ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ Ở KHỐI NGÀNH MỸ THUẬT
- NHỮNG NGHỊCH LÝ VÀ TIẾN TRÌNH
Trần Thị Hồi Diễm1
1. Đặt vấn đề
Trong thời gian qua, việc triển khai đào tạo theo Học chế tín chỉ (HCTC) được
thực hiện sôi động ở các trường đại học, nhưng với khối các trường Đại học mỹ thuật
thì mọi việc dường như mới bắt đầu với những băn khoăn, nghịch lý nảy sinh trong
tiến trình chuyển đổi đầy chơng gai từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ.
Sự chậm triển khai đào tạo theo HCTC ở các trường mỹ thuật có nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan, nhưng cơ bản vẫn là những băn khoăn xuất phát từ đặc thù
đào tạo mỹ thuật với tính chun mơn chuyên biệt, như vậy vấn đề đặt ra việc triển
khai nhiệm vụ này trong lộ trình đào tạo theo HCTC phải thế nào ? Bài viết này,
chúng tôi xin phân tích những bất cập hiện nay đang diễn ra trong đào tạo theo học
chế tín chỉ ở khối ngành mĩ thuật, từ đó, đề xuất một số giải pháp khắc phục nhằm
nâng cao hiệu quả mơ hình đào tạo này.
2. Đào tạo theo học chế tín chỉ ở khối ngành mĩ thuật – những nghịch lý và tiến
trình
Nhìn chung ở khối các trường Đại học nghệ thuật nói chung và mỹ thuật nói
riêng, việc thực hiện đào tạo theo HCTC các mơn lý thuyết ngành khơng khó thực
hiện, vì chuyển đổi theo phương pháp chung như các môn đại cương khác mà hiện
nay các trường đang phối hợp giảng dạy,đó là các môn Lịch sử Mỹ thuật thế giới,
Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, Mỹ thuật học, Mỹ học tạo hình, Nghiên cứu mỹ thuật cổ
Việt Nam... Nhưng với các mơn chun ngành sâu như Hình họa, Trang trí, ký họa
thực tế, chuyên khoa chất liệu Sơn mài, Sơn dầu, Lụa, Đồ họa, Tượng tròn, Phù điêu,
Thiết kế Đồ hoạ, Thiết kế Thời trang, Thiết kế Nội thất... thì khơng phải dễ dàng
chuyển đổi như các môn xã hội hay tự nhiên khác. Việc chỉ áp dụng chuyển đổi phiên
ngang có vẻ cơ học cứ 15 tiết hoặc 30 tiết là 01 tín chỉ thì rất thiếu tính khoa học đối
với đào tạo Mỹ thuật.
Để thực hiện đào tạo tín chỉ trong khối trường nghệ thuật, dù muốn hay khơng
thì những bước đi trên tiến trình đào tạo theo HCTC của các trường nghệ thuật khác
nhau cũng là cơ sở, là yếu tố tham khảo của các trường, đặc biệt là khi có những triển
khai sâu rộng hơn về đào tạo theo HCTC và đến lúc cần bàn về những vấn đề cụ thể
1
NCS – Trường Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế
108
sống còn của đào tạo mỹ thuật bằng những quy chế đào tạo mới, vì nó buộc phải từ bỏ
truyền thống đào tạo theo niên chế quá quen thuộc lâu nay.
Từ cái nhìn chung nhất về tiến trình đào tạo theo HCTC, chúng tôi thấy những
vấn đề nổi cộm:
1. Trong đào tạo theo HCTC, người học có quyền lựa chọn nhiều nội dung và
đối tượng học khác nhau. Tuy nhiên đối với nghệ thuật, nếu quá thả lỏng quyền này
thì rất dễ dẫn đến tình trạng người học sẽ tập trung vào một số học phần, lựa chọn
được học với một số giảng viên giỏi, có uy tín chun mơn, làm mất cân đối sự hài
hòa chung trong điều phối quản lý đào tạo. Quy chế đào tạo theo HCTC cho phép,
nhưng với ngành Mỹ thuật là khó bởi vì giảng viên nghệ thuật giỏi là rất ít và hiếm
chứ không nhiều như các ngành khác. Đã xảy ra hiện tượng sinh viên khi được tự do
đăng ký giảng viên hướng dẫn tốt nghiệp chuyên môn và luận văn - tiểu luận đã tập
trung vào một số ít giảng viên – nghệ sĩ có uy tín. Dù vậy, đây là một điều rất lý thú,
phản ánh người học nghĩ gì? cần gì? Họ chỉ tin tưởng vào những giảng viên nói đi đơi
với làm. Những người giảng viên dạy tốt và vẽ tốt, có cá tính sáng tạo và tâm huyết
với nghề. Thực tế cho thấy sinh viên Mỹ thuật không dễ bị áp đặt kiến thức trong học
chuyên ngành. Một giảng viên vẽ yếu hoặc khơng sáng tác thì không làm sao thuyết
phục sinh viên là phải vẽ như thế nào cho tốt. Đã có hiện tượng sinh viên bỏ hoặc học
cầm chừng với giảng viên được phần công đứng lớp để qua lớp khác học thầy có tài
và uy tín hơn. Điều này dẫn đến việc giảng viên Mỹ thuật cũng phải tự nhìn lại chính
mình, tiến trình đào tạo theo HCTC sẽ làm bật tung những thói quen xấu được bỏ qua
lâu nay như dạy không đúng giờ, đi muộn về sớm, lười NCKH, giảng dạy không có
giáo án, tuỳ hứng truyền khẩu...và buộc giáo viên cần phải nghiên cứu, sáng tác, bộc
lộ năng lực thẩm mỹ, khả năng sáng tạo của mình, có như vậy mới tự tin để dạy và lôi
cuốn được sinh viên học.
2. Việc đánh giá kết quả môn học, đánh giá thường xuyên theo quy chế đào tạo
tín chỉ (QC 43) là phù hợp với số đông của giáo dục đại học, tuy nhiên với đào tạo Mỹ
thuật việc đánh giá quá trình cũng khó thực hiện một cách mỹ mãn do tính chất rất
riêng của việc học đặc thù quy định. Tư chất bài học chuyên ngành Mỹ thuật là rất
khác với các ngành khác, vì vậy thuộc tính đánh giá cũng cần phải được xây dựng và
quy định cụ thể. Ví dụ bài Hình họa bán thân nam bằng chất liệu chì của năm 1, Sư
phạm Mỹ thuật kéo dài 20- 30 tiết, nếu bài này là một điểm đánh giá thì thời gian của
nó là q dài cho sự đánh giá chính xác.
3. Từ trước đến nay, việc chấm thi tốt nghiệp của các trường đại học mỹ thuật là
chấm theo Hội đồng trường hoặc Hội đồng ủy nhiệm tại các khoa, Hội đồng có lúc
109
đến 15 người (trong khi các ngành khác Hội đồng chỉ từ 3-7 người). Nay theo QC 43,
việc chấm thi cần 02-03 GV đảm nhiệm là đủ và không bảo vệ trước Hội đồng. Điều
này tuy đổi mới và táo bạo nhưng với đào tạo Mỹ thuật thì cũng có thể thực hiện
được. Tuy nhiên trách nhiệm và sự công bằng, nhân tâm của giảng viên chấm thi là rất
quan trọng, cần phải lựa chọn giáo viên chấm thi thật tốt. QC 43 quy định rõ chấm
theo thang điểm chữ A-B-C-F, điều này rất phù hợp với tác nghiệp truyền thống trong
chấm thi tốt nghiệp của nghệ thuật, khác chăng là phiên ra bậc + và - trong mỗi thang
điểm phân loại bài học và khơng có phân loại điểm chữ bậc F. Ví dụ có bài đạt A, A+,
A-, B, B+, B-, C và D.
4. Trong xu hướng liên thơng, module hóa các khối lượng học, tạo được nhiều
cơ hội cho sinh viên lựa chọn thời gian, môn học... thì với đào tạo mỹ thuật sự liên
thơng này chỉ mang tính tương đối và giới hạn trong các Khoa có giảng dạy những
mơn học giống nhau như hình họa, trang trí, ký họa và một số chất liệu chuyên khoa
sơn dầu, sơn mài… Điều này thật khác với các trường khác khi sinh viên trường này
có thể đến trường khác để học những học phần mà họ lựa chọn. Sinh viên có quyền
đăng ký, lựa chọn các học phần phù hợp với yêu cầu của chương trình đào tạo và
thuận tiện cho việc học tập của họ. Nhưng đối với ngành đào tạo mỹ thuật thì điều này
dường như khơng thể, do tính đặc thù của các mơn học chuyên ngành. Chẳng hạn, học
phần vẽ mẫu đôi và chất liệu sơn dầu của năm 3 (khoa Hội họa), học phần này cần hai
người mẫu khỏa thân ngồi trên bục kéo dài gần một tháng với chi phí cho người mẫu
khá cao, không gian quy định lớp vẽ dưới 25 sinh viên.
Điều kiện tối thiểu một giảng viên hướng dẫn cùng một trợ giảng do vậy không
thể tổ chức những lớp học đông đến 40 - 50 sinh viên (theo quy định đào tạo tín chỉ).
Đối với các ngành khác cũng khơng thể phụ thuộc hồn tồn vào việc đăng ký
của người học, nếu lớp chỉ 3 - 4 người thì chi phí đào tạo tính cho mỗi sinh viên quá
lớn. Mặt khác, sinh viên có quyền chọn những bài học phù hợp với thời gian hoạt
động học tập của riêng họ, độ khó của từng bài học và tín nhiệm của họ đối với giảng
viên mà họ lựa chọn. Nếu tập hợp được tất cả các điều kiện của lớp này với 20 – 25
sinh viên trong không gian xưởng thực hành khoảng 80m2 trong việc định vị ánh sáng
một chiều thích hợp với hình họa và phải đúng với chất lượng đào tạo mà họ đã đăng
ký là điều quá khó đối với các trường đào tạo mỹ thuật hiện nay.
Đó là chưa nói đến hàng loạt các mối liên hệ khác nhau trong tương tác với học
phần này phải thống nhất như điều kiện thời tiết. Sức khỏe và sự ổn định tâm lý của
người mẫu, thái độ học tập của sinh viên, sự khơi dậy cảm hứng sáng tạo cho sinh
viên…Ví dụ như ở trường ĐHNT Huế chúng tôi vào mùa đông rất lạnh, mẫu khỏa
110
thân cần các điều kiện như: có lị sưởi để đảm bảo sức khỏe, độ tuổi và giới tính người
mẫu phù hợp với yêu cầu của bài học, và không ít người mẫu đã phải bỏ nghề vì
những điều kiện khác tác động. Các điều kiện về học phần sinh viên chuẩn bị, các tài
liệu trực quan để sinh viên tham khảo trước, trong và sau khi thực hành, các tài liệu
nước ngoài, các bài mẫu tốt của các năm trước lưu lại và bên cạnh đó một loạt vấn đề
tâm lý trong nghiên cứu sáng tác khác, … đều là những vấn đề cần quan tâm. Việc
theo học học chế tín chỉ ngành mỹ thuật cũng cần phải nói thêm rằng đối với các
ngành khoa học xã hội nhân văn có thể học trước hoặc sau khoảng thời gian cho phép,
chẳng hạn như ở khoa Văn ở Đại học Sư phạm, trong học phần Lịch Văn học Việt
Nam thế kỷ XX, trong phần Thơ mới có thể học về Xuân Diệu trước Vũ Hoàng
Chương, Huy Cận trước Thế Lữ …vẫn không ảnh hưởng nhiều đến sự đánh giá
chung. Nhưng ở Đại học Mỹ thuật, trong chương trình Hình họa, ví dụ bài mẫu đơi thì
điều kiện tiên quyết là phải được học mẫu đơn toàn thân trước, rồi đến chất liệu than,
sau đó mới đến sơn dầu trước khi vào học học phần mẫu đôi với thời lượng khoảng từ
120 – 150 tiết.
Trong rất nhiều học phần khác như ký họa ngoài trời, như học phần thực tế lại
phải có những quy định rất riêng để đảm bảo quá trình đào tạo và gần như hướng dẫn
một thầy một trị, nên việc thực hiện đào tạo tín chỉ cho những học phần tương tự như
vậy gặp rất nhiều khó khăn. Điều này liên quan đến nhiều năm học và học phần khác
trên cùng một bình diện học tập và giáo viên hướng dẫn. Do vậy cần quan tâm đến
việc xây dựng các tín chỉ cho các mơn chun ngành chung của các Khoa sao cho
người học có thể tìm thấy được những lợi ích thật sự khi chọn đúng học phần phù hợp
nhất với điều kiện học của mình.
5. Đào tạo tín chỉ nói chung là tạo cho người học tính chủ động tự học cao, điều
này cũng rất phù hợp với đào tạo theo HCTC của ngành Mỹ thuật. Các mơn chun
ngành mỹ thuật có phần thực hành rất lớn, trong đó có nhiều mơn học, bài học chỉ có
thể thực hiện phần thực hành tại lớp học như mơn hình họa, bài hình họa chì, than, bột
màu, sơn dầu... nhưng cũng có nhiều bài học nếu xây dựng một cách khoa học giữa
học ở trường và tự học thì sẽ là những học phần có tính linh hoạt cao như trang trí
(trang trí khăn quàng, thiết kế tem thư), phân tích tranh (Sư phạm Mỹ thuật). Những
học phần này sinh viên học phương pháp, cách thức phân tích ở lớp, cịn đánh giá, tìm
hiểu thêm về tác phẩm ở các góc độ tác giả, lịch sử tác phẩm, phong cách thời đại…
thì có thể tự học và truy cập tài liệu từ Internet.
111
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Trong lộ trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thực hiện đào tạo theo tín chỉ,
đối với các trường nghệ thuật nói chung và mỹ thuật nói tiêng có rất nhiều vấn đề cần
khắc phục, điều chỉnh và tạo sự thống nhất chúng mới có thể tham gia vào lộ trình đào
tạo theo HCTC, vì một trong những điều cơ bản của đào tạo theo HCTC là phải tạo
điều kiện học tập tốt nhất cho người học. Từ những điều như đã trình bày ở trên,
chúng tơi có một số kiến nghị như sau:
- Cần có một sự thống nhất trong quan điểm tổ chức đào tạo theo HCTC khối ngành
các trường mỹ thuật nói chung và từng trường mỹ thuật nói riêng để việc xác định tiến độ, kỹ
năng tổ chức triển khai chặt chẽ khoa học, phân chia nhiều giai đoạn một cách hợp lý cho
việc thực hiện đào tạo theo HCTC.
- Cần tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo để lấy ý kiến của các chuyên gia đầu
ngành và từ đó lấy ý kiến về việc thực hiện quy trình và tiến độ đào tạo mỹ thuật, qua
đó thấy được những khó khăn thuận lợi và tính khả thi nhất định trong quá trình thực
hiện đào tạo tín chỉ mỹ thuật. Nếu khơng lường trước được những khó khăn và những
khả năng có thể thực hiện đào tạo được thì khơng nên vội vàng thực hiện ồ ạt việc đào
tạo theo tín chỉ cho các học phần chun ngành mỹ thuật, bởi vì nếu khơng cẩn thận
trong tác nghiệp này thì việc thực hiện tín chỉ cho khối ngành mỹ thuật sẽ rất dễ có
nhiều lỗi và có thể bị “sa lầy” mà khó lịng cứu vãn nổi. Khơng nên thực hiện lộ trình
học tín chỉ cho khối các ngành mỹ thuật một cách đồng loạt và gượng ép mà phải có
một thời kỳ quá độ điều chỉnh dần, thay đổi chuyển đổi trong từng giai đoạn để tiến
tới mở rộng hơn các học phần tín chỉ cho chuyên ngành mỹ thuật đến khi hoàn thiện
quy định này.
- Cần phải xây dựng một đội ngũ cố vấn nghệ thuật có tâm huyết, là những nhà giáo
có uy tín, tận tâm, tâm huyết với sự nghiệp đào tạo nghệ thuật. Đối với sinh viên các ngành
mỹ thuật nói chung thì tài năng đức độ và uy tín của người thầy là vô cùng quan trọng, để
sinh viên học tập và noi theo, và từ đó thẩm thấu tốt những bài học, bài giảng nghệ thuật
mà người thầy mang lại cho họ.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ VHTTDL cũng cần xem xét điều chỉnh lại một
số phần của nội dung, chương trình đào tạo khối ngành mỹ thuật để phù hợp hơn với
việc đào tạo theo HCTC. Nếu làm được điều này chúng ta sẽ giải quyết được một việc
quan trọng là giúp người học nhìn thấy được khối lượng, dung lượng tri thức mỹ thuật
mà việc học tập theo tín chỉ là cần phải có, qua đó giúp cho họ đạt được những kiến
thức chuyên môn để nhận bằng tốt nghiệp đại học.
112
- Tăng cường cơ sở vật chất phịng học, khơng gian phù hợp, cải tạo môi trường
hoạt động trong các phòng học theo nguyên tắc xanh – sạch – đẹp, tiện nghi để tạo
cảm hứng cho dạy và học, và đảm bảo những yêu cầu cơ bản nhất trong thực hiện đào
tạo theo HCTC mỹ thuật.
4. Thay lời kết
Chúng tôi thiết nghĩ khơng chỉ có khối các trường Đại học Nghệ thuật đòi hỏi
phải vận dụng mềm dẻo hơn Quy chế đào tạo theo HCTC mà cả các Đại học cũng cần
ln sáng tạo trong tiến trình thực hiện đào tạo theo HCTC, cần vận dụng linh hoạt
trong từng ngành đào tạo cụ thể, không nên áp dụng cứng nhắc, rập khn và bám sát
đến máy móc các Quy chế của Bộ. Mặt khác, Bộ cũng nắm bắt thực tiễn để sớm nhìn
ra những bất cập, nhìn thấy những yêu cầu không thể khác của các trường để kịp thời
điều chỉnh chính sách và hồn thiện Quy chế.
113