Nhà Hậu Lê
Công lao, thành tựu
Giống như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, nhà
Hậu Lê lên cầm quyền ở Việt Nam nhờ công đánh đuổi người phương
Bắc để giành lại nước. Nhưng khác với thế hệ trước, nhờ có cơ sở vững
chắc 470 năm liên tục (938-1407) do các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê -
Lý - Trần trước đó tạo dựng nên thành quả đánh ngoại xâm của nhà Hậu
Lê được giữ gìn trong thời gian dài. Nước Đại Việt thời nhà Hậu Lê tồn
tại được 360 năm (1428-1788).
Các vua đầu thời Lê như Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông đều là những
vị vua giỏi, đặc biệt là Thánh Tông, đã đưa Việt Nam tới thời hoàng kim
của chế độ phong kiến. Chẳng những có thành tựu về chính trị, kinh tế mà
cả giáo dục và nhất là quân sự khiến nước Đại Việt được mở mang tới
phía bắc Nam Trung Bộ. Cũng chính cuộc tấn công của vua Lê Thánh
Tông đánh dấu bước khởi đầu cho sự diệt vong của nước Chiêm Thành
mà các chúa Nguyễn sau này hoàn thành. Dù trong cung đình nhà Lê luôn
có biến, nhiều việc khuynh loát, tranh quyền xảy ra nhưng chính sách đối
nội, đối ngoại không thay đổi, đời sống nhân dân được đảm bảo nên nước
Đại Việt vẫn phát triển vững mạnh. Ngay thời Nhân Tông, dù vua còn
nhỏ và Nguyễn Thái hậu chấp chính nhưng vẫn không gây xáo trộn xã
hội, nhân dân không bị điêu đứng như thời Uy Mục, Tương Dực sau này.
Chính thống, ngụy triều
Lê Hiến Tông đã đúng khi chọn Túc Tông Thuần là người kế nghiệp
nhưng vua này lại yểu mệnh và có lẽ đó là bước ngoặt đầu tiên của nhà
Hậu Lê. Uy Mục tàn ác, Tương Dực xa hoa trụy lạc, Chiêu Tông thiếu
sáng suốt. Cả ba vua đều không đủ năng lực và quyền thần nổi lên nắm
quyền như một lẽ tất yếu khi đất nước có biến loạn. Nếu không có Mạc
Đăng Dung thì những quyền thần khác cũng làm điều tương tự, mà trong
đó Trịnh Duy Sản, Trịnh Tuy, Nguyễn Hoằng Dụ, Trần Chân là những
đại diện. Nhà Lê dài 350 năm nhưng thực tế chỉ tồn tại trong gần 100 năm
đầu.
Sau khi nhà Lê mất về tay nhà Mạc, vấn đề chính thống và ngụy triều nổ
ra trong cuộc đấu tranh giữa các tập đoàn và khi thế nam - bắc này chưa
chấm dứt hẳn thì thế nam - bắc khác lại hình thành. Cũng như thời Tam
Quốc trong lịch sử Trung Quốc, khi nhà Hán suy, các chư hầu nổi dậy
đều lấy danh nghĩa giúp nhà Hán; tại nước Đại Việt khi đó cả Trịnh và
Nguyễn đều danh nghĩa chống Mạc để giúp nhà Lê. Các vua Lê vẫn có
ngôi, có hiệu, có tên trong sử sách, nhưng chỉ ngồi làm vì. Trên thực tế
không chỉ 16 vua thời Lê trung hưng mà ngay từ khi Cung Hoàng được
lập, nhà Lê đã chỉ còn hư vị. Trịnh và Nguyễn cùng giương cờ “Phù Lê
diệt Mạc”, Tây Sơn giương cờ “Phù Lê diệt Trịnh”. Giáo sư sử học Văn
Tạo trong tạp chí "Nghiên cứu lịch sử" có bài viết “Nhà Mạc và vấn đề
ngụy triều”, trong đó nêu rõ: Mạc là ngụy công khai, Trịnh và Nguyễn là
ngụy giấu mặt. Việc vua Chiêu Thống đã lên ngôi thay vua Cảnh Hưng
năm 1786 nhưng Nguyễn Ánh, với danh nghĩa “phò Lê”, song vẫn nhất
định dùng niên hiệu Cảnh Hưng đến tận năm 1801 đủ cho thấy trong lòng
Ánh có nhà Lê hay không. Việc Nguyễn Ánh gửi gạo ra bắc giúp quân
Thanh thực ra là muốn thêm người đánh Tây Sơn chứ không thực bụng
giúp nhà Lê.
Nhà Lê chống ngoại xâm thành công mà trở thành nhà cầm quyền Đại
Việt nhưng kết cục, vua cuối cùng của nhà Lê là Lê Chiêu Thống lại
không giống những vua Việt Nam vì chống ngoại xâm thất bại mà phải
chết ở đất khách quê người như Hậu Lý Nam Đế, Khúc Thừa Mỹ, Hồ
Quý Ly, Hồ Hán Thương, Trần Ngỗi, Hàm Nghi, Duy Tân, v.v...
Các vua nhà Hậu Lê
Nhà Lê sơ
Miếu
hiệu
Thụy hiệu Tên húy Năm Niên hiệu Lăng
Thái Tổ
Thống Thiên Khải
Vận Thánh Đức
Thần
Công Duệ Văn Anh
Vũ Khoan Minh
Dũng
Trí Hoàng Nghĩa
Chí Minh Đại Hiếu
Cao hoàng đế
Lê Lợi
1428-
1433
Thuận Thiên
Vĩnh
Lăng
Thái
Tông
Kế Thiên Thể Đạo
Hiển Đức Thánh
Công
Khâm Minh Văn Tư
Anh Duệ Triết
Chiêu
Hiến Kiến Trung
Văn hoàng đế
Lê Nguyên
Long
1433-
1442
Thiệu Bình
(1434-1439)
Đại Bảo
(1440-1442)
Hựu Lăng
Nhân
Tông
Khâm Văn Nhân
Hiếu Tuyên Minh
Thông Duệ Tuyên
hoàng đế
Lê Bang
Cơ
1442-
1459
Thái Hòa
(1443-1453)
Diên Ninh
(1454-1459)
Nguyên
Lăng
Không
có
Lệ Đức hầu
Lê Nghi
Dân
1459-
1460
Thiên Hưng
(1459-1460)
Không có
Thánh Sùng Thiên Quảng Lê Tư 1460- Quang Thuận Chiêu
Tông
Vận Cao Minh
Quang Chính
Chí Đức Đại Công
Thánh Văn Thần Vũ
Đạt Hiếu Thuần
hoàng đế
Thành
(Lê Hạo)
1497
(1460-1469)
Hồng Đức
(1470-1497)
Lăng
Hiến
Tông
Thể Thiên Ngưng
Đạo Mậu Đức Chí
Chiêu Văn Thiệu Vũ
Tuyên Triết Khâm
Thành Chương Hiếu
Duệ hoàng đế
Lê Sanh
[29]
(Lê Tăng)
[30]
(Lê Huy)
[30]
1497-
1504
Cảnh Thống Dụ Lăng
Túc
Tông
Chiêu Nghĩa Hiển
Nhân Ôn Cung
Uyên Mặc
Hiếu Doãn Cung
Khâm hoàng đế
Lê Thuần 1504 Thái Trinh
Kinh
Lăng
Uy Mục Uy Mục Đế
Lê Tuấn
(Lê Huyên)
1505-
1509
Thái Trinh
Đoan Khánh
An Lăng
Tương
Dực
Tương Dực Đế Lê Oanh
1510-
1516
Hồng Thuận
Nguyên
Lăng
Không
có
Không có
Lê Quang
Trị
[31]
1516
Chiêu
Tông
Thần hoàng đế
Lê Y
(Lê Huệ)
1516-
1522
Quang Thiệu
Vĩnh
Hưng
Cung
Hoàng
Cung hoàng đế
Lê Xuân
(Lê Lự)
1522-
1527
Thống
Nguyên
Hoa
Dương
Nhà Lê Trung hưng
Miếu hiệu Thụy hiệu Tên húy Năm Niên hiệu Lăng
Trang
Tông
Dụ hoàng đế
Lê Duy
Ninh
1533-
1548
Nguyên Hoà Cảnh Lăng
Trung
Tông
Vũ hoàng đế
Lê Duy
Huyên
1548-
1556
Thuận Bình Diên Lăng
Anh Tông Tuấn hoàng đế
Lê Duy
Bang
1556-
1573
Thiên Hựu
(1557)
Chính Trị
(1558-1571)
Hồng Phúc
(1572-1573)
Bố Vệ Lăng
Thế Tông Nghị hoàng đế
Lê Duy
Đàm
1573-
1599
Gia Thái
(1573-1577)
Quang Hưng
(1578-1599)
chưa biết