Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KCN KCX VÀ CÁC CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KCN KCX Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.95 KB, 23 trang )

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI
CÁC KCN KCX VÀ CÁC CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC
VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KCN
KCX Ở VIỆT NAM
1. Những vấn đề nảy sinh khi nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX
không được giải quyết.
Sự ra đời của các KCN, KCX tại bất kỳ một quốc gia nào cũng thường có
một xu hướng chung là sẽ thu hút một lượng lao động khá lớn, đặc biệt là lao
động trẻ từ các địa phương khác, mà chủ yếu là các vùng nông thôn, các quốc
gia dư thừa lao động khác. Nhu cầu thu hút lao động bình quân đối với các
KCN, KCX khoảng từ 100-150 lao động/ ha đất xây dựng công nghiệp, chưa
kể số lao động phụ trợ ăn theo. Khi xây dựng một KCN 100-200 ha sẽ hình
thành nên một đô thị mới khoảng 10.000 đến 30.000 lao động. Nếu tính thêm
số lao động phụ trợ và ăn theo có thể lên đến 20.000 - 40.000 người, tương
đương đô thị loại năm. Như vậy khi xem xét sự hình thành xây dựng KCN,
KCX không chỉ phải tập trung giải quyết vấn đề xây dựng nhà xưởng mà còn
phải chú ý đến vấn đề phát triển nhà cho công nhân cũng như vấn đề hạ tầng
cơ sở có liên quan (Bộ xây dựng 2007).
Chính vì sự gia tăng của các KCN, KCX kéo theo sự gia tăng của một số
lượng lao động và những người ăn theo cao như vậy cho nên nếu vấn đề nhà ở
cho công nhân không được giải quyết thì hậu quả tất yếu nảy sinh sẽ là:
Thứ nhất, công nhân sẽ làm việc không năng suất. Vì điều kiện sinh hoạt
(nhà ở) của công nhân ảnh hưởng lớn đến khả năng tái tạo sức lao động của
công nhân và qua đó ảnh hưởng đến năng suất lao động và sự phát triển bền
vững của doanh nghiệp cũng như của KCN, KCX. Ta có thể lấy một ví dụ như
tại Đài Loan thuộc Trung Quốc, tình trạng lạm dụng tình dục một cách nghiêm
trọng xảy ra thường xuyên, nhất là đối với nữ công nhân trẻ còn độc thân.
Nhiều nữ công nhân tầm tuổi 19 muốn làm việc tại các quán bar karaoke nơi
họ bị lạm dụng tình dục nhưng ít nhất mức lương của họ nhận được là NT
$30.000 (US$ 1.170/ tháng, tỷ giá NT 25,924/US$ 1), là mức thu nhập cao hơn
làm trong nhà máy. Các KCX đã góp phần tạo nên “sự thần kỳ kinh tế” của


Đài Loan. Tuy nhiên kể từ thập kỷ 80, với sự gia tăng chi phí nhân công và giá
đất, khả năng cạnh tranh của Đài Loan đã bị giảm sút. Kể từ năm 1984, nhiều
nhà máy trong các KCX đã chuyển sang hoạt động tại các quốc gia khác. Điều
kiện sinh hoạt của công nhân ảnh hưởng tới năng suất lao động bởi vì nếu điều
kiện ăn ở kém sẽ ảnh hưởng tới sức khoẻ của công nhân qua các yếu tố như:
thiếu ngủ, thiếu phương tiện đi lại và thời gian nghỉ ngơi, điều kiện vệ sinh,
nước uống kém. Nếu thường xuyên như vậy thì tình trạng này hàng ngày ảnh
hưởng tới sức khoẻ của công nhân, đặc biệt là nữ công nhân – là lực lượng lao
động chính của các KCN, KCX. Họ là những công nhân sản xuất, do đặc thù
công việc mà họ phải làm việc khoảng 10-12 tiếng trong một ngày và có khi
còn phải làm ca đêm. Hơn nữa ngoài thời gian làm việc họ lại còn phải chăm
sóc gia đình, con cái dẫn đến họ thường xuyên đi làm muộn hoặc phải nghỉ
làm. Nếu có thể đi làm thì họ cũng không thể cho năng suất cao và khả năng
an toàn lao động bị giảm.
Thứ hai, do không có chỗ ở ổn định nên đời sống của công nhân rất bấp
bênh, nay đây mai đó, điều này làm cho doanh nghiệp có thể thiếu lao động,
đặc biệt là lao động lành nghề. Rất nhiều công nhân khi được hỏi đã trả lời:
“vấn đề chính của chúng tôi là chúng tôi không có nhà riêng, nếu người chủ
căn hộ mà chúng tôi đang ở trở về thì chúng tôi sẽ phải chuyển đi. Nếu chúng
tôi được vay mua nhà hoặc được cấp nhà của Nhà nước thì tình hình sẽ tốt
hơn. Nếu không chúng tôi sẽ đành phải chuyển vào ở trong một văn phòng nhà
ở của thành phố cho tới khi họ cấp cho chúng tôi một căn hộ”.
Như vậy sự ổn định lao động tại các KCN, KCX có thể bị ảnh hưởng do
điều kiện sinh hoạt tồi tệ của công nhân. Phần lớn công nhân họ đều biết rằng
họ có quyền được sinh hoạt trong điều kiện tốt và do vậy bắt đầu nêu vấn đề
này cho các cơ quan có liên quan và các cơ quan thông tin đại chúng. Nếu
doanh nghiệp và nhà nước không khắc phục hay giải quyết tình trạng này thì
có thể sẽ dẫn đến khả năng xảy ra xung đột.
Thứ ba, Nhiều vấn đề xã hội phát sinh trong quá trình làm việc như: tranh
chấp lao động với người sử dụng lao động, biểu tình, bãi công… trong khoảng

thời gian từ năm 1987-1992, tại Đài Loan hơn 30.000 công nhân làm việc tại
các KCX đã mất việc làm. Tình trạng biểu tình ngồi của công nhân đòi các
khoản bồi thường mà họ có quyền được hưởng xảy ra thường xuyên sau khi
các nhà máy đóng cửa. Khi chi phí nhân công gia tăng, các công ty còn tiếp
tục hoạt động đều tìm cách đối phó.
Cũng như vậy tại Sri Lanka nhiều cuộc đình công xảy ra do tranh chấp
giữa công nhân và người sử dụng lao động về vấn đề nhà ở. Các vấn đề xã hội
phát sinh trong quá trình này rất khó giải quyết.
Thứ tư, ảnh hưởng trực tiếp tới người sử dụng lao động cũng như sự phát
triển của các KCN, KCX. Khi điều kiện tối thiểu là nhà ở cho công nhân làm
việc không được đáp ứng thì những phúc lợi xã hội mà công nhân lẽ ra được
hưởng cũng không thể hoặc là khó có thể được hưởng theo. Mặt khác các nhà
đầu tư nước ngoài đều coi phúc lợi của công nhân là một điều kiện để họ tham
gia đầu tư và thực hiện các giao dịch, điều này dựa trên cơ sở tiêu chuẩn thế
giới về phúc lợi của công nhân, nhất là đối với các nước ở thế giới thứ ba, khi
điều kiện làm việc của công nhân còn tồi tàn, lao động dễ bị bóc lột, giá nhân
công rẻ mạt…
Thứ năm, do đặc điểm lao động tại các KCN, KCX là phần lớn trẻ và
chưa lập gia đình. Khi làm việc tại các KCN, KCX hiện nay, với điều kiện vật
chất chưa đầy đủ, đặc biệt lại chưa có nhà để ở ổn định thì việc kết hôn, lập gia
đình đối với họ là vấn đề không tưởng. Điều này cũng ảnh hưởng đến tâm lý
của các cá nhân, đồng thời cũng tạo nhiều vấn đề xã hội đặc biệt là đối với phụ
nữ như tình trạng bị lạm dụng tình dục hoặc phải thôi việc để đi lấy chồng khi
đã đến hoặc quá tuổi.
Tất cả đều tạo ra một hình ảnh không tốt đẹp gì trong mắt các nhà đầu tư
tiềm năng đối với các KCN, KCX. Vì vậy có thể dòng đầu tư vào các KCN,
KCX này sẽ giảm đi trong tương lai, do vậy ảnh hưởng đến sự phát triển lâu
dài và bền vững của các KCN.
2. Tình hình nhà ở của công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam.
Tại Việt Nam thời gian qua, các KCN, KCX hầu hết là không có hoặc có

cũng không đảm bảo nhà ở cho công nhân của mình. Chúng ta có thể tìm hiểu
một số thông tin thông qua bài báo dưới đây được đưa tin nhanh tại VnEpress
về tình hình nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam:
Trên 90% khu công nghiệp không có nhà trọ công nhân
Trong 130 khu công nghiệp, khu chế xuất hiện có trên cả nước, chỉ khoảng 7% đơn vị xây nhà cho
công nhân thuê. Và cũng chưa có tỉnh, thành phố nào ban hành chính sách phát triển nhà ở cho lao động
ở các khu này.
Ông Đặng Như Lợi, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, đã đưa ra các con số trên
tại buổi tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, tổ chức tại tỉnh
Long An, sáng nay.
Ông Lợi cho hay, hiện cả nước có khoảng 860.000 công nhân, phần lớn là người ngoại tỉnh làm việc
trong các khu chế xuất, khu công nghiệp. Nhưng ngay cả tỉnh phát triển mạnh về các khu công nghiệp như
Đồng Nai cũng chỉ đảm bảo được chỗ ở cho 6,5% người lao động. Còn TP HCM mới dừng ở mức 4%. “Có lẽ
do hầu hết các khu công nghiệp chỉ lo làm sao tạo ra lợi nhuận chứ không hề chú trọng đến việc lo nơi ăn chốn
ở của công nhân, những người trực tiếp làm ra của cải cho họ", ông Lợi nhìn nhận.
Cũng theo ông Lợi, do không được lo chỗ ở, công nhân đành phải tự tìm chỗ trọ cho mình. Với mức
lương trung bình từ 800.000 đến 1 triệu đồng/tháng, họ chỉ dám bỏ ra 100.000 đồng để thuê nhà trọ, nên hầu
hết chỗ ở đều dưới mức tối thiểu. “Đó là chưa kể đến việc công nhân thường phải trả tiền điện, tiền nước gấp
đôi giá Nhà nước… Công nhân trong các khu công nghiệp đang bị bóc lột đủ thứ”, ông Lợi xót xa.
Trao đổi với VnExpress bên lề hội nghị, ông Trịnh Huy Thục, Cục trưởng Cục quản lý nhà, Bộ Xây
dựng, cho biết, Chính phủ đã ban hành Luật Nhà ở, quy định điều kiện tối thiểu về nhà ở đối với người lao
động. Ngoài ra, Quy chế nhà trọ công nhân cũng yêu cầu đảm bảo cho người lao động được ở trong những
ngôi nhà với điều kiện tối thiểu về diện tích (3m2/người), có cây xanh, ô thoáng…
Tuy nhiên, theo ông Thục, để giải quyết nhà ở cho công nhân theo luật định cần có lộ trình. Với các
khu công nghiệp sắp hình thành, Chính phủ mà đại diện trực tiếp là các bộ ngành, UBND các tỉnh thành phải
quán triệt chặt chẽ việc đảm bảo có chỗ ở cho công nhân. “Tất cả các cơ quan chức năng đều cần phải vào
cuộc. Xây nhà trọ công nhân thì được miễn thuế sử dụng đất và nhiều ưu đãi khác, không có lý do gì để các
nhà đầu tư từ chối xây dựng nhà ở cho người lao động làm việc cho mình”, ông Thục nói.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc thừa nhận yếu kém của bộ này trong việc lo chỗ ở và
môi trường sống của hàng chục nghìn công nhân tại các khu công nghiệp trong suốt 15 năm qua. Ông Phúc

cho rằng nếu giải quyết được vấn đề đời sống, nơi ăn chốn ở, chế độ bảo hiểm xã hội… cho công nhân thì
chắc chắn người lao động sẽ yên tâm cống hiến sức lao động của mình chứ không xảy ra đình công như thời
gian gần đây.
Ông Phúc cho biết, trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch Đầu tư sẽ chỉ đạo các khu công nghiệp, khu chế
xuất toàn quốc chú trọng đến việc yêu cầu các nhà đầu tư cam kết xây dựng nhà cho công nhân. “Chúng tôi sẽ
cùng các bộ liên quan kiểm tra và xử lý các tỉnh không thực hiện tốt chính sách về nhà ở theo đúng Luật xây
dựng và Luật nhà ở mà nhà nước ban hành”, ông Phúc khẳng định.
Hải Ngọc
Theo VnEpress đưa tin ngày 14/7/2006
Sự phát triển của các KCN, KCX ở Việt Nam thời gian qua tạo sự thu
hút mạnh về lao động và kích thích sự tăng cầu về nhà ở.
Tính đến nay tại Việt Nam đã có rất nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đầu
tư vào các KCN, KCX, tỷ lệ đầu tư này ngày càng gia tăng đặc biệt là tại các
thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh…
Trong 10 tháng đầu năm 2007, cả nước có 13 dự án đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng KCN được cấp giấy chứng nhận đầu tư, thành lập mới 10 KCN và
mở rộng 3 KCN với tổng diện tích đạt 1569 ha. Tính đến nay, cả nước đã có
154 KCN thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 32.808 ha trong đó diện tích
đất công nghiệp có thể thuê đạt 21.775 ha, chiếm 66% tổng diện tích đất tự
nhiên. Có 92 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 20.758
ha và 62 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng
cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên 12.073 ha.
Riêng ở Hà Nội, theo số liệu thống kê năm 2005, đã có 13 quốc gia và
vùng lãnh thổ đầu tư vào các KCN, KCX ở Hà Nội với tổng dự án là 102, tổng
số vốn đăng ký trên 1.25 tỷ USD. Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất với 55 dự
án, Singapore có 8 dự án, Hàn Quốc có 7 dự án đầu tư vào KCN Hà Nội.
Quá trình đầu tư vào mở rộng phát triển và thu hút mạnh đầu tư vào các
KCN, KCX ở Việt Nam tạo ra sức hút về lao động làm việc tại các khu này,
gồm đội ngũ công nhân, cán bộ kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ và cán bộ quản
lý…Đa số người lao động tại các KCN, KCX hiện là người trẻ tuổi, lao động

nữ là lực lượng chính trong các KCN, KCX tuổi từ 18-35.
Lực lượng lao động ngoại tỉnh từ các địa phương di cư tới các đô thị và
KCN hầu hết đều chỉ được ở trong các ngôi nhà tạm bợ, thuê trọ nhà do dân cư
tự phát xây lên với những điều kiện sinh hoạt tối thiểu là tồi tàn và thiếu thốn.
Cùng lắm là được ở trong các ngôi nhà dạng ký túc xá cũng trật trội và ẩm
thấp điều kiện văn hoá tinh thần gần như không có gì.
Không chỉ những lao động ở tỉnh lẻ hoặc ở ngoại tỉnh di cư tới là có nhu
cầu về nhà ở mà những người dân sống tại địa bàn tỉnh – nơi có các KCN,
KCX cũng có nhu cầu về nhà ở gần với KCN, KCX hay vì một số lý do cá
nhân khác mà họ cũng có nhu cầu ra ở riêng gần với nơi làm việc cho thuận
tiện đi lại và phù hợp với đặc thù công việc mà họ đang làm.
Từ những lý do trên mà ta thấy cầu về nhà ở tại Việt Nam ngày càng gia
tăng cùng với sự tăng lên của các KCN, KCX. Hiện nay, chưa có một KCN,
KCX nào ở Việt Nam giải quyết tốt vấn đề nhà ở cho công nhân của mình để
tạo cho họ sự yên tâm, gắn bó với công việc của mình.
Cung về nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam hiện nay.
Cung về nhà ở cho công nhân ở các KCN, KCX tại Việt Nam hiện nay
chưa đáp ứng được phần lớn nhu cầu về nhà ở cho người lao động. Nhìn
chung lại là quy hoạch về nhà ở và các công trình kết cấu hạ tầng xã hội phục
vụ KCN, KCX chưa được quan tâm đúng mức. Đây hiện đang là tình trạng
khá phổ biến tại các KCN, KCX trên địa bàn cả nước. Hiện tại cung về nhà ở
cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam chưa đáp ứng được cả về số
lượng và chất lượng. Khi nhu cầu về nhà ở của người dân rất lớn thì họ phải
thuê những khu vực xung quanh, nơi dân cư làm nhà để cho thuê.
Vấn đề xây nhà ở xã hội đã được đặt ra từ rất sớm. Khi Luật Nhà ở được
Quốc hội thông qua vào ngày 29-11-2005, quyền lợi về nhà ở của những người
có thu nhập thấp được nhà nước xác nhận.
Ngay sau đó, vào năm 2006, Bộ Xây dựng đã trình đề án thí điểm xây
dựng nhà ở xã hội và chọn 3 địa phương có số lượng công nhân làm việc tại
các khu công nghiệp đông nhất là Hà Nội, TPHCM và Bình Dương để áp dụng

đề án trước tiên. Sau đó, đề án này sẽ được nhân rộng ra các địa phương trong
cả nước.
Theo báo cáo của các địa phương, trong giai đoạn 2006-2010 Hà Nội cần
xây dựng trên 110.000 căn hộ cho các đối tượng thu nhập thấp, còn TPHCM
cần khoảng 100.000 căn hộ thu nhập thấp và trên 50.000 chỗ ở tập thể cho
công nhân lao động. Đối với chính quyền địa phương đây quả là bài toán nan
giải vì các doanh nghiệp bất động sản vốn không "mặn mà" với chương trình
nhà ở xã hội vì thu lãi thấp mà rủi ro cao.
Ông Nguyễn Mạnh Hà, Cục trưởng Cục Quản lý nhà (Bộ Xây dựng) thừa
nhận từ khi Luật Nhà ở được đưa vào thực tế đến nay, tiến độ xây dựng quỹ
nhà ở xã hội còn rất chậm.
Một thống kê cụ thể từ Bộ Xây dựng cho thấy, 3 địa phương thực hiện thí
điểm chương trình nhà ở xã hội đều rất chậm trễ trong khi lượng công nhân đổ
về các địa phương trên ngày càng tăng nhanh.
Cụ thể, các doanh nghiệp đang hoạt động tại các khu công nghiệp trong
vùng đồng bằng sông Hồng hiện thu hút được 142.000 lao động trực tiếp từ
các khu công nghiệp Nomura (Hải Phòng), Hoà Xá (Nam Định), Nguyễn Đức
Cảnh, Quang Minh(Vĩnh Phúc), Thăng Long, Sài Đồng B và Khai Quang (Hà
Nội). Nhưng số lượng nhà ở đáp ứng được chỉ là 168 căn (trong 1.564 căn hộ
dự kiến) cho 1.700 công nhân thuê.
Tại Bình Dương, 21 khu công nghiệp với 149.000 lao động nhưng khu
công nghiệp đáp ứng được nhiều chỗ ở nhất cũng chỉ dừng lại con số 1.000
chỗ ở, và số khu công nghiệp như vậy rất ít ỏi. Riêng TP Hồ Chí Minh có số
lượng khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung nhiều nhất với 100 xí nghiệp
hoạt động trong 14 khu công nghiệp thu hút 210.000 lao động. Trong đó,
147.000 người có nhu cầu nhà trọ, nhưng chỉ có 4/15 khu công nghiệp, khu
chế xuất có nhà lưu trú cho công nhân.
Nhiều KCN-KCX thu hút đông lao động phổ thông, tay nghề, trình độ
thấp, mức thu nhập thấp, phải chi phí tiền thuê nhà, điện, nước nên anh chị em
công nhân càng khó khăn trong đời sống hàng ngày, chưa kể phải dành tiền đề

phòng ốm đau, gửi về giúp đỡ gia đình.
Các số liệu công bố gần đây của TP.HCM cho thấy, 70% lao động ở các
KCN thành phố là ngoại tỉnh. Chính vì thế nhu cầu nhà ở cho những lao động
này là rất lớn. Còn theo kết quả điều tra xã hội học của Trường đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn TP.Hồ Chí Minh, đa số lao động là những người trẻ
nhập cư, nên gặp nhiều khó khăn trong ổn định cuộc sống, nhất là về nhà ở.
Phần lớn họ phải thuê nhà dân vì không mấy doanh nghiệp có ký túc xá.
Kết quả điều tra cũng cho thấy 65,8% công nhân tại các KCN-KCX TP.Hồ
Chí Minh có nhu cầu nhà ở, song các doanh nghiệp chỉ mới đáp ứng được 4-
15%. Còn ở Bình Dương cũng mới đảm bảo nhà cho 15% số lao động (đáp ứng
cho khoảng 11.000 lao động), tỉnh Đồng Nai đảm bảo được 6,5% lao động (đáp
ứng được gần 9.000 lao động).
Tuy nhiên, do thuê nhà chật chội, công nhân làm việc vất vả đã khiến cho
họ không còn thời gian tiếp xúc với văn hóa. Theo khảo sát, 89,3% công nhân ở
các KCN cho rằng, nếu có các hoạt động văn hoá - văn nghệ, thể dục - thể thao
thì cũng chỉ diễn ra tại địa bàn cư trú và không phải ai cũng có điều kiện tham
gia. Còn tại nơi cư trú, số lượng thiết chế văn hóa, thể dục - thể thao lại quá ít ỏi
và nghèo nàn.
Qua thực tế ở hầu hết các KCN, KCX cho thấy, một tình trạng chung là
nhà ở cho công nhân thuê hầu hết là những dãy phòng trọ, nhà trọ, do người
dân xung quanh xây dựng một cách tự phát, tạm bợ, hầu hết các phòng chỉ
rộng từ 10-15m2, mái lợp fibro-xi măng, dột và ẩm thấp khi trời mưa, nóng
như lò nung vào mỗi đợt hè, điện nước thiếu thốn, không đảm bảo được ngay
cả những điều kiện sinh hoạt bình thường, lối đi lại thì chật hẹp, không hợp vệ
sinh, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không đáp ứng được yêu cầu, giá cả và thời
gian thuê nhà không được lâu dài và ổn định…Đa phần những nhà cho thuê
mới chỉ giải quyết được phần trước mắt là chỗ ngủ, còn lại chất lượng ở và các
công trình phục vụ sinh hoạt rất yếu kém, thực chất đây là các khu nhà lụp
xụp, giống như những khu nhà “ổ chuột”. Những người công nhân với điều
kiện sinh hoạt thiếu thốn, với số tiền ít ỏi, với giá cả đắt đỏ, buộc phải ở trong

những ngôi nhà như thế này gây rất nhiều khó khăn và ảnh hưởng xấu đến chất
lượng làm việc và khả năng tái sản xuất sức lao động của người công nhân.
Bên cạnh đó với tốc độ phát triển của những nhà ở kém chất lượng và không
đảm bảo được điều kiện sống tối thiểu đang gia tăng rất nhanh, tuy vậy nó vẫn
không đủ để đáp ứng được nhu cầu về nhà ở giá rẻ của công nhân cũng đang
gia tăng mạnh mẽ. Những người dân cho thuê nhà có diện tích đất chật hẹp,
không thể có khả năng mở rộng, hơn nữa họ cũng không thể đầu tư để xây
dựng được, chính vì vậy mà việc có nhà để thuê của đa phần người công nhân
là cực kỳ khó khăn, nhất là vào những thời kỳ mùa vụ, khi đồng loạt các nhà
máy tuyển thêm công nhân. Có những người công nhân phải đi xa chỗ làm
việc hơn 5-7 km mới mong thuê được nhà. Hơn thế nữa khi nhà ở khan hiếm
thế thì giá nhà lại ngày càng có xu hướng bị đẩy cao lên theo, khiến việc thuê
nhà của người lao động tại các KCN, KCX đã khó nay lại càng khó khăn hơn.

×