáo dục chăm sóc sức khỏe cho người dân. Đó là những bằng chứng rõ nhất chứng minh
tính đúng đắn của mơ hình kết hợp tiến bộ và công bằng xã hội gắn với tăng trưởng kinh
tế mà Việt Nam đã lựa chọn. Có lẽ kết hợp tăng trưởng kinh tế với cơng bằng xã hội chính
là một trong những sự phấn đấu của thời đại mới.
Chúng ta vững tin rằng nước Việt Nam nhất định sẽ kết hợp thành công tăng trưởng kinh
tế với công bằng xã hội. Là sinh viên kinh tế của trường Đại học Ngoại thương, việc nhận
thức mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội không những đáp ứng nhu
cầu trau dồi kiến thức mà còn rút ra những kinh nghiệm cho bản thân.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Huy Quang đã tận tình giúp đỡ, chỉ
bảo em hồn thành bài viết này. Tuy nhiên do thời gian có hạn và sự hạn chế về trình độ
nhận thức của bản thân mà bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy, rất
mong được sự thơng cảm và đóng góp ý kiến của cơ giáo đề bài viết thêm hoàn thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
18


1. Giáo trình Triết học Mác — Lênin (Nhà xuất bản chính trị Quốc gia)
2. PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc (Tổng cục thống kê) - Tạp chí Lý luận chính trị tháng
1/2006
3. TS Vũ Viết Mỹ - Tạp chí Lý luận chính trị tháng 12/2004
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận
(2005)
4. Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006),

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận
(2015), Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (19862016), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Lương Thị Huyền Trang (2013), “Quan điểm của Đảng ta về mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa”, Tạp chí Triết học, số 2
7. Nguyễn Phú Trọng (2011), Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá
trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
8. Tạp chí Thơng tin kinh tế - xã hội số 5 (43) tháng 5/2005
9. Tạp chí Thơng tin kinh tế - xã hội số 6 (44) tháng 6/2006

19



×