Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Một số giải pháp đổi mới quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở trường đại học vinh luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.58 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐINH VĂN ĐỨC

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ SINH VIÊN
TRONG ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

2


NGHỆ AN, 2012

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nước, trong thời kỳ mở cửa, hội nhập,
quan hệ quốc tế, các cơ sở giáo dục, các trường Đại học, Cao đẳng, Trung
học chuyên nghiệp nói riêng đang được xem là các cơ sở dịch vụ (một loại
hình dịch vụ đặc biệt). Loại hình dịch vụ này có tồn tại, phát triển hay
khơng hồn tồn phụ thuộc vào người học. Số lượng, chất lượng sinh viên
nói lên vị thế, sự phát triển của cơ sở đó.
Mặt khác, trong nhiều năm qua, công tác quản lý sinh viên được coi
trọng theo cách truyền thống, chúng ta lo chỉ tập trung quản lý số lượng
sinh viên có mặt trên lớp, mà thời gian của sinh viên lên lớp thì quá nhỏ so
với tổng thời gian sinh hoạt trong ngày của sinh viên bởi vì hiện tại chúng
ta đang thực hiện đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Hơn thế việc đánh giá sinh
viên còn dựa vào nhiều tiêu chí như: chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, ý
thức tham gia các hoạt động tập thể, ý thức rèn luyện bản thân, chế độ chính


sách. Vì thế, tìm được giải pháp nâng cao việc quản lý sinh viên là tìm chìa
khố để mở cửa mảng dịch vụ này.
Vấn đề công tác quản lý sinh viên được Nhà trường hết sức quan tâm,
thể hiện trong nghị quyết của các Đại hội đảng bộ Trường Đại học Vinh
khoá 30. Với số lượng trên 30 000 học sinh, sinh viên, việc quản lý cịn có
nhiều bất cập so với u cầu. Đây là bài tốn khó đối với Nhà trường, các
khoa đào tạo, và các nhà Quản lý giáo dục. Việc quản lý học sinh sinh viên
lại gặp nhiều khó khăn hơn khi Trường chuyển từ hình thức đào tạo theo
niên chế sang hình thức đào tạo theo tín chỉ.
Những vấn đề trên đây làm nảy sinh nhiều vấn đề lý luận cần giải
quyết. Đó là lý do chúng tơi chọn vấn đề: “Một số giải pháp đổi mới quản
lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở trường Đại học Vinh”
làm đề tài nghiên cứu.
2


2. Mục đích nghiên cứu
Đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý sinh
viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở Trường Đại học Vinh
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
3.1. Khách thể: Công tác quản lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín
chỉ ở Trường Đại học Vinh.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp đổi mới quản lý sinh viên
trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở Trường Đại học Vinh.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất các giải pháp có tính khả thi, khoa học và áp dụng được
thì sẽ nâng cao được hiệu quả công tác quản lý sinh viên trong đào tạo theo
học chế tín chỉ ở Trường Đại học Vinh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý sinh viên trong đào tạo

theo học chế tín chỉ ở trường đại học
5.2. Nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác quản lý sinh viên trong đào
tạo theo học chế tín chỉ ở Trường Đại học Vinh.
5.3. Đề xuất một số giải pháp đổi mới quản lý sinh viên trong đào tạo theo
học chế tín chỉ ở Trường Đại học Vinh.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phân tích, khái quát các tài liệu nghiên cứu lý luận, các văn bản nghị
quyết của Đảng, Nhà nước và các quy chế, quy định của ngành giáo dục và
đào tạo có liên quan đến đề tài.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra qua các phiếu xin ý kiến.
- Phương pháp đàm thoại, phương pháp chuyên gia: Trao đổi, phỏng
vấn trực tiếp cán bộ quản lý, giảng viên, sinh viên, chính quyền địa phương,

2


cảnh sát khu vực, các hộ kinh doanh phòng trọ sinh viên nhằm thu thập
thêm thông tin bổ sung cho phần nghiên cứu thực trạng.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: nghiên cứu thực tiễn để rút ra
những kết luận và bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý sinh viên
trong đào tạo theo học chế tín chỉ nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
6.3. Phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu.
7. Đóng góp của luận văn
- Về lý luận: Nêu và hệ thống hoá các cơ sở lý luận của công tác quản
lý sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
- Về thực tiễn: Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý
sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở Trường Đại học Vinh.
8. Cấu trúc của luận văn.

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm có
3 chương:
Chương 1 . Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2. Thực trạng công tác quản lý sinh viên trong đào tạo
theo học chế tín chỉ ở Trường Đại học Vinh.
Chương 3. Một số giải pháp đổi mới công tác quản lý sinh viên
trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở Trường Đại học Vinh.

2


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ SINH VIÊN TRONG ĐÀO TẠO
THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Công tác quản lý sinh viên là một mảng lớn của công tác quản lý nhà
trường, do đó nó ln được các nhà nghiên cứu giáo dục trong và ngoài
nước, các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp quan tâm.
1.1.1. Ở nước ngồi
Đào tạo theo học chế tín chỉ đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế
giới từ đầu thế kỷ XX. Nó được áp dụng rộng rãi nhất ở Hoa Kỳ, Canađa,
Nhật Bản, Philippin, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Ấn Độ,
Sênêgan, Mơzămbích. Trong q trình vận hành nhiều vấn đề về nội dung,
cách thức của phương thức đào tạo mới này đã được bổ sung, sửa đổi để
phù hợp với đặc điểm mỗi vùng miền, mỗi thời kỳ lịch sử. Song song với
việc triển khai phương thức đào tạo, công tác quản lý sinh viên cũng được
các trường đại học các nước quan tâm, cải tiến và hoàn thiện các quy trình.
Các trường đại học trên thế giới khi chuyển sang phương thức đào
tạo này cũng gặp phải những khó khăn như ở nước ta nói chung, ở Trường
Đại học Vinh nói riêng bởi đào tạo theo học chế tín chỉ hồn tồn khác với

đào tạo theo niên chế. Do đó, khâu nghiên cứu, cải tiến quy trình đào tạo và
quản lý sinh viên cũng được các trường thực hiện ngay từ đầu. Trong đó, đã
có hàng trăm cơng trình nghiên cứu để tìm ra các mơ hình quản lý sinh viên
hiệu quả, sát với sứ mạng của các trường nêu trên.
Tuy nhiên, do tình hình chính trị, xã hội, kinh tế của mỗi nước một
khác, đặc điểm của mỗi trường đại học một khác, nên những quy trình,
những cách thức của các nhà nghiên cứu thế giới đã làm không thể áp dụng
được vào điều kiện của Việt Nam hiện nay.
2


1.1.2. Ở trong nước
Ở nước ta, trước khi thống nhất đất nước, một số trường đại học ở
miền Nam chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Hoa Kỳ đã áp dụng đào tạo
theo hệ thống tín chỉ như: Viện Đại học Cần Thơ, Viện đại học Thủ Đức...
Từ cuối năm 1986 khi miền Bắc chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giáo dục
đại học ở nước ta cũng có nhiều thay đổi. Hội nghị Hiệu trưởng các trường đại
học tại Nha Trang hè 1987 đã đưa ra nhiều chủ trương đổi mới giáo dục đại
học, trong đó có chủ trương triển khai trong các trường đại học qui trình đào
tạo 2 giai đoạn và mơdun-hố kiến thức. Theo đó, học chế học phần ra đời và
chính thức được triển khai trong toàn bộ hệ thống các trường đại học và cao
đẳng nước ta từ năm 1988. Học chế học phần có các đặc điểm cơ bản là tích
luỹ dần kiến thức, mơ đun hố kiến thức thành các học phần một cách khá trọn
vẹn và không quá lớn để có thể lắp ghép với nhau, tạo nên một chương trình
đào tạo dẫn đến một văn bằng mà người học có thể tích luỹ dần trong q trình
học tập. Để đo lường kiến thức theo khối lượng lao động học tập của người
học, khái niệm đơn vị học trình được đưa vào.
Từ năm 1993, học chế tín chỉ đã được thực hiện ở Trường Đại học
Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó là các trường Đại học Khoa học

Tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Xây dựng Hà Nội, Đại học
Bách khoa Đà Nẵng, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh,
Đại học Thăng Long Hà Nội, Đại học Đà Lạt, Đại học Thủy sản Nha Trang,
Đại học Cần Thơ...
Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy chế đào tạo đại
học và cao đẳng hệ chính quy theo học chế tín chỉ (số 43/2007/QĐBG&DĐT), chính thức mở ra hướng đào tạo theo hệ thống tín chỉ trên
phạm vi toàn quốc.
Song, đến nay Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn chưa ban hành Quy chế
Học sinh – sinh viên trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ, nên công tác quản
2


lý sinh viên ở mỗi trường học áp dụng tín chỉ lại có một hướng đi khác
nhau. Và cho đến nay, chưa có nhà nghiên cứu nào có cơng trình nghiên
cứu tồn diện về cơng tác quản lý sinh viên trong đào tạo theo hệ học chế
tín chỉ mà chỉ là những cơng trình nghiên cứu, những bài viết, những sáng
kiến kinh nghiệm được trích đăng tại các hội thảo do Bộ Giáo dục và Đào
tạo cũng như Ban Liên lạc các trường đại học và cao đẳng Việt Nam (VUN)
tổ chức.
Một số bài báo, bài viết ngắn về tín chỉ và quản lý sinh viên theo học
chế tín chỉ có thể liệt kê:
- Bài báo “phương pháp học tập và quản lý học tập của sinh viên đào
tạo theo hệ thống tín chỉ” của PGS.TS Ngơ Dỗn Đãi, Trường Đại học quốc
gia Hà Nội.
- Bài tham luận “Phát huy tính chủ động và tự giác của sinh viên
trong quản lý đào tạo theo hệ thống tín chỉ” của PGS.TS Võ Xuân Đàn,
Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bài tham luận “Đại học công lập, quản lý sinh viên trong đào tạo
theo học chế tín chỉ như thế nào?” của ThS Nguyễn Cao Đạt, Trường Đại
học Cửu Long…

- Luận văn thạc sĩ “ Quản lý sinh viên trong đào tạo tín chỉ” của tác
giả Lê Công Đức, Trường Đại hoc Vinh.
Những tài liệu, bài báo này đang mang tính cung cấp thơng tin chưa
mang tính hệ thống, tồn diện về cơng tác quản lý sinh viên trong đào tạo
theo hệ thống tín chỉ.
Trường Đại học Vinh triển khai đào tạo theo hệ thống tín chỉ từ học
kỳ II năm học 2007 – 2008. Vấn đề quản lý sinh viên cũng đã được đề cập
trong một số sáng kiến kinh nghiệm do cơng đồn trường tổ chức. Cơng
trình – luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục của tác giả Nguyễn Quốc Dũng “Một số mơ hình hoạt động Đồn, Hội trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở

2


Trường Đại học Vinh” là cơng trình khoa học đã đề cập đến vấn đề này ở
Trường Đại học Vinh cho đến thời điểm hiện nay.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.1.1. Khái niệm về quản lý:
Khái niệm quản lý được hình thành từ xa xưa, khi lồi người xuất
hiện sự hợp tác, phân công lao động. Quản lý là các hoạt động do một hay
nhiều người điều phối hoạt động của người khác nhằm đạt mục tiêu đã định
trước. Mác nói: "Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự
chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân... Một người độc tấu vĩ cầm
tự mình điều khiển lấy mình, cịn một dàn nhạc thì cần phải nhạc trưởng".
Giáo trình khoa học quản lý (T1.NXB khoa học kỹ thuật. Hà Nội.
1999) ghi: "Quản lý là các hoạt động được thực hiện nhằm đảm bảo sự hình
thành cơng việc qua nỗ lực của người khác". Có tác giả lại quan niệm:
Quản lý là một q trình hoạt động có định hướng, có tổ chức dựa trên các
thơng tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự vận

hành của đối tượng được ổn định và phát triển tới mục tiêu đã định [1].
Hiện nay, quản lý được hiểu là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức
bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ
đạo (lãnh đạo) và kiểm tra.
Như vậy, có thể khái quát: quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển,
hướng dẫn hoạt động của một nhóm (hay nhiều nhóm) xã hội cùng thực
hiện những nhiệm vụ và mục đích chung. [16]
Với ý nghĩa thơng thường, phổ biến thì quản lý có thể hiểu là hoạt
động nhằm tác động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản
lý vào một đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành
vi của con người nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng theo
những mục tiêu đã định.
2


- Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định.
1.2.1.2. Khái niệm quản lý giáo dục:
Quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống, có ý thức, hợp qui
luật của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau lên tất cả các mắt xích của hệ
thống giáo dục nhằm đảm bảo cho hệ thống Giáo dục vận hành bình thường
và liên tục phát triển, mở rộng cả về số lượng cũng nhưchất lượng.
Nói cách khác: quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có chủ
đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên,
nhân viên, học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài
nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng mục tiêu giáo dục.
1.2.1.3. Khái niệm quản lý Nhà trường:
Trước tiên để hiểu về khái niệm quản lý Nhà trường ta hiều thế nào là
khái niệm Nhà trường. Vậy, Nhà trường là một thiết chế xã hội trong đó
diễn ra q trình giáo dục. Nhà trường là một bộ phận của cộng đồng xã hội
và trong hệ thống giáo dục quốc dân, nó là đơn vị cơ sở. Nói cách khác:

Quản lý Nhà trường là hệ thống những tác động của chủ thể quản lý có chủ
đích, có kế hoạch đến đối tượng quản lý nhằm thực hiện tốt mục đích của
chủ thể quản lý.
Giáo dục là q trình hình thành, hồn thiện nhân cách còn đào tạo là
hướng vào một nghề nhất định. Xuất phát từ đó trong trường phổ thơng
người ta hay nói đến giáo dục cịn trong các trường chun nghiệp người ta
nói đến đào tạo.
+ Các thành tố đề tạo nên Nhà trường gồm:
- Mục tiêu giáo dục, đào tạo.
- Nội dung giáo dục, đào tạo
- Phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, đào tạo.
- Lực lượng giáo dục, đào tạo (giáo viên, cán bộ - công chức)
- Đối tượng giáo dục, đào tạo.
- Điều kiện giáo dục, đào tạo
2


- Điều kiện đào tạo.
- Quy chế, nội quy
- Bộ máy tổ chức quản lý.
- Môi trường đào tạo.
+ Nội dung của quản lý nhà trường (công tác quản lý nhà trường thể hiện
trên 2 lĩnh vực):
Lĩnh vực 1: Quản lý các mối quan hệ bên trong nhà trường:
- Quản lý quá trình giáo dục.
- Quản lý cơ sở vật chất, thiết bị trường học.
- Quản lý hành chính, tài chính.
- Quản lý nhân sự (giáo viên, cán bộ, cơng chức và học sinh, sinh viên)
Lĩnh vực 2: Quản lý các mối quan hệ giữa nhà trường với môi trường
xã hội:

- Quản lý về kinh tế: Nhà trường có thể khai thác các nguồn lực trong
xã hội để thu hút ngân sách địa phương để bổ sung kinh phí cho các hoạt
động giáo dục – đào tạo,…
- Quản lý về kỹ thuật – công nghệ: Mọi thành tựu về khoa học và
cơng nghệ đều có ảnh hưởng đến nhà trường.
- Quan hệ chính trị - pháp luật, …
1.2.2. Sinh viên
a) Khái niệm
Đến nay có rất nhiều tác giả định nghĩa về sinh viên, như:
+ Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm định nghĩa về sinh viên như sau:
“ Đối với người Việt Nam chúng ta hai tiếng sinh viên luôn gợi lên cái gì
đó trong sáng, tốt đẹp. Đó là thế hệ quá sớm để được coi là từng trải, dày
dặn, nhưng cũng quá muộn để coi là non nớt, thơ ấu. Thế hệ sinh viên đứng
giữa hai cái đó. Họ nhìn đời một cách nghiêm túc mà không mất vẻ trẻ
trung, hồn nhiên, họ là thế hệ của học hỏi, rèn luyện, ước mơ. Họ là tuổi trẻ
cuủa con người, thế hệ đẹp của một thời đại”.
2


+ Kamila (Cộng hòa Séc ):
“Sinh viên là người đến trường để học một cái gì đó. Có nhiều loại
sinh viên: Họ đến trường vì họ phải đến, họ đến trường vì chằng có việc gì
phải làm và mơt nhóm khác là đến trường vì thực sự muốn được một cái gì
đó, vì họ biết sẽ khơng có tương lai nếu không học”.
+ Sinh viên là tất cả những người cần học cái gì đó và khơng ngại bỏ cơng
để theo đuổi tri thức.
+ Con người là sinh viên suốt cuộc đời mình; Học để hỏi/biết (study to
learn) và học hỏi chính là sống.
Mặc dầu có nhiều tác giả định nghĩa về sinh viên, song chưa có một
tác giả nào đưa ra khái niệm sinh viên một cách đầy đủ cả về nội hàm và

ngoại diên.
Theo chúng tôi sinh viên là những người đang học tập, nghiên cứu ở
các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và được cấp bằng
Cử nhân.
Theo Quy chế Công tác học sinh, sinh viên trong các trường đào tạo
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1584/GD- ĐT ngày 27 tháng 7 năm
1993 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) nêu rõ: “Người đang học
trong hệ đại học và cao đẳng gọi là sinh viên”. [2]
b. Sinh viên có nhiệm vụ:
- Thực hiện nhiệm vụ học tập theo mục tiêu, chương trình và kế
hoạch giáo dục của nhà trường;
- Kính trọng nhà giáo, cán bộ quản lý, công nhân viên của nhà trường
và cơ sở giáo dục khác; tuân thủ pháp luật của nhà nước; thực hiện nội quy,
điều lệ nhà trường.
- Rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh cá nhân và bảo vệ mơi trường.
- Giữ gìn và bảo vệ tài sản nhà trường.
- Tham gia lao động cơng ích và hoạt động xã hội ở địa phương.

2


- Góp phần xây dựng, bảo vệ và phát huy truyền thống của nhà
trường, cơ sở giáo dục khác.
c. Quyền, nghĩa vụ và những hành vi sinh viên không được làm:
* Quyền của sinh viên:
- Được nhận vào học đúng ngành nghề đã đăng ký dự tuyển nếu đủ các
điều kiện trúng tuyển theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và nhà trường.
- Được nhà trường tôn trọng và đối xử bình đẳng; được cung cấp đầy
đủ thông tin cá nhân về việc học tập, rèn luyện theo quy định của nhà
trường; được nhà trường phổ biến nội quy, quy chế về học tập, thực tập, thi

tốt nghiệp, rèn luyện, về chế độ chính sách của Nhà nước có liên quan đến
sinh viên.
- Được tạo điều kiện trong học tập và rèn luyện, bao gồm:
+ Được sử dụng thư viện, các trang thiết bị và phương tiện phục vụ các
hoạt động học tập, thí nghiệm, nghiên cứu khoa học, văn hoá, văn nghệ, thể
dục, thể thao;
+ Được tham gia nghiên cứu khoa học, thi sinh viên giỏi, thi Olympic
các môn học, thi sáng tạo tài năng trẻ;
+ Được chăm lo, bảo vệ sức khoẻ theo chế độ hiện hành của Nhà nước;
+ Được đăng ký dự tuyển đi học ở nước ngồi, học chuyển tiếp ở các
trình độ đào tạo cao hơn theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
+ Được tạo điều kiện hoạt động trong tổ chức Đảng Cộng sản Việt
Nam, Đồn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt Nam, Hội Liên hiệp
Thanh niên Việt Nam; tham gia các tổ chức tự quản của sinh viên, các hoạt
động xã hội có liên quan ở trong và ngồi nhà trường theo quy định của
pháp luật; các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao lành mạnh, phù hợp
với mục tiêu đào tạo của nhà trường;
+ Được nghỉ học tạm thời, tạm ngừng học, học theo tiến độ chậm, tiến
độ nhanh, học cùng lúc hai chương trình, chuyển trường theo quy định của

2


quy chế về đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo; được nghỉ hè, nghỉ tết,
nghỉ lễ theo quy định.
- Được hưởng các chế độ, chính sách ưu tiên theo quy định của Nhà
nước; được xét nhận học bổng do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
tài trợ; được miễn giảm phí khi sử dụng các dịch vụ cơng cộng về giao
thơng, giải trí, tham quan viện bảo tàng, di tích lịch sử, cơng trình văn hố
theo quy định của Nhà nước.

- Được trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp của mình kiến nghị
với nhà trường các giải pháp góp phần xây dựng nhà trường; được đề đạt
nguyện vọng và khiếu nại lên Hiệu trưởng giải quyết các vấn đề có liên
quan đến quyền, lợi ích chính đáng của sinh viên.
- Được xét tiếp nhận vào ký túc xá theo quy định của trường. Việc ưu
tiên khi sắp xếp vào ở ký túc xá theo quy định tại Quy chế công tác HSSV
nội trú của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Sinh viên đủ điều kiện công nhận tốt nghiệp được nhà trường cấp
bằng tốt nghiệp, bảng điểm học tập và rèn luyện, hồ sơ sinh viên, các giấy
tờ có liên quan khác và giải quyết các thủ tục hành chính.
- Được hưởng chính sách ưu tiên của Nhà nước trong tuyển dụng vào
các cơ quan Nhà nước nếu tốt nghiệp loại giỏi, rèn luyện tốt và được hưởng
các chính sách ưu tiên khác theo quy định về tuyển dụng cán bộ, công chức,
viên chức [3].
* Nghĩa vụ của sinh viên:
- Chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
và các quy chế, nội quy, điều lệ nhà trường.
- Tôn trọng nhà giáo, cán bộ và nhân viên của nhà trường; đồn kết,
giúp đỡ lẫn nhau trong q trình học tập và rèn luyện; thực hiện tốt nếp
sống văn minh.
- Giữ gìn và bảo vệ tài sản của nhà trường; góp phần xây dựng, bảo vệ
và phát huy truyền thống của nhà trường.
2


- Thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch
giáo dục, đào tạo của nhà trường; chủ động tích cực tự học, nghiên cứu,
sáng tạo và tự rèn luyện đạo đức, lối sống.
- Thực hiện đầy đủ quy định về việc khám sức khoẻ khi mới nhập học và
khám sức khoẻ định kỳ trong thời gian học tập theo quy định của nhà trường.

- Đóng học phí đúng thời hạn theo quy định.
- Tham gia lao động và hoạt động xã hội, hoạt động bảo vệ môi trường
phù hợp với năng lực và sức khoẻ theo yêu cầu của nhà trường.
- Chấp hành nghĩa vụ làm việc có thời hạn theo sự điều động của Nhà
nước khi được hưởng học bổng, chi phí đào tạo do Nhà nước cấp hoặc do
nước ngoài tài trợ theo Hiệp định ký kết với Nhà nước, nếu không chấp
hành phải bồi hồn học bổng, chi phí đào tạo theo quy định.
- Tham gia phòng, chống tiêu cực, gian lận trong học tập, thi cử và các
hoạt động khác của sinh viên, cán bộ, giáo viên; kịp thời báo cáo với khoa,
phòng chức năng, Hiệu trưởng nhà trường hoặc các cơ quan có thẩm quyền
khi phát hiện những hành vi tiêu cực, gian lận trong học tập, thi cử hoặc
những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy, quy chế khác của sinh
viên, cán bộ, giáo viên trong trường.
- Tham gia phòng chống tội phạm, tệ nạn ma tuý, mại dâm và các tệ
nạn xã hội khác.
* Các hành vi sinh viên không được làm:
- Xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể nhà giáo, cán bộ,
nhân viên nhà trường và học sinh, sinh viên khác.
- Gian lận trong học tập như: quay cóp, mang tài liệu vào phòng thi, xin
điểm; học, thi, thực tập, trực hộ người khác hoặc nhờ người khác học, thi, thực
tập, trực hộ; sao chép, nhờ hoặc làm hộ tiểu luận, đồ án, khoá luận tốt nghiệp;
tổ chức hoặc tham gia tổ chức thi hộ hoặc các hành vi gian lận khác.
- Hút thuốc, uống rượu, bia trong giờ học; say rượu, bia khi đến lớp.
- Gây rối an ninh, trật tự trong trường hoặc nơi công cộng.
2


- Tham gia đua xe hoặc cổ vũ đua xe trái phép.
- Đánh bạc dưới mọi hình thức.
- Sản xuất, buôn bán, vận chuyển, phát tán, tàng trữ, sử dụng hoặc lơi

kéo người khác sử dụng vũ khí, chất nổ, các chất ma tuý, các loại hoá chất
cấm sử dụng, các tài liệu, ấn phẩm, thông tin phản động, đồi trụy và các tài
liệu cấm khác theo quy định của Nhà nước; tổ chức, tham gia, truyền bá các
hoạt động mê tín dị đoan, các hoạt động tơn giáo trong nhà trường và các
hành vi vi phạm đạo đức khác.
- Thành lập, tham gia các hoạt động mang tính chất chính trị trái pháp
luật; tổ chức, tham gia các hoạt động tập thể mang danh nghĩa nhà trường
khi chưa được Hiệu trưởng cho phép [6].
d. Vị trí, vai trị của sinh viên trong quá trình đào tạo:
Sinh viên là nhân vật trung tâm trong các học viện đại học, các
trường đại học, cao đẳng. Trọng tâm hoạt động của bộ máy chính quyền,
các tổ chức Đảng, Đồn, Hội Sinh viên trong nhà trường dưới sự chỉ đạo
của Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với sự phối hợp chặt chẽ của các Ban,
Ngành ở trung ương, của các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương đều
hướng vào nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất của các trường là giáo dục,
rèn luyện sinh viên.
Công tác sinh viên trong các trường đào tạo là một trong những công
tác trọng tâm của Hiệu trưởng nhà trường. Hiệu trưởng các trường đào tạo
chịu trách nhiệm tất cả các khâu trong công tác sinh viên, tạo điều kiện để
sinh viên thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.
Làm tốt cơng tác sinh viên có ý nghĩa tiên quyết đối với việc thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ của nhà trường.
1.2.3. Quản lý sinh viên
Khái niệm về quản lý sinh viên:
Quản lý sinh viên là cách thức tác động (tổ chức, điều khiển, chỉ
huy) hợp quy luật của chủ thể quản lý (ở đây gồm có nhà trường, gia đình,
2


xã hội, trong đó vai trị nhà trường là quan trọng nhất) đến sinh viên trong

và ngoài trường học làm cho nhà trường vận hành đạt hiệu quả mong muốn
và đạt được các mục tiêu đề ra.
Công tác quản lý sinh viên, dưới khía cạnh là những phương diện
hoạt động cơng ích của nhà trường nhằm quản lý, tư vấn, hướng dẫn, trợ
giúp sinh viên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong q trình học tập
tại trường.
Cơng tác quản lý sinh viên bao gồm tất cả tiện ích do nhà trường
cung cấp nhằm tạo điều kiện cho sinh viên thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình từ khi trúng tuyển vào trường cho đến khi ra trường; từ hoạt động học
tập của sinh viên cho đến hoạt động rèn luyện đạo đức, nhân cách, thể chất;
từ việc sinh viên thực hiện những quy định bắt buộc cho đến việc chủ động,
tích cực thực hiện trong điều kiện cho phép sinh viên lựa chọn, yêu cầu.
1.2.4. Đào tạo theo học chế tín chỉ
Khái niệm đào tạo: là các hoạt động truyền tải thông tin, dữ liệu từ
người ngày (giảng viên hoặc huấn luyện viên) sang người khác (học viên),
kết quả có sự thay đổi về kiến thức, kỹ năng và thái độ từ mức độ thấp đến
mức độ cao hơn.
1.2.4.1. Tín chỉ và đào tạo theo hệ thống tín chỉ
1.2.4.1.1. Tín chỉ và học phần
a) Tín chỉ:
Tín chỉ (credit) là đơn vị căn bản để đo khối lượng kiến thức và đánh
giá kết quả học tập của sinh viên. Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết
học lý thuyết; 30 - 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 - 90 giờ
thực tập tại cơ sở; 45 - 60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá
luận tốt nghiệp.
Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp
thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.

2



Tùy từng trường mà số tiết, số giờ học đối với từng học phần được quy
định riêng nhằm phù hợp với đặc điểm của trường.
Đối với những chương trình, khối lượng của từng học phần đã được tính
theo đơn vị học trình thì 1,5 đơn vị học trình được quy đổi thành 1 tín chỉ.
Người ta thường chia ra 2 loại tín chỉ: Tín chỉ học tập và Tín chỉ học phí.
Tín chỉ học tập là đơn vị quy chuẩn để lượng hoá khối lượng kiến thức
và khối lượng học tập, giảng dạy trong quy trình đào tạo. Tín chỉ học tập
cũng là đơn vị để đo lường tiến độ học tập của sinh viên. [17]
Tín chỉ học phí là đơn vị dùng để lượng hố chi phí hoạt động giảng
dạy, học tập tính cho từng học phần (kể cả học phần Giáo dục thể chất và
Giáo dục quốc phòng). Học phí được xác định căn cứ theo số học phần, loại
học phần của ngành học mà sinh viên được xếp thời khoá biểu trong học kỳ
và bằng tổng số tín chỉ học phí của các học phần nhân với mức tiền học phí
của tín chỉ học phí. Hệ số tín chỉ học phí cho các loại học phần, ngành học
do Hiệu trưởng quy định [17, Đ2].
b) Học phần:
Là khối lượng kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho sinh viên
tích luỹ trong q trình học tập. Học phần có khối lượng kiến thức từ 2 đến
5 tín chỉ, nội dung được bố trí giảng dạy trọn vẹn và phân bố đều trong 1
học kỳ. Kiến thức trong mỗi học phần phải gắn với một mức trình độ theo
năm học thiết kế và được kết cấu như một phần của môn học hoặc dưới
dạng tổ hợp từ nhiều môn học [14].
Hoạt động dạy - học một học phần gồm một hay kết hợp một số trong
các hình thức: lý thuyết, thực hành, bài tập, thí nghiệm, thực tập, tiểu luận,
đồ án, khố luận tốt nghiệp.
Học phần có mã số riêng và số tín chỉ xác định. Mỗi học phần đều có đề
cương chi tiết. Đề cương chi tiết học phần được Hội đồng khoa học và đào tạo
khoa phê duyệt và cơng bố cùng chương trình đào tạo, được giảng viên phụ trách
học phần thông báo cho sinh viên trong buổi học đầu tiên của học phần [17].

2


Có 2 loại học phần chính là học phần bắt buộc và học phần tự chọn, cụ
thể:
- Học phần bắt buộc là học phần trong chương trình đào tạo chứa đựng
những nội dung chính yếu của ngành và chuyên ngành đào tạo mà sinh viên
bắt buộc phải hoàn thành đạt yêu cầu để được xét công nhận tốt nghiệp.
- Học phần tự chọn (nhóm học phần tự chọn) là học phần trong
chương trình đào tạo chứa đựng những nội dung cần thiết cho định hướng
nghề nghiệp mà sinh viên có thể lựa chọn đăng ký học. Để đủ điều kiện
công nhận tốt nghiệp, sinh viên phải hoàn thành đạt yêu cầu một số học
phần nhất định để tích luỹ đủ số tín chỉ tối thiểu. Nếu khơng đạt học phần tự
chọn nào đó, sinh viên có quyền chọn đăng ký học lại học phần đó hoặc học
phần khác cùng nhóm [17].
Ngồi ra cịn có các loại học phần thay thế, học phần tiên quyết, học
phần học trước.
- Học phần thay thế là học phần được sử dụng khi một học phần có
trong chương trình đào tạo nhưng nay khơng cịn tổ chức giảng dạy nữa và
được thay thế bằng học phần khác đang tổ chức giảng dạy.
Học phần thay thế do khoa chuyên ngành đề xuất có thể được áp
dụng cho các khoá, ngành hoặc áp dụng hạn chế cho một số khoá, ngành.
- Học phần tiên quyết: Học phần A là học phần tiên quyết đối với học
phần B, khi đăng ký học phần B sinh viên phải tích luỹ đạt học phần A.
- Học phần học trước: Học phần A là học phần học trước của học
phần B, khi đăng ký học học phần B sinh viên phải được xác nhận học xong
học phần A (có thể chưa đạt). [17]
1.2.4.1.2. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ
a) Sơ lược về lịch sử đào tạo theo học chế tín chỉ trên thế giới và ở
Việt Nam:

Xuất phát từ đòi hỏi quy trình đào tạo phải tổ chức sao cho mỗi sinh
viên có thể tìm được cách học thích hợp nhất cho mình, đồng thời trường
2


đại học phải nhanh chóng thích nghi và đáp ứng được những nhu cầu của
thực tiễn cuộc sống, vào năm 1872 Charle Eliot - Viện trưởng Viện Đại học
Harvard đã đề xuất một quy trình đào tạo mới gọi là giải pháp mơ đun hố
các mơn học được cung cấp trong trường đại học để sinh viên có thể lựa
chọn một tổ hợp mơn học thích hợp nhằm cấu thành một chương trình đào
tạo để có thể nhận được văn bằng tốt nghiệp, mở ra hình thức đào tạo theo
phương pháp tín chỉ.
Vào đầu thế kỷ XX, học chế tín chỉ được áp dụng rộng rãi hầu như
trong mọi trường đại học ở Hoa Kỳ. Tại Trung Quốc, từ cuối thập niên 80
(thế kỷ XX) đến nay, hệ thống học chế tín chỉ cũng lần lượt được áp dụng ở
nhiều trường đại học. Ở Châu Âu, năm 1999 Tuyên ngôn Boglona được đề
xướng. Nội dung quan trọng là triển khai áp dụng học chế tín chỉ trong tồn
hệ thống giáo dục đại học nhằm tạo thuận lợi cho việc cơ động, liên thông
hoạt động học tập của sinh viên trong khu vực Châu Âu và trên thế giới. Đến
nay, Tuyên ngôn đã được ký bởi Bộ trưởng của 45 nền giáo dục đại học.
Ở Việt Nam, trước khi thống nhất nước nhà một số trường đại học ở
miền Nam chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Hoa Kỳ đã áp dụng đào tạo
theo hệ thống tín chỉ như: Viện Đại học Cần Thơ (nay là Đại học Cần Thơ),
Viện đại học Thủ Đức...
Từ năm 1993, học chế tín chỉ đã được thực hiện ở Trường Đại học
Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó là các trường Đại học Khoa học
Tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Xây dựng Hà Nội, Đại học
Bách khoa Đà Nẵng, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh,
Đại học Thăng Long Hà Nội, Đại học Đà Lạt, Đại học Thủy sản Nha Trang,
Đại học Cần Thơ... Ở Trường Đại học Vinh, việc chuyển sang đào tạo theo

học chế tín chỉ bắt đầu thực hiện từ học kỳ II năm học 2007 – 2008, đến nay
mới chỉ diễn ra trên thực tế 2 năm (2008, 2009), đã đem lại một số hiệu quả
nhất định trong công tác giáo dục, đào tạo.
b) Đặc điểm của học chế tín chỉ
2


* Đặc điểm chung:
- Hệ thống tín chỉ cho phép sinh viên đạt được văn bằng đại học qua
việc tích luỹ các loại tri thức giáo dục khác nhau được đo lường bằng một
đơn vị xác định, căn cứ trên khối lượng lao động học tập trung bình của
một sinh viên, gọi là tín chỉ. Để đạt bằng cử nhân sinh viên thường phải tích
luỹ đủ 120 - 136 tín chỉ (Hoa Kỳ), 120 - 135 tín chỉ (Nhật Bản), 120 - 150
tín chỉ (Thái Lan), v.v... Để đạt bằng thạc sĩ học viên phải tích luỹ 30 - 36
tín chỉ (Mỹ), 30 tín chỉ (Nhật Bản), 36 tín chỉ (Thái Lan)...
Ở Châu Âu, người ta quy ước khối lượng lao động học tập ước chừng
của một sinh viên chính quy trung bình trong một năm học được tính bằng
60 tín chỉ.
- Khi tổ chức giảng dạy theo tín chỉ, đầu mỗi học kỳ, sinh viên được
đăng ký các môn học thích hợp với năng lực và hồn cảnh của họ và phù
hợp với quy định chung nhằm đạt được kiến thức theo một chun mơn
chính nào đó. Sự lựa chọn các mơn học rất rộng rãi, sinh viên có thể ghi tên
học các mơn liên ngành nếu họ thích. Sinh viên không chỉ giới hạn học các
môn chuyên môn của mình mà cịn cần học các mơn học khác lĩnh vực,
chẳng hạn sinh viên các ngành khoa học tự nhiên và kỹ thuật vẫn cần phải
học một ít mơn khoa học xã hội, nhân văn và ngược lại.
- Về việc đánh giá kết quả học tập, hệ thống tín chỉ dùng cách đánh
giá thường xuyên, và dựa vào sự đánh giá đó đối với các mơn học tích luỹ
được để cấp bằng cử nhân. Đối với các chương trình đào tạo sau đại học,
ngoài các kết quả đánh giá thường xun cịn có các kỳ thi tổng hợp và các

luận văn.
* Các ưu điểm của học chế tín chỉ:
Học chế tín chỉ được truyền bá nhanh chóng và áp dụng rộng rãi nhờ
có nhiều ưu điểm. Có thể tóm tắt các ưu điểm chính của nó như sau:
- Thứ nhất, có hiệu quả đào tạo cao:

2



×