Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN quan điểm chính sách của nhà nước về tôn giáo tín ngưỡng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.5 KB, 23 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ TƠN
GIÁO TÍN NGƯỠNG

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

2

I.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƠN GIÁO TÍN
NGƯỠNG

2


1.1.

Khái niệm tín ngưỡng tơn giáo

2

1.2.
II.

Đặc điểm của tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam
QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ TƠN
GIÁO, TÍN GƯỠNG
Quan điểm khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận căn bản để Đảng, Nhà nước
Việt Nam xây dưng các quan điểm, chính sách về tín ngưỡng,
tơn giáo
Sự phát triển trong quan điểm, chính sách tín ngưỡng, tơn giáo
của Đảng, Nhà nước Việt Nam

4

2.1.

2.2.

9
9

12


KẾT LUẬN

20

TÀI LIỆU THAM KHẢO

21


MỞ ĐẦU
Tơn giáo, tín ngưỡng tơn giáo ln là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp,
vì nó liên quan dến lĩnh vực đời sống tâm lý, đời sống tâm linh của con người.
Nước ta là một quốc gia đa tơn giáo, tín ngưỡng tơn giáo lại mang tính quần
chúng phổ biến nên tín ngưỡng tơn giáo đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến
đời sống tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Chính vì thế, trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam ln xác định vấn
đề tín ngưỡng tơn giáo và cơng tác tơn giáo là vấn đề chính trị quan trọng, quan
hệ đến sự phát triển của đất nước, đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
của các tầng lớp nhân dân. Cũng như những lĩnh vực khác của xã hội, đời sống
tôn giáo hiện nay đang diễn ra rất sơi động, vì vậy nghiên cứu để hiểu sâu sắc từ
đó có đường lối, biện pháp đối xử với nó một cách đúng đắn ln là vấn đề thời
sự. Đáp ứng yêu cầu này, không chỉ trong Đại hội đại biểu lần thứ IX, mà Đảng
ta đã có hẳn một nghị quyết chuyên đề, nghị quyết trung ương 7 chỉ đạo, giải
quyết vấn đề tín ngưỡng tơn giáo trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão,
khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và tưởng chừng con
người cùng với khoa học có thể giải thích được mọi vấn đề của tự nhiên, xã hội,
tư duy mà không cần viện dẫn thần linh. Nhưng thực tế đang có nhiều vấn đề
diễn mà chúng ta chưa giải đáp được. Trong những năm vừa qua, nhu cầu tín
ngưỡng tơn giáo của nhân dân ta có xu hướng gia tăng, hoạt động của các tổ

chức tôn giáo tiếp tục diễn ra phức tạp, các thế lực thù địch ln lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta ngày càng thâm độc. Tất cả
những tác động đó đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội của nhân dân
ta và ngày càng gia tăng trong tình hình hiện nay. Do đó, nghiên cứu vấn đề
“Quan điểm chính sách của Nhà nước về tơn giáo tín ngưỡng” làm đề tài tiểu
luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

3


NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÔN GIÁO TÍN NGƯỠNG
1.1. Khái niệm tín ngưỡng tơn giáo
Tín ngưỡng tôn giáo và tôn giáo là những hiện tượng cùng bản chất
nhưng cũng có sự khác nhau nhất định.
Tín ngưỡng tơn giáo nếu định nghĩa một cách duy danh thì “tín” là lịng
tin, niềm tin. “ngưỡng” là sự “ngưỡng mộ”, “ngưỡng vọng” [9, tr.128], là hướng
vào một cái gì đó. Tín ngưỡng là lịng tin, và sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng vào
một cái gì đó. Tín ngưỡng tơn giáo là lòng tin và sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng
vào một lực lượng siêu nhiên, thần bí. Lực lượng siêu nhiên này mang hình thức
trừu tượng như: Trời, Phật, Thần thánh … có sức mạnh hư ảo, vơ hình có thể tác
động đến đời sống của con người, được người ta tin là có thật và được người ta
tơn thờ.
Xét về mặt lịch sử, tôn giáo đầu tiên xuất hiện dưới dạng các tín ngưỡng
ngun thủy. Những hình thức tín ngưỡng ngun thủy biểu hiện phong phú, đa
dạng ở các thị tộc, bộ lạc nguyên thủy, nhưng chúng đều ở cùng một trình độ là
lịng tin vào sự tồn tại của lực lượng siêu nhiên thần bí là có thật, lực lượng này
có sức mạnh thần bí, hư ảo, vơ hình có thể tác động đến đời sống tâm linh của
con người và được người ta tôn thờ. Quan niệm về lực lượng siêu nhiên ở đây có
thể đã mang hình thức trừu tượng, thậm chí cũng đã hình thành những lễ nghi

trong quan hệ với lực lượng siêu nhiên đó, nhưng chưa được lý giải, chưa được
hệ thống hóa thành hệ thống quan niệm về nó.
Tơn giáo, nếu hiểu một cách chặt chẽ, là một hiện tượng xã hội mang tính
lịch sử bao gồm hệ thống ý thức tôn giáo, tổ chức và các hoạt động tôn giáo.
Hệ thống ý thức tơn giáo là tồn bộ những quan niệm về lực lượng siêu
nhiên, sự tồn tại, sức mạnh huyền bí của họ đã được khái quát, được hệ thống
hóa thành hệ thống và những niềm tin, tình cảm tơn giáo được hình thành trên
cơ sở những quan niệm đó.
Như vậy, tơn giáo với tư cách là hiện tượng xã hội, xét chỉ về phương
diện ý thức tơn giáo, nó đã đạt đến trình độ cao hơn, trình độ khái qt hóa, trình
4


độ hệ thống hóa. Ngồi ra tơn giáo cịn bao gồm hệ thống cơ cấu, cơ chế để duy
trì, điều hành mọi hoạt động của tôn giáo như: các tổ chức giáo hội, hệ thống các
nhà tu hành, các nhà quản lý trong các giáo hội, các cơ sở vật chất để duy trì,
thực hành, phát triển các hoạt động tơn giáo và những tín đồ tơn giáo, những
người tự nguyện tuân theo các giáo lý, giáo luật, giáo lễ, chịu sự quản lý, hướng
dẫn về mặt tín ngưỡng của giáo hội.
Xét về mặt lịch sử, tôn giáo với tư cách là tôn giáo ( theo nghĩa chặt chẽ
của khái niệm ) chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến trình độ
nhất định, tư duy của con người đã đạt đến trình độ có khả năng khái quát, chắt
lọc để hình thành các “biểu tượng” như: “đấng tối cao”; “đấng sáng thế”; “thế
giới thần linh”.., xã hội đã tạo ra điều kiện vật chất để một lớp người có thể thốt
ly khỏi q trình sản xuất, chuyên hành nghề tôn giáo, chăm lo việc xây dựng
giáo lý, giáo luật, giáo lễ, tổ chức giáo hội thực hiện việc hành lễ và truyền bá
tôn giáo.
Về mặt pháp lý, để xác định một tơn giáo tồn tại chính thức trong xã hội,
người ta thường dựa vào các yếu tố: có một hệ thống giáo lý, giáo luật, giáo lễ;
có một hệ thống cơ cấu tổ chức bao gồm các nhà tu hành, các nhà quản lý các

giáo phận từ cơ sở trở lên ( điều này các tôn giáo cụ thể có khác nhau ), hệ thống
cơ sở vật chất để duy trì, thực hành các hoạt động tôn giáo như : nhà thờ của
Kitô giáo, chùa của Phật giáo, thánh đường của Hồi giáo, thánh thất của đạo Cao
Đài…, các tu viện, các trường đào tạo các nhà tu hành, có những tín đồ tự
nguyện tn theo giáo lý, giáo luật, giáo lễ, chụi sự quản lý, hướng dẫn về mặt
tín ngưỡng của giáo hội.
Giữa tín ngưỡng tơn giáo và tơn giáo có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi
tơn giáo đều được hình thành trên cơ sở một tín ngưỡng tơn giáo nhất định,
khơng có tín ngưỡng tơn giáo thì khơng có tơn giáo nào cả. Tín ngưỡng tơn giáo
xét về bản chất cũng là tơn giáo, nhưng là tôn giáo chưa phải theo nghĩa đầy đủ,
chặt chẽ của khái niệm này. Như ph. Ăngghen trong tác phẩm chống Đuy Rinh
đã viết: “Bất cứ tôn giáo nào cũng đều là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc
con người những sức mạnh bên ngồi chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ
5


là sự phản ánh mà trong đó sức mạnh ở thế gian đã mang hình thức siêu thế
gian” [1, tr.345]. Ở đây tín ngưỡng tơn giáo là hạt nhân của ý thức tôn giáo, là
yếu tố ban đầu của sự hình thành tơn giáo. Nói như thế khơng có nghĩa là khi tơn
giáo với tính cách là tơn giáo ra đời thì các hình thức sơ khai, tín ngưỡng ngun
thủy khơng cịn tồn tại nữa, mà trong thực tế đời sống tâm linh vô cùng phức
tạp, bên cạnh những tôn giáo vẫn tồn tại những tín ngưỡng hoặc tàn dư của
những tín ngưỡng nguyên thủy, hoặc là sự pha trộn của các tín ngưỡng ngun
thủy với các tơn giáo để hình thành nên một tín ngưỡng tơn giáo mới.
1.2. Đặc điểm của tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam
Một là, Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tơn giáo.
Việt Nam là một đất nước tuy đất không rộng, người khơng đơng, nhưng
đã và đang tồn tại nhiều loại hình tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau. Ở Việt Nam
có thể tìm thấy tất cả các hình thức tín ngưỡng ngun thủy dã từng có mặt trên
thế giới như:Tơ tem giáo, Bái vật giáo, Ma thuật giáo, Vật linh giáo, Sa man

giáo. Những hình thức tín ngưỡng tơn giáo ngun thủy này ở Việt Nam thể hiện
hết sức phong phú và rộng khắp. Ở Việt Nam vùng nào cũng có đền thờ những
vị anh hùng dân tộc, những người có cơng với dân với nước. Trong phạm vi dân
tộc có đền Hùng, đền những người anh hùng có cơng đánh giặc giữ nước và cứu
nước như đền thờ Lý Thường Kiệt, đền thờ Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn,
đền thờ Lê Lợi, Nguyễn Trãi... Trong từng làng, xã thờ thành hoàng làng, trong
dịng họ thờ ơng bà, tổ tiên, những người đã khuất. Ngoài ra trong xã hội cồn tồn
tại rất nhiều các hình thức tín ngưỡng khác nữa. Ví dụ, các đối tượng của tự
nhiên cũng đước sùng bái thần thánh để thờ, cay đa, cây gạo, hịn đá, khúc
sơng… cũng có thể trở thành vật linh thiêng. Có lẽ người Việt Nam ai cũng biết
những câu như “thần cây đa ma cây đề”, rồi “sơn thần”, “thủy thần”, “bà chúa
thượng ngàn”…
Bên cạnh các hình thức tín ngưỡng tơn giáo đa dạng, phong phú, ở Việt
Nam còn tồn tại nhiều tôn giáo với tư cách là tôn giáo. Trong số các tơn giáo này
có các tơn giáo là tơn giáo lớn thế giới được du nhập vào Việt nam nước ta với
những thời gian khác nhau. Chẳng hạn Phật giáo từ Ấn Độ được du nhập vào
6


nước ta khoảng thế kỷ thứ hai sau công nguyên, Khổng giáo, Đạo giáo từ Trung
Quốc được truyền vào nước ta cũng rất sớm, đạo Thiên chúa từ Phương Tây
đến, Hồi giáo, dù là Chăm Bàni hay Chăm Ixlam thì cũng không phải gốc Chăm,
mà đến Việt Nam theo con đường thông qua Người Ấn Độ và Người Mã Lai.
Bên cạnh những tơn giáo ngoại nhập, ở Việt Nam cịn có các tơn giáo nội sinh,
tức là các tơn giáo này được hình thành từ chính mảnh đất Việt Nam, đó là Đạo
Cao Đài và Đạo Hịa Hảo, ra đời vào những năm đầu của thế kỷ XX.
Trên đây là những hình thức tín ngưỡng tơn giáo phổ biến ở nước ta, trong
đó có những hính thức tín ngưỡng tơn giáo có số lượng tín đồ khá đơng, ảnh
hưởng trong phạm vi cả nước, nhưng cũng có những hình thức tơn giáo số lượng
tìn đồ ít hơn, phạm vi ảnh hưởng chỉ một vùng. Có các hình thức tín ngưỡng, tôn

giáo tồn tại cả trong dân tộc đa số và trong các dân tộc thiểu số, lại có những
hình thức tín ngưỡng tơn giáo chỉ có ở một tộc người nào đó. Ngồi những tơn
giáo trên ở Việt Nam cịn xuất hiện những hình thức tơn giáo ra đời trong những
thời gian khác nhau, nhưng thời gian tồn tại ngắn, phạm vi ảnh hưởng nhỏ nữa
như: Đạo Dừa, Đạo Ngồi…
Hai là, tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt nam mang tính quần chúng phổ biến ,
nhưng chủ yếu ở cấp độ tâm lý tơn giáo.
Ở Việt Nam, khơng chỉ những tín đồ tôn giáo, mà một bộ phận không nhỏ
quần chúng nhân dân có những tình cảm, tâm trạng, niềm tin gắn với tín ngưỡng
mang tính chất tơn giáo, mặc dù trong thực tế họ khơng theo tơn giáo nào. Tín
ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam mang tính phổ biến như thế, song chủ yếu ở cấp độ
tâm lý. Nhiều tín đồ tôn giáo tuy khá sùng đạo nhưng hiểu giáo lý rất ít, thậm
chí ra nhập vào hàng ngũ tín đồ chỉ là do sự xác tín, do sự lan truyền tâm lý,
hoặc do một sự vận động lôi kéo nào đó. Khơng mấy phật tử hiểu rõ, hiểu đúng
nội dung “quy y tam bảo”, “giải thoát” và những tư tưởng cơ bản khác của nhà
Phật, không nhiều con chiên hiểu được thực chất các “bí tích” và tư tưởng chính
của kinh “Cựu ước” và “Tân ước”, ngồi những điều tiếp nhận được qua sự
truyền giảng của linh mục.
7


Đối với một bộ phận khá lớn quần chúng nhân dân, tơn giáo chủ yếu
thuộc về lĩnh vực tình cảm, đó là niềm tin mang tính chất truyền thống. Nó như
là một cái gì tự nhiên, như một bộ phận tiềm ẩn của tâm linh, một sự nương tựa,
một hy vọng giải thốt. Nó như một màn sương mờ ảo bao phủ đời sống tinh
thần của nhiều thế hệ người Việt Nam.
Với nội dung như vậy, cần đưa vào khi trình bày đặc điểm cơ bản của tín
ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam, bởi lẽ đặc điểm này nói nên phạm vi và trình độ
tác động của tín ngưỡng tơn giáo đối với xã hội.
Ba là, tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam mang tính chất đan xen, hồ đồng.

Khác với Phương Tây và nhiều nước khác, ở Việt Nam khơng có tơn giáo
nào thống trị suốt chiều dài lịch sử, mà vị trí, vai trị của từng tơn giáo cũng biến
động qua các thời đại cùng với sự biến động của lịch sử. Như trên đã thấy, Việt
Nam nhiều hình thức tín ngưỡng tơn giáo tồn tại, thậm chí có những tơn giáo
cóa giáo lý, lễ nghi, cơ cấu tổ chức… khác nhau, nhưng hàng trăm năm qua về
cơ bản khơng có sự kỳ dị tơn giáo, càng khơng có sự xung đột vì lý do dị biệt
tơn giáo, mà các tơn giáo cùng tồn tại hịa bình bên cạnh nhau, hòa hợp với nhau
cùng tồn tại. Thực tế cho thấy ở nhiều làng quê Việt Nam chùa là nơi thờ Phật và
nhà thờ là nơi thờ chúa trời của đạo thiên chúa tồn tại bên cạnh nhau, ngày Phật
Đản, ngày Nôen là ngày vui chung của cả “lương và giáo”. Trong một khơng
gian có thể cùng hiện diện của nhiều tôn giáo như: chùa, nhà thờ, miếu, am,
thánh thất …
Trong lịch sử, có những cuộc tranh luận trên bóa chí hoặc dưới hình thức
này hay hình thức khác xung quanh giáo lý của Phật giáo và Thiên chúa giáo
vào những năm 30 của thế kỷ XX, nhưng không vì thế mà sự dị biệt tơn giáo trở
thành lý do để kỳ thị hay khinh miệt nhau. Hoặc ở một số thời điểm lịch sử, giữa
các tôn giáo cũng xảy ra sự bất hòa ở một số nơi, nhưng chỉ xảy ra trong phạm
vi hẹp và xung đột không lớn. Những sự xung đột này thực chất không phải từ
lý do tôn giáo, mà do âm mưu của bọn thực dân xâm lược, chúng muốn chia rẽ
khối cộng đồng dân tộc để làm yếu lực lượng cách mạng.
8


Tính chất đan xen, hịa đồng của tín ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam thể hiện
khá phong phú đa dạng và khá độc đáo. Đó là sự đan xen hịa đồng giữa các tơn
giáo với tính cách là tơn giáo với các tín ngưỡng dân gian, tơn giáo ngun thủy.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này trong các ngơi chùa của Việt Nam. Chùa dúng
ra là nơi thờ Phật, nhưng ở Việt Nam trên bàn thờ Phật ngoài Phật còn thờ cả các
thần tự nhiên, các thần thánh trong tín ngưỡng đân gian như: Pháp Vân, Pháp
Vũ, Pháp Lơi… Ngay cả, Thiên chúa giáo, Hồi giáo là những tôn giáo độc thần,

trong quan niệm của họ chỉ thờ chúa trời, thờ thánh Ala, nếu thờ các thánh thần
khác bị coi là tà đạo, thì ở Việt Nam tìn đồ của đạo Thiên chúa và đạo Hồi cịn
thờ cả ơng bà tổ tiên, một hình thức tín ngưỡng phổ biến.
Sự đan xen, hịa đồng của tín ngưỡng tơn giáo Việt Nam còn thể hiện rõ ở
sự đan xen, hòa đồng giữa các tôn giáo. Ở Việt Nam từ rất lâu đạo Nho, đạo Phật
và đạo Lão đã gắn kết với nhau tạo thành “tam giáo đồng nguyên”. Trong ngôi
chùa Phật giáo Đức Phật vui vẻ cùng ngồi huởng lộc với Đức Khổng Tử và Lão
Tử. Khơng chỉ có vậy, trong chùa cịn thờ cả các thánh thần của các tơn giáo
khác: Thổ công, Táo quân, Nam tào Bắc đẩu. Ngay cả Hồi giáo ở Việt Nam, ảnh
hưởng của đạo Bàlamôn cũng rất đậm nét.
Sự đan xen, hịa đồng của tín ngưỡng tơn giáo Việt Nam cịn thể hiện rõ ở
sự đan xen, hòa đồng giữa quan hệ, hoạt động của các tín đồ, các chức sắc tơn
giáo. Ở Việt Nam những người trong cùng một dòng họ, cùng huyết thống về
mặt xã hội, nhưng lại có thể là tín đồ của các tơn giáo khác nhau. Các tín đồ
trong niềm tin của mình, ngồi biểu tương tơn giáo mà họ theo, người ta còn tin
vào cả ma, quỷ, các biểu tượng của các tín ngưỡng tơn giáo khác. Trong hành lễ
cũng thể hiện sự đan xen, hịa đồng, ví dụ ông sư, ngoài tụng kinh gõ mõ theo
chức năng của mình, cịn tham gia cả những hoạt động của thầy Pháp sư. Ơng sư
khơng chỉ biết kinh Phật mà có thể còn biết cả “Tứ thư”, “Ngũ kinh”.
Như vậy, ở Việt Nam khơng có tơn giáo nào có giáo lý cứng nhắc và cũng
khơng có tơn giáo nào giữ vị trí thống trị trong suốt chiều dài lịch sử. Trên thực
tế, thế giới quan, nhân sinh quan của các tôn giáo khơng những khơng thống
nhất mà cịn mâu thuẫn nhau, nhưng chung sống hịa bình bên nhau, đan xen,
9


hòa đồng, bổ sung, nương dựa, xâm nhập vào nhau, tạo nên diện mạo khá độc
đáo của bức tranh tín ngưỡng tơn giáo Việt Nam.
Bốn là, tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt nam mang tính ưu trội yếu tố nữ.
Ở nước ta, hình tượng người phụ nữ xâm nhập và nổi bật trong tất cả các

hình thức tơn giáo. Điều đó phản ánh tình cảm và sự đánh giá cơng bằng của
nhân dân về vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Tính ưu trội yếu tố nữ trong
tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam thể hiện rất đa dạng. Nó thể hiện trước hết trong
tín ngưỡng thờ mẫu. Tín ngưỡng thờ mẫulà hình thức tín ngưỡng khá phổ biến
trong hệ thống tín ngưỡng tơn giáo Việt Nam. Dọc chiều dài đất nước đền thờ
mẫu nơi nào cũng có, với các hình thức rất đa dạng. Có mẫu là thần thiên nhiên
như: “Linh sơn thánh mẫu”, “Thánh mẫu thoải phủ”, “Thánh mẫu thượng ngàn”,
“Địa mẫu”, có mẫu là nhân thần, có mẫu là nhân vật có thật, lại có mẫu là nhân
vật huyền thoại.
Tính ưu trội yếu tố nữ trong tín ngưỡng tơn giáo Việt Nam cịn thể hiện
trong hệ thống thần thánh cũng là nữ và trong quan niệm về các phương thức thờ
cúngcủa các tôn giáo. Chúng ta biết rằng, trong hệ thống các thần thánh trong các
tín ngưỡng tôn giáo yếu tố nữ chiếm số lượng và giữ vai trò khá quan trọng.
Chẳng hạn các thần thiên nhiên chủ yếu là nữ như bà chúa dâu, bà chúa đậu, pháp
Vân... Trong các tôn giáo lớn cũng vậy. Trong chùa của Phật giáo có nhiều tượng
như: La Hán, Bồ Tát và các vị khác, trong lớp tượng đó nổi lên có Quan Âm Bồ
Tát. Ở các nước khác Bồ Tát có thể là nam, có thể là nữ, nhưng ở Việt Nam đó là
Phật bà. Sự tồn tại và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam gắn liền với sự xuất
hiện của tứ Pháp dưới dạng “bà” (pháp Vân, pháp Vũ, pháp Lôi, pháp Điện). Đạo
Thiên Chúa vốn chỉ thờ Đức Chúa Trời, nhưng khi vào Việt Nam, vai trò của Đức
mẹ Maria trở nên cực kỳ quan trọng. Trong các nhà thờ Thiên Chúa giáo, hình
tượng Maria chiếm ưu thế. Bà xuất hiện dưới các dạng khác nhau. Con chiên đến
với chúa chủ yếu thông qua “mẹ”. Mọi sự trông cậy đều thuộc về mẹ. Ngay cả
Hồi giáo, một tôn giáo được coi là tôn giáo xem thường phụ nữ nhất, trong giáo lý
của Hồi giáo người phụ nữ được coi là thực thể khơng hồn thiện, là thửa ruộng
10


khai khẩn của đàn ông, nhưng ở Việt Nam, những yếu tố nữ cũng vẫn giữ vai trò
quan trọng ở đây, nhất là ở khối Chăm Bani.

Trên đây là những đặc điểm của tín ngưỡng tơn giáo ở Việt nam theo
chúng tôi là cơ bản nhất. Mỗi đặc điểm phản ánh một mặt, một khía cạnh của tín
ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam, trong đó đặc điểm một và hai nói lên tính đa dạng,
phạm vi, mức độ tác động của tín ngưỡng tơn giáo trong đời sống tinh thần xã
hội ta, dặc điểm thứ ba nói lên tính phức tạp, cịn đặc điểm thứ tư nói lên tính
đặc thù của tín ngưỡng tơn giáo ở nước ta. Tổng hợp tất cả những đặc điểm ấy
cho thấy bức tranh tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam mang sắc thái đặc thù riêng
của nó.
II. QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ TƠN GIÁO,
TÍN GƯỠNG
2.1. Quan điểm khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận căn bản để Đảng, Nhà nước Việt Nam
xây dưng các quan điểm, chính sách về tín ngưỡng, tơn giáo
Các Nhà kinh điển Mác - Lênin không viết những tác phẩm chuyên biệt
bàn về vấn đề tơn giáo. Nhưng qua tồn bộ bác tác phẩm của mình, nhất là các
tác phẩm: “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen - Lời nói đầu”,
“Về vấn đề Do Thái, Luận cương về Phoiơbắc” của C.Mác, “Chống Đuyrinh,
Lút vích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” của Ph. Ăngghen,
“Chủ nghĩa xã hội và tơn giáo”; “Thái độ của đảng cơng nhân đơì với tôn giáo”;
“Chủ nghĩa duy vật chiến đấu” của V.I.Lênin, các ông đã thể hiện sự hơn hẳn so
với các nhà tư tưởng khác trong lịch sử khi luận giải một cách cơ bản, toàn diện,
hệ thống và rất đúng đắn khoa học về nguồn gốc, bản chất, chức năng, vai trị và
các mối quan hệ của tơn giáo với các hiện tượng xã hội khác. Từ quan điểm đuy
vật về lịch sử, C. Mác đã khẳng định: chính “… con người sáng tạo ra tôn giáo,
chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người” [2, tr.569]. Cho nên, tồn giáo là một
hiện tượng lịch sử, nó chỉ xuất hiện và tồn tại trong một giai đoạn nhất định, gắn
với những điểu kiện kinh tế, xã hội, nhận thức và tâm lý và nhất định nó sẽ mất
đi khi các điều kiện đó khơng cịn.
11



Trên cơ sỏ nguồn gốc của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra đúng
đắn bản chất, chức năng và vai trị của tơn giáo trong lịch sử. Từ quan niệm bản
chất của tôn giáo là sự phản ánh hự ảo thế giới khách quan vào trong đầu óc
những con người chưa tìm thấy mình hoặc tự đánh mất mình một lần nữa, chủ
nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra một cách toàn diện các chức năng của tơn giáo,
trong đó đặc biệt nhấn mạnh tính phức tạp của chức năng đền bù “hư ảo” của
tôn giáo. “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [10, tr.570] “Tôn giáo là thứ
rượu tinh thần, làm cho những người nô lệ của tư bản mất phẩm cách con
người” [10, tr.170]
Một trong những bộ phận quan trọng nhất trong tư tưỏng các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về tơn giáo là việc khẳng định tính tất yếu và
chỉ ra con đường, biện pháp đấu tranh khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của
tín ngưõng, tơn giáo một cách khoa học và cách mạng. Từ thực tiễn lịch sử và
trên cơ sở luận giải bản chất, chức năng, vai trị của tơn giáo, chủ nghĩa Mác Lênin đã đi đến kết luận: Con người khơng có một lối thốt nào khác... là khắc
phục một cách căn bản tất cả mọi quan niệm tôn giáo và quay trở về một cách
kiên quyết, thành thực không phải với Thượng đế mà với bản chất của mình.
Nhưng C.Mác và Ph.Ẳngghen, V.I.Lênin lại kiên quyết đấu tranh với những
quần điểm cực đoan, siêu hình muốn tun chiến với tơn giáo, dùng bạo lực
hành chính để xố bỏ tơn giáo. Các ơng ln luồn địi hỏi những người cộng sản
phải thật sự “bình tĩnh, kiên trì và nhẫn nại” trong cuộc đấu tranh chống những
ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng, tơn giáo phải gắn cuộc đấu tranh chống
những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo với cuộc đấu tranh giai cấp và không bao
giờ được đưa vấn đề tôn giáo lên hàng đầu của cuộc đấu tranh. Trong cuộc đấu
tranh chống những ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo, V.I.Lênin địi hỏi phải tuyên
truyền tư tưởng đoàn kết và đưa khoa học vào trong cuộc đấu tranh ấy.
Những quan điểm tư tưởng trên đây của chủ nghĩa Mác - Lênin về tín
ngưỡng, tơn giáo đã, đang và sẽ luôn là cơ sở nền tảng cho Đảng, Nhà nước ta
nhận thức và giải quyết vấn đề tơn giáo trong tồn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

12


Vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin vào hồn cảnh cụ thể của
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng nên hệ thống quan điểm về tơn
giáo rất độc đáo và sáng tạo, góp phần to lớn vào thắng lợi của cơng tác tơn giáo
nói riêng và cách mạng Việt Nam nói chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem xét rất
tồn diện, lịch sử cụ thể vấn đề tôn giáo, tin ngưỡng, Tôn giáo được Người xem
xét dưới cả góc độ: văn hóa, triết học và đạo đức. Người viết: Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, lồi ngưịi mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tơn giáo... Tồn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Và tuy tơn giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật;
nhưng theo Người, trong đạo đức tơn giáo “Cái gì tốt thì ta nên khơi phục và
phát triển, cịn cái gì xấu, thì ta phải bỏ đi” [6, tr.557]
Đồng thời Người rất tôn trọng, khâm phục tinh thần hy sinh cao cả của
những ngưịi sáng lập ra Kitơ giáo và Phật giáo. Người viết: Phật, Chúa trịi,
Khổng tử là những vị chí tơn, Đức Phật là đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn muốn
cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn. Người phải hy sinh tranh đấu diệt lũ ác ma,
Chúa Cơ đốc hy sinh để cứu lồi người khỏi ách nơ lệ và đưa lồi người về hạnh
phúc, bình đẳng, bác ái, tự do. Người mạnh dạn dự đoán: “Nếu đức Chúa Giêsu
sinh ra vào thời đại của chúng ta và phải đặt mình trước nỗi khổ đau của người,
đương thời, chắc ngài sẽ là một người xã hội chủ nghĩa đi tìm con đường cứu
khổ cho lồi người” [7, tr.405].
Một trong những tư tưỏng đặc sắc và một đóng góp to lớn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh vào phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo là đã
xác định: Mục đích cao nhất, nội dung xuyên suốt của công tác tôn giáo là giữ
vững tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết lương, giáo, đồn kết
giữa đồng hào các tơn giáo khác nhau, làm cho “Nước vinh đạo sáng”, “Tốt đời,
đẹp đạo”, góp phần ngày càng to lớn vào kháng chiến, kiến quốc. Cho nên, ngay
cả những lúc vận mệnh của cách mạng như “ngàn cân treo sợi tóc”, Người vẫn

xác định một trong sau nhiệm vụ cấp bách đầu tiên mà Chỉnh phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa phải thực hiện là: Tín ngưỡng tự do, lương giáo đồn kết. Để xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương, giáo, Người đã chỉ ra sự đồng
13


thuận giữa mục tiêu của cách mạng với mục đích của những người sáng lập tôn
giáo. Nay đồng bào ta... kháng chiến để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn... là chúng
ta làm theo lòng đại từ, đại bi của đức Phật Thích Ca. Những việc Chính phủ và
nhân dân ta làm, đều hợp với tinh thần Phúc âm. Từ đó đã cùng Đảng ta lãnh
đạo, chỉ đạo tồn dân ta làm hết sức mình, kể cả hy sinh xương máu để giữ gìn
sự đồn kết đó; đồng thịi phê phán sâu sắc cách nhìn thiển cận trong xây dựng
khối đoàn kết lương, giáo.
Như vậy, nhờ quán triệt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học những
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cùng sự thấu hiểu sâu sắc lịch sử, văn hóa
xã hội và con người Việt Nam đã giúp Hồ Chí Minh sáng tạo nên những tư
tưởng vô cùng độc đáo về tôn giáo, mang đậm phong cách, bản sắc Việt Nam,
phù hợp với cách nghĩ, cách làm của toàn thể dân tộc Việt Nam và trong đó có
đồng bào có đạo. Cho nên, những quan điểm, chính sách độc đáo về tơn giáo ấy,
sẽ mãi mãi là nền tảng tư tưỏng để Đảng, Nhà nước ta tiếp tục nhận thức đúng
đắn và xử lý sáng tạo vấn đề tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện hay.
2.2. Sự phát triển trong quan điểm, chính sách tín ngưỡng, tơn giáo
của Đảng, Nhà nước Việt Nam
2.2.1. Quan điểm, chủ trương về tín ngưỡng, tơn giáo của Đảng, Nhà
nước Việt Nam
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về tự do tín
ngưỡng, tơn giáo và đoàn kết dân tộc qua các thời kỳ cách mạng, trong công
cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều chủ trương về tín ngưỡng, tơn giáo
và công tác tôn giáo. Nghị quyết số 24/NQ-TW, ngày 16-10-1990, của Bộ Chính

trị khóa VI “Về tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình hình mới” đã nêu hai
luận điểm mang tính đột phá: “Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân” và “Tôn giáo có những giá trị văn hóa, đạo đức phù hợp
với chế độ mới”. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, Đảng ta đã thơng
qua Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12-3-2003, “Về công tác tôn giáo”. Đại hội
XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về
14


tín ngưỡng, tơn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị
văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tơn giáo, chức
sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho cơng cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo
sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công
nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết
đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để mê hoặc, chia rẽ,
phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc” [11, tr.245]
Tất cả các chỉ thị, nghị quyết, pháp lệnh nêu trên đều thể hiện nhất quán
một số quan điểm và chính sách sau đây:
* Về phương hướng: Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai
đoạn mới phải nhằm tăng cường đồn kết đồng bào các tơn giáo trong khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
* Về quan điểm, chính sách
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc khơng theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình

thường theo đúng pháp luật. Các tơn giáo hoạt động trong khn khổ pháp luật,
bình đẳng trước pháp luật.
Hai là, Nhà nước thực hiện nhất qn chính sách đại đồn kết dân tộc,
khơng phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo. Đồng bào các tơn giáo là
bộ phận của khối đại đồn kết tồn dân tộc.
Các tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, hoạt động trong khn khổ
pháp luật. Đồn kết đồng bào theo các tơn giáo khác nhau; đồn kết đồng bào
theo tơn giáo và đồng bào khơng theo tơn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá
trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tơn vinh những người có cơng với
15


Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với cơng dân vì lý do tín
ngưỡng, tơn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt
động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích
động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm chủ quyền, an
ninh quốc gia.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tơn giáo với sự nghiệp chung. Mọi
cơng dân khơng phân biệt tín ngưỡng, tơn giáo đều có quyền, nghĩa vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào nêu
cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc thơng qua
việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm
lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các
tơn giáo.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Nước ta hiện nay có hàng chục triệu tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của các tôn

giáo, phân bổ ở mọi vùng, miền, địa phương trong cả nước. Vì vậy, cơng tác tơn
giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và nhiều cấp, nhiều
ngành.
Làm tốt công tác tơn giáo là trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là
lực lượng tham mưu nòng cốt. Tổ chức bộ máy làm cơng tác tơn giáo cần được
củng cố, kiện tồn, nhất là ở những địa bàn trọng điểm có đơng đồng bào tôn
giáo. Công tác tôn giáo thực chất là công tác vận động quần chúng.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật.
16


Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận, hoạt động theo pháp luật
và được pháp luật bảo hộ, được mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất
bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tơn giáo,.. của mình
theo đúng quy định của pháp luật.
Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt
động mê tín dị đoan, khơng được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các
tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi
phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Như vậy, quan điểm, chính sách của Đảng ta về tôn giáo là rõ ràng, nhất
quán, đảm bảo quyền tự do, dân chủ. Trong khi đó, hiện nay, có những cá nhân,
tổ chức trong và ngoài nước vẫn cho rằng ở Việt Nam người dân khơng có
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo. Từ đó, chúng dùng nhiều thủ đoạn để kích
động đồng bào có đạo gây rối, chống phá cách mạng, rơi vào âm mưu “diễn biến
hồ bình” vơ cùng thâm độc của chúng. Đó là những luận điệu sai lầm, xun
tạc chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước ta cũng như xun tạc tình hình tơn

giáo và các hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện nay mà chúng ta cần kiên quyết
bác bỏ.
2.2.2. Nhân thức mới trong quan điểm, chính sách của Đảng ta về tơn
giáo trong thời kỳ đổi mới
* Thừa nhận tính tất yếu và khả năng tồn tại lâu dài của tôn giáo trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự phát triển nhận thức mang tính đột
phá về tơn giáo của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới
Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đánh dấu bước
khởi đầu sự nghiệp đổi mối toàn diện đất nước, nhưng do nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân là: “So với đổi mới tư duy kinh tế, việc đổi mới tư duy
về các vấn để văn hoá và xã hội, về cơ chế quản lý văn hố, xã hội... cịn chậm”
[3, tr.114], nên mãi tới năm 1990 chúng ta mới có Nghị quyết số 24-NQ/TW
ngày 16-10-1990 của Bộ Ghính trị về tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình
hình mới. Nghị quyết có nhiều nội dung, một trong những nội dung đó là việc
17


Đảng ta khẳng định: “Tơn giáo là vấn để cịn tồn tại lâu dài. Tín ngưởng, tơn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Sau 13 năm thực hiện, kế
thừa tinh thần ấy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
khoá IX khẳng định: Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Quan điểm trên chỉ rõ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta việc tồn tại của tín ngưỡng, tơn giáo là một thực tế khách quan. Nó là
nhu cầu tinh thần phức tạp, tồn tại thật trong một bộ phận quần chúng nhân dân.
Tôn trọng và đáp ứng nhu cầu này là tôn trọng quyền con người là tạo nên động
lực của một bộ phận nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Khẳng định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trinh xây dựng chủ nghĩa xã hội là một đột

phá lốn trong nhận thức về tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Nó góp phần đấu tranh khắc phục tư tưởng coi tơn giáo chỉ như một hiện tượng
tàn dư, còn rơi rớt lại từ các xã hội cũ, cần nhanh chóng loại bỏ càng sớm càng
tốt, hoặc quan niệm coi tôn giáo là sản phẩm chủ yếu từ các hoạt động chống phá
của kẻ thù, dẫn đến nóng vội chủ quan duy tâm, duy ý chí trong cơng tác tơn giáo
của khơng ít cán bộ, đảng viên hiện nay. Đây sẽ là cơ sở nền tảng để hình thành,
phát triển các quan điểm, giải pháp mới về tôn giáo vầ công tác tôn giáo.
* Trong thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước ta xem xét, đánh giá tín ngưỡng,
tơn giáo tồn diện, lích sử, cụ thể hơn
Xem xét tơn giáo một cách tồn diện, trong mối quan hệ phong phú đa
dạng của nó với các lĩnh vực khác của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội làm cơ sở xác định quan điểm, chính sách đối với tơn giáo là một truyền
thống của Đảng, Nhà nước ta. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục
coi trọng xem xét, đánh giá tôn giáo trong sự thống nhất biện chứng giữa ý thức
tôn giáo, tổ chức tôn giáo và các hoạt động tôn giáo. Bằng tổ chức, hoạt động
tôn giáo và thông qua tổ chức, hoạt động tôn giáo mà sức mạnh và vai trị của
tơn giáo đối với xã hội và con người được thực hiện. Vì thế, các “hoạt động tín
18


ngưỡng, tơn giáo phải bảo đảm an tồn, tiết kiệm, phù hợp với truyền thơng, bản
sắc văn hố dân tộc, giữ gìn, bảo vệ mơi trường” [11, tr.114] và có mục tiêu,
phương hướng, nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tơn giáo trong khối đại
đồn kết tồn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh. Đồng thời khẳng định Mọi hoạt động tôn giáo xa rời hoặc trái
với mục tiêu, phương hướng ấy cần được đấu tranh, phê phán, thậm chí phải
kiên quyết “đình chỉ”. Đây là một căn cứ cơ bản để xây dựng các văn bản pháp
luật quản lý, điều chỉnh các hoạt động tôn giáo và là tiêu chí quan trọng đánh giá

hiệu quả hoạt động của công tác tôn giáo trong thời kỳ mới. Cho nên, có thể coi
đây là một trong những nội dung quan trọng nhất, thể hiện sự đổi mới tư duy của
Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
* Đảng, Nhà nước ta từng bước khẳng định những “hạt” tích cực trong
đạo đức, văn hố, cộng đồng tơn giáo và tạo điều kiện giữ gìn, phát huy những
giá trị tích cực ấy vào xây dưng xã hội mới
Nhận thức sâu sắc vấn đề trên, trong Nghị quyết số 24/NQ- TW của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khoá VI, Đảng ta đã nhận định: “Đạo đức
tơn giáo có nhiều điều phù hợp với cơng cuộc xây dựng xã hội mới” [3, tr.45].
Và tiếp theo các kỳ Đại hội, cho đến Đại hội X và Đại hội XI, Đảng ta chỉ rõ:
“Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu,
có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, các tơn giáo”, “Phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo” [4, tr.45], đến Đại hội XIII
Đảng ta tiếp tục khẳng định: Xây dựng nếp sống văn hoá tiến bộ, văn minh, nhất
là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận
động văn hoá, phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hố” [8,
tr.11]. Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hố giữa thành thị và
nơng thơn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội. Phát huy các giá trị,
nhân tố tích cực trong văn hố tơn giáo, tín ngưỡng.
19


Quan điểm trên đây của Đảng ta là nguồn động lực to lớn, tạo nên niềm
phấn khởi, cổ vũ đồng bào các tơn giáo, nhất là các tín đồ, chức sắc tiến bộ, tích
cực tham gia vào phong trào thi đua yêu nước, xây dựng các cộng đồng tôn giáo
ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, “sống tốt đời, đẹp đạo”.
* Trong thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước ta xác định: Nội dung cốt lõi của
công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng
Cái mới trong nhận thức của Đảng, Nhà nước ta về công tác tôn giáo
trong thời kỳ mới, chính là việc nhấn mạnh vị trí, vai trị “cốt lõi” của cơng tác

vận động quần chúng trong cơng tác tơn giáo. Điều này là hồn tồn đứng đắn
cả về lý luận và thực tiễn.
Công tác tôn giáo bao gồm nhiều hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực tuỳ cách
tiếp cận, mục đích nghiên cứu có thể chia thành các dạng, loại khác nhau có thể
xem cơng tác tơn giáo gồm ba mặt hoạt động chính là: quản lý nhà nước về tôn
giáo, đấu tranh chống địch lợi dụng tơn giáo và cơng tác vận động quần chúng,
trọng đó công tác vận động quần chúng phải là nội dung: cốt lõi là cơ sở nền
tảng chi phối định hướng cho các mặt công tác khác. “Công tác quản lý nhà
nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống
đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng” [8, tr.5].
Bởi vì, cơng tác tơn giáo trước hết là cơng tác đối với con người, vì con người.
Mục đích cao nhất của nó là phải cùng các hoạt động khác góp phần thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Nên mn
giành thắng lợi, nâng cao chất lượng, hiệu quả nó phải: “trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân
tin”[5, tr.122].
Một nhiệm vụ rất quan trọng của công tác tôn giáo là phải: Tạo điều kiện
cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và pháp luật của
Nhà nước. Trong khi khẳng định nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công
tác vận động quần chúng, Đảng, Nhà nước ta không bao giờ coi công tác tôn
giáo chỉ duy nhất là công tác vận động quần chúng. Ngược lại, trong điều kiện
mới, nhất là khi các thế lực thù địch đang tăng cường lợi dụng tôn giáo để chống
20


phá cách mạng, thì cơng tác quản lý nhà nước về tôn giáo và công tác đấu tranh
chống địch lợi dụng tôn giáo chống chế độ cần được đặc biệt coi trọng, nhằm
kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề
“dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tơn giáo” hịng can thiệp vào công việc
nội bộ... của Việt Nam.

Đây là một nội dung thể hiện ở tầm quan điểm, lập trường, chi phối cả
mục đích, đối tượng, phương thức, biện pháp hoạt động của tồn bộ cơng tác tơn
giáo. Nó vừa thể hiện một cách nhìn tồn diện, hệ thống nhưng vẫn phát hiện
đúng nội dung cơ bản chủ yếu, một cách làm đồng bộ nhưng có trọng tâm, trọng
điểm; vừa khắc phục được cách nhìn, cách lầm phiến diện, chung chung trừu
tượng đối với công tác tôn giáo, trong thời kỳ mới.

21


KẾT LUẬN
Tín ngưỡng, tơn giáo là vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm. Vì vậy, việc đề ra
chính sách và thực hiện chính sách đối với tín ngưỡng, tơn giáo là vấn đề khó
khăn, phức tạp, phải hết sức thận trọng. Do vậy, yêu cầu đặt ra là Đảng và Nhà
nước phải dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và căn cứ vào những đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam để đề ra các chủ
trương, chính sách đối với cơng tác tín ngưỡng, tơn giáo. Xác định rõ vai trị của
tôn giáo trong đời sống xã hội, thừa nhận tôn giáo là một hiện tượng xã hội còn
tồn tại lâu dài, đồng thời tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Những
vấn đề tôn giáo cần gắn liền với quá trình vận động cách mạng, cải biến xã hội
và nâng cao nhận thức quần chúng. Đồng thời, để khắc phục những yếu tố tiêu
cực của tôn giáo, cần quan tâm đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, coi
trọng tuyên truyền, vận động giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng, phương
pháp luận khoa học cho quần chúng nhân dân và các tín đồ. Nội dung cốt lõi của
công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Đồng bào có đạo hay khơng
có đạo đều là cơng dân Việt Nam, có quyền và nghĩa vụ bình đẳng như nhau
trước pháp luật.

22



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và P. Ăngnghen (1994), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia
- sự thật, Hà Nội.
2. C. Mác và P. Ăngnghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc
gia - sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - sự thật,
Hà Nội.
7. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia - sự thật,
Hà Nội.
8. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16-10-1990 của Bộ Ghính trị.
9. Trung tâm ngơn ngữ học, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1994.
10. V.I Lênin (2005), Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - sự thật,
Hà Nội.
11. Đặng Nghiêm Vạn, Lý luận về tơn giáo và tình hình tơn giáo ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, 2003.

23



×