Tải bản đầy đủ (.pdf) (392 trang)

Giáo trình nhập môn tài chính tiền tệ (NXB thống kê 2012) vũ xuân dũng, 392 trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 392 trang )

TRƯờNG ĐạI HọC THƯƠNG MạI
bộ môn tài chính doanh nghiệp

Chủ biên: TS. Vũ Xuân Dũng

Giáo trình

Nhập môn
tài chính - tiền tệ

Nhà xuất bản thống kê
Hà Nội, 2012
1


2


LờI NóI ĐầU

Lch s phỏt trin kinh t - xó hội cho thấy tài chính và tiền tệ ngày
càng giữ vị trí và vai trị quan trọng trong trật tự kinh tế của các quốc
gia và của toàn thế giới. Tài chính và tiền tệ trở thành những dịng huyết
mạch gắn kết, làm lưu hoạt và thúc đẩy sự phát triển mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nếu sử dụng chúng không hợp lý thì
cũng có thể trở thành tác nhân gây trì trệ và khủng hoảng kinh tế. Do đó,
việc nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - tài chính - tiền tệ để đúc rút
thành những nền tảng lý thuyết nhằm soi tỏ thực tiễn và làm căn cứ định
hướng sử dụng hợp lý các cơng cụ tài chính, tiền tệ đã trở thành nhu cầu
cần thiết và khơng có giới hạn đối với các nhà nghiên cứu, các nhà
hoạch định chính sách và đối với mọi chủ thể trong xã hội.


Với mong muốn có thể đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập tại
Trường Đại học Thương mại, tập thể giảng viên Bộ mơn Tài chính doanh
nghiệp, Khoa Tài chính - Ngân hàng đã tổ chức biên soạn và trân trọng
giới thiệu cuốn giáo trình Nhập mơn Tài chính - Tiền tệ. Trong lần biên
soạn này, tập thể tác giả đã bám sát chương trình khung theo hướng dẫn
của Bộ Giáo dục và Đào tạo để trình bày, giới thiệu những nguyên lý cơ
bản trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, đồng thời cập nhật, bổ sung những
kiến thức mới theo yêu cầu của sự hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay
ở Việt Nam.
Giáo trình Nhập mơn Tài chính - Tiền tệ được xem là tài liệu cần
thiết phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy của giảng viên và việc học
tập của sinh viên thuộc các chuyên ngành đào tạo về kinh tế của Trường
Đại học Thương mại như quản trị doanh nghiệp, kinh tế thương mại, kế
tốn, kiểm tốn, tài chính, ngân hàng, thương mại điện tử,... Bên cạnh
đó, giáo trình cịn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu,
quản lý và độc giả quan tâm.
3


Tham gia biên soạn giáo trình:
 Chủ biên: TS. Vũ Xuân Dũng
 Biên soạn chương 1: PGS,TS. Lê Thị Kim Nhung
 Biên soạn chương 2: Ths. Nguyễn Thùy Linh
 Biên soạn chương 3: TS. Vũ Xuân Dũng và Ths. Vũ Xuân Thủy
 Biên soạn chương 4: TS. Vũ Xuân Dũng
 Biên soạn chương 5: Ths. Nguyễn Thị Minh Hạnh
 Biên soạn chương 6: Ths. Nguyễn Thanh Huyền và CN. Đỗ Thị Diên
 Biên soạn chương 7: Ths. Nguyễn Thùy Linh và CN. Đỗ Thị Diên
 Biên soạn chương 8: Ths. Nguyễn Thanh Huyền và Ths. Lê Hà Trang
 Biên soạn chương 9: Ths. Nguyễn Thị Minh Hạnh và CN. Đỗ Thị Diên

 Biên soạn chương 10: GVC Trần Thanh Nghị
 Biên soạn chương 11: GVC Trần Thanh Nghị và Ths. Vũ Xuân Thủy
 Biên soạn chương 12: PGS, TS. Lê Thị Kim Nhung
Trong quá trình biên soạn, mặc dù tập thể tác giả đã có nhiều cố
gắng, song do lĩnh vực tài chính - tiền tệ rất rộng lớn, ln biến đổi phức
tạp nên cuốn sách sẽ không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định.
Tập thể tác giả rất mong nhận được các ý kiến phê bình, góp ý của độc
giả để giúp cho lần tái bản sau của giỏo trỡnh s c hon thin hn.

TậP THể TáC GIả

4


Chng 1

NHữNG VấN Đề CƠ BảN Về TàI CHíNH
Chng ny đề cập đến những vấn đề cơ bản về phạm trù tài chính
với việc tìm hiểu nguồn gốc ra đời và phát triển của nó, làm rõ bản chất
của tài chính giúp người đọc phân biệt giữa tài chính với tiền tệ và với
các phạm trù phân phối khác, đi sâu luận giải các chức năng của tài chính
và hệ thống tài chính trong nền kinh tế quốc dân.
1.1 QU¸ TRìNH HìNH THàNH Và PHáT TRIểN CủA TàI CHíNH

Ti chớnh là một phạm trù kinh tế khách quan, có lịch sử hình thành
và phát triển của nó. Lịch sử đã chứng minh, tài chính chỉ ra đời, tồn tại
và phát triển trong những điều kiện nhất định, khi mà ở đó có những hiện
tượng kinh tế - xã hội khách quan xuất hiện và tồn tại. Có thể xem những
hiện tượng kinh tế - xã hội đó là tiền đề khách quan quyết định sự ra đời,
tồn tại và phát triển của tài chính với tư cách là một phạm trù kinh tế lịch sử.

Trong quá trình phát triển của xã hội lồi người, phân cơng lao động
xã hội và chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã làm xuất hiện
sản xuất và trao đổi hàng hóa, theo đó tiền tệ xuất hiện1. Sự xuất hiện của
sản xuất hàng hóa và các quan hệ tiền tệ đã tạo nên một bước ngoặt lớn
mang tính cách mạng trong lĩnh vực phân phối: từ phân phối bằng hiện
vật chuyển sang phân phối dưới hình thái giá trị. Đây chính là phân phối
tài chính, là cơ sở làm nảy sinh các quan hệ tài chính trong xã hội.
Trong nền kinh tế hàng hóa, sự phát triển của sản xuất xã hội cũng đi
từ giản đơn đến phức tạp, việc trao đổi hàng hóa có thể tiến hành trực
tiếp hàng đổi hàng hoặc có thể thực hiện thơng qua trung gian là tiền. Ở
giai đoạn phát triển cao hơn, trở thành nền kinh tế thị trường, việc trao
đổi hàng hóa chủ yếu được tiến hành thông qua tiền. Phân công lao động
1

Xem lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ (chương 2)
5


xã hội càng sâu sắc, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người tham gia
sản xuất hàng hóa ngày càng gia tăng, làm xuất hiện mối quan hệ về lợi
ích giữa họ. Trong bối cảnh đó, đồng tiền được sử dụng làm phương tiện
để phân chia của cải xã hội, nhằm giải quyết mối quan hệ về lợi ích và
thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể. Từ đó hình thành nên các mối quan hệ
tài chính giữa các chủ thể trong xã hội trong quá trình sản xuất và trao
đổi hàng hóa (hiện nay cịn gọi là quan hệ tài chính tư).
Lịch sử phát triển của xã hội lồi người cũng đã chứng minh rằng,
khi chế độ tư hữu xuất hiện thì xã hội bắt đầu phân chia thành các giai
cấp và có sự đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội. Chính sự xuất hiện
của sản xuất, trao đổi hàng hóa và tiền tệ là một trong các nguyên nhân
chủ yếu thúc đẩy mạnh mẽ sự phân chia giai cấp và đối kháng giai cấp.

Kết quả của q trình đấu tranh giai cấp đó là sự xuất hiện của Nhà nước.
Để duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy Nhà nước đòi hỏi phải có
một nguồn lực tài chính nhất định và Nhà nước với tư cách là người có
quyền lực chính trị đã bắt buộc các tầng lớp dân cư trong xã hội đóng
góp thơng qua hình thức thuế, cơng trái…. Từ đó, các mối quan hệ tài
chính giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội bắt đầu hình thành.
Thơng qua các quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã
hội, Nhà nước đã huy động, tập trung một bộ phận của cải xã hội dưới
hình thức tiền tệ để lập nên các quỹ tiền tệ của Nhà nước, đáp ứng nhu
cầu chi tiêu nhằm duy trì bộ máy quản lý, an ninh, quốc phòng… và thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Có thể nói rằng, sự xuất hiện
của Nhà nước đã làm xuất hiện một lĩnh vực hoạt động tài chính gắn liền
với hoạt động của Nhà nước - đó là tài chính Nhà nước (hiện nay cịn gọi
là tài chính cơng).
Cần phải nhấn mạnh rằng, tài chính cơng là một khái niệm hiện đại,
bởi đầu thế kỷ XX trong các sách và tài liệu chuyên ngành, người ta
thường sử dụng thuật ngữ Tài chính Nhà nước. Sự thay đổi có tính bước
ngoặt về quan niệm tài chính cơng diễn ra vào những năm 30 của thế kỷ
XX có mối quan hệ chặt chẽ với sự chuyển dịch quyền hạn từ cơ quan
công quyền trung ương sang hình thức các tổ chức cơng quyền địa
phương dựa trên nguyên tắc lãnh thổ, sự phát triển về các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
6


Trong các nền kinh tế tự cung tự cấp, nền kinh tế hàng hóa giản đơn,
kinh tế thị trường tự do cạnh tranh từ thế kỷ XIX về trước, Nhà nước
không can thiệp vào các hoạt động kinh tế, Nhà nước được ví như người
“canh gác” xã hội và thực hiện chức năng chính trị, quản lý bộ máy hoạt
động của Nhà nước. Do vậy, Nhà nước sử dụng tài chính như một cơng

cụ thực hiện các hoạt động đơn thuần về mặt chính trị của Nhà nước và
là một “yếu tố trung lập” đứng ngoài các hoạt động kinh tế. Sau chiến
tranh thế giới lần thứ nhất, đặc biệt sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế
giới 1929 - 1933, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bị suy thoái trầm trọng.
Để vực dậy nền kinh tế tư bản ở các quốc gia trong điều kiện thị trường
khơng hồn hảo, các Nhà nước tư bản ngày càng chú trọng thực hiện
chức năng kinh tế song song với thực hiện chức năng chính trị, vì vậy vai
trị của Nhà nước đã được thay đổi. Trong bối cảnh đó, cần phải xác định
đúng vai trò của Nhà nước trong mối quan hệ với thị trường, nhất là
trong lĩnh vực cung cấp hàng hóa và dịch vụ cơng cho xã hội. Tài chính
cơng được coi là cơng cụ hữu hiệu mà Nhà nước sử dụng để can thiệp
vào các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế thị trường phát triển theo
hướng hiện đại. Bằng hoạt động của tài chính cơng, nền kinh tế vĩ mô và
hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội được điều chỉnh theo những
cách thức khác nhau tùy theo các giai đoạn phát triển và các điều kiện
kinh tế - xã hội cụ thể của từng quốc gia.
Như vậy, cùng với sự phát triển của Nhà nước, với việc thực hiện
các chức năng của Nhà nước, phạm vi hoạt động của tài chính khơng
ngừng được mở rộng và tác động ngược trở lại đối với các hoạt động
kinh tế - xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hóa - tiền tệ trong
nền kinh tế thị trường, tài chính là cơng cụ được Nhà nước khai thác, vận
dụng để quản lý, điều khiển nền kinh tế - xã hội nhằm mục đích thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và nâng cao phúc lợi xã hội. Có thể nói rằng, sự phát
triển kinh tế hàng hóa tiền tệ đã tạo điều kiện khách quan cho sự mở rộng
các quan hệ tài chính của Nhà nước nói riêng và trong tồn bộ nền kinh
tế quốc dân nói chung.

7



Từ sự phân tích trên, có thể coi (i) sự ra đời, tồn tại và phát triển
của sản xuất và trao đổi hàng hóa, (ii) sự ra đời, tồn tại và phát triển của
Nhà nước là hai tiền đề khách quan quyết định sự ra đời, tồn tại và phát
triển của phạm trù tài chính. Cùng với sự phát triển của các tiền đề khách
quan, tài chính cũng phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện, các mối quan hệ tài chính ngày càng phát triển mạnh mẽ, sâu
rộng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, những tiền đề khách
quan quyết định sự tồn tại và phát triển của tài chính vẫn đang hiện diện
đầy đủ và vận động song hành. Vấn đề đặt ra là làm sao có thể sử dụng
phạm trù tài chính đang tồn tại khách quan một cách đúng đắn nhằm
phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng đất nước. Để đạt
được mục tiêu đó, địi hỏi phải hiểu rõ và có nhận thức đúng về phạm trù
tài chính.
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị, phát
sinh trong quá trình phân phối của cải xã hội thơng qua việc hình thành
và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm đáp ứng cho
các lợi ích khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
1.2. B¶N CHÊT CđA TµI CHÝNH

Việc xác định đúng đắn bản chất của tài chính có ý nghĩa quan
trọng, tạo cơ sở cho việc phân biệt phạm trù tài chính với các phạm trù
kinh tế khác, nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính trong q trình phát
triển kinh tế - xã hội. Để hiểu rõ được bản chất của tài chính, trước hết
chúng ta xem xét các biểu hiện bên ngoài của nó, từ đó tìm ra những
điểm chung bao trùm mọi quan hệ tài chính.
1.2.1. Nội dung và đặc trưng của các quan hệ tài chính
Quan sát thực tế quá trình vận động của nền kinh tế - xã hội có thể
nhận thấy các biểu hiện bên ngồi của tài chính là hiện tượng thu vào
bằng tiền và chi ra bằng tiền của các chủ thể trong xã hội, qua đó tài

chính được cảm nhận như là sự vận động của các quỹ tiền tệ, đại diện
cho những sức mua nhất định của các chủ thể trong xã hội. Nói đến tài
8


chính, người ta khơng chỉ thấy tiền tệ ở trạng thái tĩnh mà còn thấy lượng
tiền tệ nhất định đang vận động để tạo nên những thế năng về sức mua
hay biến những thế năng đó thành hiện thực. Theo đó, các mối quan hệ
tài chính ln diễn ra một cách đa dạng, phức tạp và đan xen trong một
tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của nền kinh tế thị trường. Có
thể sắp xếp các mối quan hệ tài chính thành các nhóm như sau:
Thứ nhất, quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các tổ chức và cá
nhân trong xã hội. Đó là mối quan hệ phát sinh khi người dân, các nhóm
cá nhân kinh doanh hay doanh nghiệp,… thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
cho Nhà nước, nộp tiền phí, lệ phí khi sử dụng các hàng hóa dịch vụ
cơng do Nhà nước cung cấp; ngược lại, Nhà nước cũng có thể thực hiện
các trợ cấp về tài chính cho các chủ thể trong xã hội như cấp vốn (đầu tư
vốn) hình thành nên các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước, thực hiện
các khoản hỗ trợ tài chính (các gói kích cầu) cho các chủ thể kinh doanh,
cấp kinh phí hoạt động cho các đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức
xã hội để các đơn vị này có thể thực hiện những chức năng nhiệm vụ Nhà
nước giao, hay trợ cấp tài chính cho người dân (những đối tượng đặc
biệt) thuộc đối tượng hưởng phúc lợi xã hội.
Thứ hai, quan hệ tài chính giữa các tổ chức và cá nhân với nhau
trong xã hội. Đây là nhóm quan hệ tài chính đa dạng và phức tạp nhất, nó
bao gồm:
- Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với
nhau và với các tổ chức xã hội, các tầng lớp dân cư. Đây là các mối quan
hệ trong thanh toán tiền mua bán hàng hóa dịch vụ, thanh tốn tiền
lương, tiền cơng với người lao động,...

- Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh
với các tổ chức trung gian tài chính (như ngân hàng thương mại, tổ chức
tín dụng, cơng ty tài chính, cơng ty bảo hiểm, quỹ tín dụng,…) và với các
cá nhân. Đây là các mối quan hệ tài chính trong việc huy động và đầu tư
vốn trên thị trường tài chính của các chủ thể trên. Ví dụ doanh nghiệp
vay vốn của ngân hàng thương mại, hoặc phát hành trái phiếu, hoặc phát
hành cổ phiếu và nhà đầu tư mua,…

9


- Quan hệ tài chính giữa các tổ chức trung gian tài chính với nhau và
với các tầng lớp dân cư. Các mối quan hệ này phát sinh trong quá trình
nhận tiền gửi, cho vay, liên doanh liên kết,… và các quan hệ tài chính
khác.
- Quan hệ tài chính giữa các hộ gia đình, các cá nhân với nhau như
vay mượn, thanh tốn tiền hàng hóa dịch vụ,….
Thứ ba, quan hệ tài chính trong nội bộ một chủ thể (một doanh
nghiệp, một ngân hàng thương mại, một hộ gia đình,…). Ví dụ như quan
hệ phân phối, điều hịa vốn giữa các bộ phận, các chi nhánh trong một
doanh nghiệp, quan hệ phân phối lợi nhuận và sử dụng các quỹ trong
doanh nghiệp,...
Ngoài ra, trong bối cảnh mở cửa hội nhập quốc tế, với xu hướng
tồn cầu hóa mạnh mẽ, cịn phải kể đến các mối quan hệ tài chính giữa
các chủ thể của quốc gia này với các chủ thể của một quốc gia khác hay
với các tổ chức quốc tế. Đó là các quan hệ tài chính quốc tế như quan hệ
vay nợ, viện trợ giữa các Chính phủ hoặc giữa Chính phủ của một nước
với các tổ chức Phi Chính phủ, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế; các
quan hệ đầu tư trực tiếp, gián tiếp giữa các tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân giữa các quốc gia với nhau,…

Qua những biểu hiện cụ thể nêu trên có thể thấy rằng, các quan hệ
tài chính đều liên quan đến tiền tệ. Tiền tệ xuất hiện trong các mối quan
hệ tài chính khơng phải với chức năng thước đo giá trị mà với chức năng
phương tiện thanh toán và phương tiện tích lũy giá trị - đại diện cho một
lượng giá trị, đặc trưng cho một thế năng về sức mua nhất định gọi là
nguồn lực tài chính. Trong thực tế, nguồn tài chính được nói đến dưới
nhiều tên gọi khác nhau như: vốn tiền tệ, vốn bằng tiền, tiền vốn và các
tên gọi riêng khác trong các trường hợp cụ thể. Ở mỗi chủ thể, khi nguồn
tài chính được tập trung (thu vào) là khi các quỹ tiền tệ được hình thành
(tạo lập), và khi nguồn tài chính phân tán (chia ra) là lúc các quỹ tiền tệ
được sử dụng. Nói một cách khác, q trình vận động của các nguồn tài
chính cũng chính là q trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, ở đó các
chủ thể kinh tế - xã hội tham gia phân phối các nguồn tài chính thơng qua
các hoạt động thu chi bằng tiền của mình.
10


1.2.2. Bản chất của tài chính
Qua việc xem xét các mối quan hệ tài chính nêu trên, có thể xác định
nội dung kinh tế của phạm trù tài chính như sau: Tài chính được đặc
trưng bằng sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức năng
phương tiện thanh tốn và phương tiện tích lũy giá trị trong quá trình tạo
lập và sử dụng các quỹ tiền tệ - đại diện cho những sức mua nhất định
của các chủ thể kinh tế - xã hội. Nói cách khác, tài chính là tổng thể các
mối quan hệ kinh tế trong phân phối các nguồn lực tài chính thơng qua
q trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích
lũy hay tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội.
Bản chất của tài chính được thể hiện trên các khía cạnh sau:
(1) Tài chính là những quan hệ kinh tế, nhưng không phải mọi quan hệ
kinh tế trong xã hội đều thuộc phạm trù tài chính. Tài chính chỉ bao gồm

những quan hệ phân phối dưới hình thái giá trị.
(2) Tài chính là những quan hệ phân phối phát sinh trong quá trình
hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Đây là một đặc trưng quan trọng
của tài chính. Việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ mang những
đặc điểm sau:
- Các quỹ tiền tệ bao giờ cũng thể hiện quan hệ sở hữu. Sự vận động
của các quỹ tiền tệ có thể diễn ra trong phạm vi một hình thức sở hữu
hoặc giữa các hình thức sở hữu khác nhau, nhưng khi kết thúc một giai
đoạn vận động của quỹ (hình thành hay sử dụng) thì mỗi chủ thể của
hình thức sở hữu này hay hình thức sở hữu khác sẽ nhận được cho mình
một phần nguồn lực tài chính như là kết quả tất yếu của quá trình phân
phối của cải xã hội dưới hình thái giá trị.
Trong nền kinh tế thị trường, với sự ra đời và phát triển của thị
trường tài chính, việc tạo lập các quỹ tiền tệ trong xã hội có thể diễn ra
trực tiếp giữa các chủ thể, cũng có thể diễn ra gián tiếp thơng qua thị
trường tài chính. Song dù dưới hình thức nào, sự tạo lập các quỹ tiền tệ sự tích góp các nguồn lực tài chính ở các chủ thể cũng vẫn là sự phản ánh
kết quả của quá trình phân phối. Cịn q trình phân phối bao giờ cũng
chịu sự chi phối bởi quyền sở hữu - một yếu tố cơ bản của quan hệ sản
11


xuất xã hội. việc sử dụng các quỹ tiền tệ phụ thuộc quyền sở hữu, cũng
như tùy thuộc vào quy ước, nguyên tắc sử dụng quỹ, ý chí chủ quan của
người sở hữu trong quá trình phân phối.
- Các quỹ tiền tệ bao giờ cũng thể hiện tính mục đích của nguồn tài
chính. Trong nền kinh tế thị trường, phần lớn các quỹ tiền tệ đều có mục
đích sử dụng cuối cùng là tích lũy hoặc tiêu dùng. Ví dụ: Ngân sách Nhà
nước (quỹ tiền tệ đặc biệt của Nhà nước) để phục vụ cho việc thực hiện
các chức năng của Nhà nước; vốn của doanh nghiệp (một quỹ tiền tệ đặc
biệt của doanh nghiệp) để phục vụ cho hoạt động kinh doanh; quỹ bảo

hiểm xã hội dùng để trợ cấp cho người lao động khi họ mất sức lao
động,… Bên cạnh đó cịn tồn tại các quỹ tiền tệ trung gian được hình
thành và sử dụng có thời hạn phục vụ cho việc hình thành và sử dụng các
quỹ tiền tệ có mục đích sử dụng cuối cùng khác. Ví dụ như quỹ tiền tệ
của ngân hàng thương mại huy động được từ việc nhận tiền gửi nhằm
mục đích cho vay, qua đó hình thành nên quỹ tiền tệ của doanh
nghiệp,…
- Các quỹ tiền tệ luôn luôn vận động, tức là chúng thường xuyên
được tạo lập và thường xuyên được sử dụng. Một dạng khác của sự vận
động đó và nhằm những mục đích cụ thể nào đó là các quỹ lớn được chia
thành các quỹ nhỏ hơn, hoặc các quỹ nhỏ có thể được khuyếch trương
nhờ sự tập trung các quỹ nhỏ tương ứng. Ví dụ: Ngân sách Nhà nước
được chia thành các quỹ dùng cho phát triển kinh tế, văn hóa, giáo
dục,…; hoặc các quỹ tập trung của tổng công ty được tạo nên từ các quỹ
tương ứng của các đơn vị thành viên trực thuộc.
(3) Tài chính là quan hệ kinh tế chịu sự tác động trực tiếp của Nhà
nước, của pháp luật, nhưng tài chính khơng phải là hệ thống các luật lệ
về tài chính. Luật Tài chính là cơng cụ của Nhà nước để điều tiết các
quan hệ tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu của Nhà nước. Điều này giải
thích tại sao trong các chế độ xã hội khác nhau thì chính sách tài chính và
mục đích sử dụng tài chính cũng khác nhau.
Qua việc phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng: Trong đời sống thực
tế, thật khó phân biệt tài chính với tiền tệ, bởi chúng luôn song hành với
12


nhau, tuy nhiên chúng vẫn là hai phạm trù độc lập, có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Tiền tệ, về bản chất là vật ngang giá chung trong trao đổi
hàng hóa với chức năng thước đo giá trị, phương tiện lưu thơng, phương
tiện thanh tốn và phương tiện tích lũy giá trị. Tài chính khơng phải là

tiền tệ với bản chất và chức năng như vậy, tài chính là phạm trù phân
phối dưới hình thái giá trị (thơng qua tiền tệ), nhưng tài chính khơng phải
là tiền hay quỹ tiền tệ. Tiền tệ chỉ là phương tiện biểu hiện các quan hệ
tài chính trong q trình phân phối của cải xã hội mà đặc trưng riêng có
của nó là tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ khác nhau cho các mục đích
khác nhau.
Giá cả cũng là một phạm trù liên quan đến phân phối dưới hình thái
giá trị, nhưng sự phân phối qua giá cả chỉ phát sinh khi có sự chênh lệch
giữa giá trị và giá cả hàng hóa trong trao đổi. Khi trao đổi khơng ngang
giá, giá cả cao hơn hoặc thấp hơn giá trị, sẽ xảy ra sự dịch chuyển giá trị
từ chủ thể này sang chủ thể khác. Cịn tài chính là phạm trù phân phối
phản ánh sự dịch chuyển giá trị qua việc tạo lập hay sử dụng các quỹ
tiền tệ.
Tiền lương cũng là một phạm trù phân phối gắn liền với quá trình
phân phối theo lao động. Tiền lương muốn được thực hiện (tức là trả
lương) phải thơng qua tài chính - qua sự vận động độc lập của giá trị với
sự hình thành quỹ tiền lương của các doanh nghiệp hay các tổ chức. Tiền
lương sau khi trả cho người lao động cũng là một bộ phận của nguồn tài
chính để hình thành nên “ngân sách gia đình”, tài chính của cá nhân. Vì
thế tiền lương và tài chính là hai phạm trù độc lập nhưng gắn bó chặt chẽ
với nhau.
Nhận thức đúng đắn bản chất của tài chính có ý nghĩa quan trọng cả
về lý luận và thực tiễn, giúp xác định rõ phạm vi các quan hệ tài chính
trong lĩnh vực phân phối, giúp xác định vị trí của tài chính trong hoạt
động thực tiễn, là cơng cụ phân phối sản phẩm xã hội được tạo ra từ hoạt
động sản xuất xã hội. Điều đó tạo cơ sở cho việc vận dụng các quan hệ
tài chính tồn tại khách quan để đưa ra các chính sách tài chính đúng đắn,
đồng thời thơng qua các chính sách tài chính để tổ chức các quan hệ tài

13



chính nhằm phát huy các tác động tích cực của nó tới các hoạt động và
các quan hệ kinh tế - xã hội theo phương hướng đã xác định.
Bản chất của tài chính cịn được thể hiện rõ nét thơng qua các chức
năng của nó.
1.3. CHøC N¡NG CđA TµI CHÝNH

Chức năng của tài chính là thuộc tính khách quan vốn có, là khả
năng hay thế năng bên trong biểu lộ tác dụng xã hội của nó. Trong đời
sống xã hội, tài chính có hai chức năng là phân phối và giám đốc.
1.3.1. Chức năng phân phối
Chức năng phân phối là thuộc tính khách quan vốn có, thể hiện bản
chất của phạm trù tài chính. Con người nhận thức và vận dụng khả năng
khách quan đó để tổ chức việc phân phối của cải xã hội dưới hình thái
giá trị. Chính nhờ chức năng này mà các nguồn lực đại diện cho những
bộ phận của cải xã hội được phân chia và sử dụng cho các mục đích khác
nhau, đáp ứng những lợi ích khác nhau của đời sồng kinh tế - xã hội.
Từ đó, có thể cho rằng: Chức năng phân phối của tài chính là chức
năng mà nhờ vào đó các nguồn lực đại diện cho những bộ phận của cải
xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau để sử dụng cho các mục
đích khác nhau, đảm bảo những nhu cầu khác nhau và những lợi ích
khác nhau của xã hội.
Đối tượng phân phối ở đây là nguồn của cải xã hội dưới hình thái giá
trị, là nguồn tài chính đang vận động một cách độc lập với tư cách là
phương tiện thanh toán, phương tiện tích lũy giá trị trong q trình tạo
lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Xét về mặt nội dung, nguồn tài chính (đối tượng phân phối) bao gồm
các bộ phận:
- Bộ phận của cải xã hội mới được sáng tạo ra trong năm (tổng sản

phẩm quốc nội - GDP).
- Bộ phận của cải xã hội tích lũy trong quá khứ.

14


- Bộ phận của cải được chuyển từ nước ngoài vào và bộ phận của cải
trong nước chuyển ra nước ngồi.
- Bộ phận tài sản, tài ngun quốc gia có thể cho th, nhượng bán
có thời hạn.
Xét về hình thức biểu hiện, nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng
hữu hình hoặc vơ hình. Nguồn tài chính hữu hình là nguồn tài chính được
biểu hiện dưới hình thức giá trị và hình thức hiện vật như tiền nội tệ,
ngoại tệ, bất động sản, tài nguyên, đất đai,... Nguồn tài chính vơ hình là
nguồn tài chính tồn tại dưới dạng những sản phẩm khơng có hình thái vật
chất như: dữ liệu, thơng tin, hình ảnh, ký hiệu, phát minh, sáng chế, bí
quyết kỹ thuật... những sản phẩm kể trên bản thân chúng có giá trị và
trong điều kiện kinh tế thị trường chúng có thể chuyển thành tiền qua
mua bán, do đó, chúng được coi là một bộ phận cấu thành của tổng thể
các nguồn tài chính trong xã hội.
Chủ thể phân phối là Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức xã
hội, hộ gia đình hay cá nhân dân cư. Chủ thể phân phối có thể xuất hiện
trên một trong các tư cách là:
- Người có quyền sở hữu các nguồn tài chính: Chủ thể phân phối ở
đây là những người chủ đích thực của vốn tiền tệ. Họ có quyền phân phối
và sử dụng chúng theo ý muốn chủ quan của mình.
- Người có quyền sử dụng các nguồn tài chính: Chủ thể phân phối ở
đây là những người không quyền sở hữu vốn tiền tệ nhưng họ được trao
quyền sử dụng vốn tiền tệ. Nói khác đi đó là những người đi vay và họ có
quyền phân phối và sử dụng số vốn đi vay đó theo các mục đích đã định.

- Người có quyền lực chính trị: Chủ thể muốn nói ở đây là Nhà
nước. Nhà nước khơng phải với tư cách là người có quyền sở hữu hay
quyền sử dụng các nguồn lực tài chính, nhưng Nhà nước vẫn có thể huy
động tập trung các nguồn tài chính từ các tổ chức và cá nhân nhờ vào
quyền lực chính trị của mình, thơng qua các quy định pháp luật như thuế,
phí, lệ phí,...
- Ngồi ra cịn có các nhóm thành viên xã hội: chủ thể muốn đề cập
ở đây là các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội,
15


nghiệp đồn,... do có sự ràng buộc của các quan hệ xã hội mà các tổ chức
này là người chủ trì, với tư cách là chủ thể phân phối khi họ nhận được
các khoản đóng góp hội phí của các thành viên, các khoản ủng hộ, đóng
góp tự nguyện...
Kết quả của quá trình phân phối là sự hình thành (tạo lập) hoặc sử
dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể trong xã hội nhằm những mục đích
nhất định.
Phân phối tài chính mang những đặc điểm như sau:
- Phân phối tài chính là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thái giá
trị, khơng kèm theo sự thay đổi hình thái giá trị. Nói cách khác, phân
phối của tài chính là phân phối dưới hình thái giá trị nhưng khơng chứa
đựng sự vận động ngược chiều của hai hình thái giá trị như trong mua
bán hàng hóa.
- Phân phối của tài chính là sự phân phối ln ln gắn liền với sự
hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Thơng qua chức năng
phân phối của tài chính, các quỹ tiền tệ nhất định được hình thành hoặc
sử dụng, nhưng chính trong các q trình đó, bản chất của tài chính phân phối dưới hình thái giá trị - vẫn khơng thay đổi. Các quỹ tiền tệ
được hình thành (được khuếch trương), được sử dụng (được chia nhỏ) vì
những mục đích nhất định, theo tác dụng hẹp hơn hay rộng hơn nhưng đó

vẫn là một q trình phân phối dưới hình thái giá trị. Trong mối quan hệ
kế tiếp giữa lĩnh vực phân phối và trao đổi, hay phân phối và tiêu dùng
trong quá trình tái sản xuất xã hội, phân phối tài chính diễn ra ở chính
ngay điểm tiếp giáp của các lĩnh vực đó. Đó là khi việc thanh tốn tiền
mua, bán hàng hóa dịch vụ được thực hiện và theo đó các quỹ tiền tệ
khác nhau hoặc được hình thành hoặc được sử dụng.
- Các quan hệ phân phối tài chính khơng phải bao giờ cũng nhất thiết
kèm theo sự di chuyển giá trị từ chủ thể phân phối này sang chủ thể phân
phối khác. Khi một doanh nghiệp kinh doanh có lợi nhuận và nộp thuế
thu nhập cho Nhà nước, quan hệ tài chính này dẫn đến sự dịch chuyển
một lượng giá trị từ doanh nghiệp đó vào Ngân sách Nhà nước. Nhưng
khi doanh nghiệp đó phân phối lợi nhuận sau thuế để hình thành nên các
16


quỹ của doanh nghiệp (quỹ đầu tư phát triển kinh doanh, quỹ khen
thưởng, quỹ phúc lợi,…) thì khơng dẫn đến sự dịch chuyển giá trị sang
một chủ thể khác, chỉ là một sự phân phối quỹ lớn thành các quỹ nhỏ hơn
để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của chính doanh nghiệp đó.
- Q trình phân phối diễn ra một cách thường xuyên, liên tục bao
gồm cả phân phối lần đầu và phân phối lại, trong đó phân phối lại là đặc
trưng chủ yếu của phân phối tài chính.
Phân phối lần đầu là sự phân phối được tiến hành trong lĩnh vực sản
xuất, cho những chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra của cải vật
chất hay thực hiện các dịch vụ trong các đơn vị sản xuất và dịch vụ. Phân
phối lần đầu được thực hiện trước hết và chủ yếu tại khâu cơ sở của hệ
thống tài chính (tài chính doanh nghiệp, tài chính hộ gia đình). Kết thúc
quá trình phân phối lần đầu, giá trị sản phẩm xã hội trong lĩnh vực sản
xuất được chia thành các bộ phận và được đưa vào các quỹ tiền tệ cơ bản
như sau:

+ Một phần để bù đắp chi phí vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản
xuất. Phần này hình thành nên quỹ khấu hao tài sản cố định và quỹ bù
đắp vốn lưu động đã ứng ra của các đơn vị.
+ Một phần hình thành quỹ lương của đơn vị để trả lương cho người
lao động. Kết quả của việc sử dụng quỹ lương tạo nên quỹ tiền tệ của các
hộ gia đình.
+ Một phần góp vào để hình thành các quỹ dự phịng, bảo hiểm: bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm kinh doanh,…
+ Một phần là thu nhập của các chủ sở hữu về vốn hay các nguồn tài
nguyên, góp phần phục vụ cho việc tiến hành sản xuất hay dịch vụ của
đơn vị. Phần này lại bao gồm các phần: phần dành cho các cổ đông nắm
giữ cổ phần, phần dành cho các trái chủ, các ngân hàng đã cho các doanh
nghiệp vay vốn,...
Qua phân phối lần đầu, giá trị sản phẩm xã hội mới chỉ được chia
thành các phần thu nhập cơ bản. Nếu chỉ dừng lại ở đó, việc phân phối
chưa thể đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của toàn xã hội, các chủ thể ở khu

17


vực phi sản xuất sẽ khơng có được nguồn tài chính cần thiết để tồn tại và
hoạt động. Do đó, phân phối lại trở thành đòi hỏi khách quan của xã hội.
Phân phối lại là quá trình tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ
bản, những quỹ tiền tệ đã được hình thành trong phân phối lần đầu ra
phạm vi tồn xã hội hoặc theo những mục đích cụ thể hơn của các quỹ
tiền tệ.
Phân phối lại là đặc trưng quan trọng nhất của phân phối tài chính,
nó diễn ra ở tất cả các khâu của hệ thống tài chính, với mọi chủ thể trong
xã hội. Nếu như phân phối lần đầu chỉ diễn ra một lần duy nhất thì phân
phối lại khơng giới hạn số lần phân phối. Các quỹ tiền tệ sau khi được

hình thành lại được sử dụng, tạo nên sự luân chuyển không ngừng của
các nguồn lực tài chính trong xã hội từ chủ thể này sang chủ thể khác.
Phân phối lại đã phát huy tác dụng to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế
- xã hội, thể hiện qua những điểm sau:
+ Phân phối lại đảm bảo cho lĩnh vực không sản xuất có nguồn tài
chính (vốn tiền tệ) để tồn tại, duy trì hoạt động và phát triển.
+ Phân phối lại tác động tích cực tới chun mơn hóa và thúc đẩy sự
phát triển của phân công lao động xã hội, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý,
thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
+ Phân phối lại thực hiện điều tiết thu nhập giữa các thành phần kinh
tế và các tầng lớp dân cư góp phần đảm bảo cơng bằng xã hội.
Trên thực tế, q trình phân phối lần đầu và phân phối lại luôn tiến
hành đồng thời và có sự đan xen lẫn nhau phù hợp với sự vận động của
nền kinh tế - xã hội. Trong cùng một khoảng thời gian vừa có q trình
phân phối lần đầu diễn ra ở lĩnh vực sản xuất vật chất, vừa có q trình
phân phối lại diễn ra trên bình diện tồn bộ nền kinh tế - xã hội, nhằm
đảm bảo cho mọi chủ thể đều có nguồn lực tài chính để tồn tại, để thực
hiện chức năng nhiệm vụ của mình theo phân cơng lao động xã hội.
1.3.2. Chức năng giám đốc
Chức năng giám đốc của tài chính cũng là một thuộc tính khách
quan vốn có của phạm trù tài chính, bắt nguồn từ bản chất của tài chính.
18


Xuất phát từ q trình phân phối của tài chính, đặt ra đòi hỏi khách quan
phải tiến hành kiểm tra giám sát, tức là phải thực hiện chức năng giám
đốc. Con người nhận thức và vận dụng khả năng khách quan này của tài
chính để tổ chức cơng tác kiểm tra tài chính đối với q trình phân phối
các nguồn tài chính dưới hình thái giá trị.
Vì vậy, có thể hiểu: chức năng giám đốc của tài chính là chức năng

mà nhờ đó việc kiểm tra bằng đồng tiền được thực hiện đối với q trình
phân phối của tài chính nhằm đảm bảo cho các quỹ tiền tệ (nguồn tài
chính) ln được tạo lập và sử dụng đúng mục đích đã định.
Đối tượng của giám đốc tài chính là quá trình vận động của các
nguồn tài chính, q trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Đây cũng
chính là đối tượng của chức năng phân phối.
Chủ thể của giám đốc tài chính cũng chính là các chủ thể phân phối
tài chính. Bởi vì, để cho q trình phân phối của tài chính đạt tới tối đa
tính mục đích, tính hợp lý, tính hiệu quả thì bản thân các chủ thể phân
phối phải tiến hành kiểm tra xem xét q trình phân phối đó. Sự kiểm tra
có thể diễn ra dưới dạng: xem xét tính cần thiết, quy mơ, tính mục đích
và hiệu quả của việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Kết quả của giám đốc tài chính là phát hiện những mặt được và chưa
được của q trình phân phối, từ đó giúp tìm ra các biện pháp hiệu chỉnh
quá trình vận động của các nguồn tài chính, q trình phân phối của cải
xã hội theo các mục tiêu đã định nhằm đạt hiệu quả cao của việc tạo lập
và sử dụng các quỹ tiền tệ. Như vậy, giám đốc tài chính khơng chỉ đơn
thuần là kiểm tra giám sát quá trình phân phối của tài chính, mà cịn bao
gồm khả năng tư vấn cho các chủ sở hữu các nguồn tài chính, các quỹ
tiền tệ biết cách sử dụng các nguồn tài chính như thế nào cho hiệu quả
nhất, ngăn ngừa và phòng tránh rủi ro.
Chức năng giám đốc của tài chính có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, giám đốc tài chính là giám đốc bằng đồng tiền, thông qua
sự vận động của tiền vốn khi tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện
thanh toán và phương tiện cất trữ giá trị. Giám đốc tài chính khơng
đồng nhất với mọi loại kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền nói chung
trong xã hội.
19



Thứ hai, giám đốc tài chính được thực hiện thơng qua việc phân tích
đánh giá các chỉ tiêu về tài chính như: cơ cấu tài chính, hệ số nợ, hệ số an
toàn vốn, khả năng tự tài trợ, khả năng thanh tốn, khả năng sinh lời,…
Qua đó giúp cho các chủ thể rút ra được những kết luận và kịp thời hiệu
chỉnh đối với q trình phân phối. Nói cách khác, giám đốc tài chính đưa
tới khả năng tự kiểm tra giám sát của mỗi chủ thể trong xã hội nhằm giúp
họ đạt tới mục tiêu đề ra.
Thứ ba, giám đốc tài chính được tiến hành một cách thường xuyên,
liên tục và vì vậy nó mang tính hiệu quả, tính kịp thời. Do q trình phân
phối của tài chính, q trình vận động của các nguồn tài chính diễn ra
một cách thường xuyên liên tục nên giám đốc tài chính cũng diễn ra
thường xuyên liên tục. Chính nhờ vào đặc điểm kể trên mà giám đốc tài
chính đem lại hiệu quả và có tác dụng rất kịp thời.
Trong thực tiễn, cơng tác giám đốc - kiểm tra tài chính được tiến
hành rộng rãi trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của tài chính,
thơng qua tất cả các khâu của hệ thống tài chính. Giám đốc tài chính phát
huy tác dụng to lớn đối với đời sống kinh tế - xã hội:
+ Giám đốc tài chính đảm bảo cho quá trình phân phối của tài chính
diễn ra một cách đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế
khách quan, đáp ứng được yêu cầu của mọi chủ thể trong xã hội.
+ Giám đốc tài chính góp phần thúc đẩy việc sử dụng các yếu tố
nguồn lực (vật tư, lao động, tiền vốn) trong xã hội một cách tiết kiệm và
hiệu quả.
+ Giám đốc tài chính góp phần thiết lập và thực thi kỷ luật tài chính
trong phạm vi mỗi chủ thể và góp phần thúc đẩy việc nâng cao ý thức
chấp hành các luật lệ tài chính của Nhà nước.
Là những thuộc tính khách quan vốn có bên trong của phạm trù tài
chính, chức năng phân phối và chức năng giám đốc của tài chính có mối
liên hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ với nhau. Chính sự hiện diện của chức
năng phân phối đã địi hỏi sự cần thiết phải có chức năng giám đốc để

đảm bảo cho quá trình phân phối được đúng đắn, hợp lý, theo mục tiêu

20


đã định. Trong thực tế, hoạt động giám đốc - kiểm tra tài chính có thể
diễn ra đồng thời với hoạt động phân phối, cũng có thể diễn ra độc lập
tương đối, không đi liền ngay với hoạt động phân phối mà có thể đi trước
hoặc sau khi hoạt động phân phối kết thúc.
Việc phân định các chức năng của tài chính là q trình nhận thức
chủ quan của con người về các khả năng khách quan phát huy tác dụng
xã hội của một phạm trù kinh tế. Vì vậy, việc nhận thức đó khơng tránh
khỏi đưa đến những ý kiến khác nhau về các chức năng của tài chính.
Trong q trình khái qt lý luận, có ý kiến cho rằng tài chính cịn có
chức năng tổ chức chu chuyển vốn, nhưng như đã phân tích ở trên, đối
tượng phân phối của tài chính là các nguồn tài chính trong q trình vận
động của nó. Do đó, nội dung của chức năng phân phối đã bao hàm cả
việc tổ chức chu chuyển vốn trong xã hội, không cần tách thành một
chức năng độc lập của tài chính.
Cũng có ý kiến cho rằng, tài chính cịn có chức năng kích thích hay
điều tiết hoạt động kinh tế - xã hội. Tuy nhiên có thể thấy rằng đấy là vai
trị của tài chính, là kết quả của việc vận dụng chức năng phân phối và
chức năng giám đốc của tài chính, chứ khơng phải là một chức năng của
tài chính.
1.4. HƯ THèNG TµI CHÝNH

1.4.1. Khái niệm
Như đã phân tích ở phần bản chất của tài chính, các mối quan hệ tài
chính nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội vô cùng phong phú, đa
dạng và phức tạp. Tính đa dạng, phong phú của các hoạt động tài chính

bắt nguồn từ tính đa dạng của các hoạt động kinh tế - xã hội, mà hoạt
động tài chính là một bộ phận trong đó. Ở mỗi lĩnh vực hoạt động khác
nhau các quan hệ tài chính mang những đặc trưng riêng khác nhau, các
quỹ tiền tệ đặc thù được hình thành và sử dụng cho những mục đích khác
nhau. Tuy nhiên giữa chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc, phụ
thuộc lẫn nhau trong sự vận động không ngừng của các nguồn tài chính,
tạo nên những mắt xích trong một chuỗi thống nhất thể hiện bản chất của
phạm trù tài chính. Đó là hệ thống tài chính.
21


Hệ thống tài chính là tổng thể các quan hệ tài chính trong các lĩnh
vực hoạt động khác nhau của nền kinh tế - xã hội, nhưng giữa chúng có
mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tạo lập, phân phối và sử
dụng các nguồn lực tài chính, các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế - xã
hội hoạt động trong các lĩnh vực đó.
1.4.2. Cấu trúc của hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính là một tập hợp gồm nhiều bộ phận khác nhau, có
mối quan hệ liên kết hữu cơ với nhau theo một trật tự thống nhất. Có thể
xem xét cấu trúc của hệ thống tài chính qua các tiêu thức sau:
1.4.2.1. Căn cứ vào hình thức sở hữu các nguồn lực tài chính
Hệ thống tài chính bao gồm hai bộ phận là tài chính Nhà nước và tài
chính phi Nhà nước.
Tài chính Nhà nước gắn liền với các hoạt động kinh tế, chính trị, xã
hội của Nhà nước. Nhà nước với quyền lực chính trị của mình tham gia
vào q trình phân phối của tài chính, tạo lập nên các quỹ tiền tệ thuộc sở
hữu Nhà nước và sử dụng chúng phục vụ cho mục đích chung của quốc
gia, của cộng đồng xã hội, phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của
mình. Tài chính Nhà nước bao gồm: Tài chính Nhà nước trực tiếp và tài
chính Nhà nước gián tiếp.

- Tài chính Nhà nước trực tiếp là tài chính của bộ máy Nhà nước.
Các cơ quan, đơn vị của bộ máy Nhà nước là chủ thể trực tiếp quản lý
các quỹ tiền tệ thuộc bộ phận tài chính này. Tài chính Nhà nước trực tiếp
bao gồm:
+ Tài chính của các cơ quan thuộc hệ thống lập pháp như Văn phòng
Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân các cấp.
+ Tài chính của các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp như Văn
phịng Chính phủ, văn phịng các Bộ, Ngành trung ương và các đơn vị
quản lý Nhà nước trực thuộc chúng, Văn phòng UBND các cấp và các
sở, ban ngành trực thuộc.
+ Tài chính của hệ thống cơ quan tư pháp như Viện kiểm sát nhân
dân các cấp, tòa án nhân dân các cấp.
22


- Tài chính Nhà nước gián tiếp là tài chính của các cơ quan, đơn vị
thuộc khu vực Nhà nước nhưng nằm ngồi bộ máy Nhà nước. Tài chính
Nhà nước gián tiếp bao gồm:
+ Tài chính các đơn vị sự nghiệp Nhà nước như các đơn vị thuộc lực
lượng vũ trang, an ninh quốc phòng, các trường học, nhà văn hóa, bệnh
viện, viện nghiên cứu,...
+ Tài chính của các DNNN bao gồm các doanh nghiệp tài chính
(NHTM, các cơng ty tài chính, các cơng ty bảo hiểm,...) và các doanh
nghiệp phi tài chính (các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và dịch vụ).
Trong các doanh nghiệp này, Nhà nước có thể sở hữu tồn bộ (cơng ty
trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên) hay một phần vốn kinh
doanh (công ty cổ phần) ở mức đủ để là người đại diện chủ sở hữu.
Tài chính phi Nhà nước gắn liền với hoạt động kinh tế của khu vực
tư nhân, biểu hiện qua hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và cá
nhân trong nền kinh tế. Tài chính khu vực tư luôn gắn liền với chức năng

kinh doanh của các chủ thể như các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách
nhiệm hữu hạn, cơng ty cổ phần, nhóm cá nhân kinh doanh... Vì vậy, tài
chính tư nhân có vai trò chủ yếu là tạo lập và sử dụng vốn nhằm tìm
kiếm và tối đa hóa lợi nhuận. Bên cạnh đó, tài chính khu vực tư cịn bao
gồm tài chính các hộ gia đình, tài chính các tổ chức xã hội hoạt động
khơng vì mục tiêu lợi nhuận như các t chc t thin.
Hệ THốNG TàI CHíNH

TàI CHíNH NHà NƯớC

Ti
chớnh
c quan
lp phỏp

Ti
chớnh
c quan
hnh
phỏp

Ti
chớnh
c quan
t phỏp

TàI CHíNH PHI NHà NƯớC

Ti chớnh Tài chính
doanh

các đơn
nghiệp
vị sự
nhà nước
nghiệp
Nhà nước

23

Tài chính
các tổ chức
kinh doanh
và doanh
nghiệp phi
nhà nước

Tài chính
dân cư
(hộ gia
đình)

Tài chính
các tổ
chức phi
Chính
phủ


1.4.2.2. Căn cứ vào mục tiêu của việc sử dụng các nguồn lực tài
chính trong việc cung cấp hàng hóa dịch vụ cho xã hội

Theo tiêu thức này, hệ thống tài chính bao gồm tài chính cơng và tài
chính tư.
Trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp, bên cạnh khu vực tư, Chính
phủ cũng tham gia sản xuất và cung ứng hàng hóa dịch vụ cho xã hội, và
vai trị của các hoạt động kinh tế của khu vực công ngày càng trở nên rất
quan trọng. Các loại hàng hóa dịch vụ được cung ứng hàng ngày có thể
chia thành hai loại: hàng hóa dịch vụ cơng và hàng hóa dịch vụ tư. Hàng
hóa dịch vụ tư được trao đổi trên thị trường trên cơ sở ngang giá, mang
tính kinh doanh và chủ yếu do khu vực tư thực hiện. Tuy nhiên, khu vực
tư không thể đáp ứng nhu cầu địi hỏi của cơng chúng đối với mọi loại
hàng hóa dịch vụ và phần lớn các hàng hóa dịch vụ cơng (đặc biệt là
hàng hóa dịch vụ cơng thuần túy) thuộc vai trị đảm nhiệm của Chính
phủ. Bởi nếu để cho khu vực tư cung cấp các hàng hóa dịch vụ cơng
cộng thì sẽ làm tăng chi phí, khơng hiệu quả và làm giảm phúc lợi xã hội.
Như vậy, tài chính cơng gắn liền với việc tạo ra và cung cấp các
hàng hóa, dịch vụ cơng cộng cho xã hội khơng vì mục tiêu lợi nhuận, gắn
liền với Nhà nước và các chủ thể công quyền, bao gồm: Ngân sách Nhà
nước, Tín dụng Nhà nước, Tài chính các cơ quan hành chính Nhà nước,
Tài chính các đơn vị sự nghiệp Nhà nước, Tài chính các tổ chức phi lợi
nhuận.
Tài chính tư gắn liền với việc tạo ra và cung cấp các hàng hóa, dịch
vụ tư hướng tới mục tiêu lợi nhuận, bao gồm: Tài chính dân cư (Hộ gia
đình), Tài chính các loại hình doanh nghiệp tư nhân, Tài chính các loại
hình doanh nghiệp Nhà nước (doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước hoặc có
vốn của Nhà nước).

24


Hệ THốNG TàI CHíNH


TàI CHíNH CÔNG

Ngõn
sỏch
Nh
nc

Tớn
dng
Nh
nc

Ti chớnh Ti chớnh
cỏc c cỏc n v
quan
s nghip
hnh
Nh nc
chớnh
Nh
nc

TàI CHíNH TƯ

Ti chớnh
cỏc t
chc phi
li nhuận


Tài chính
các loại
hình
doanh
nghiệp
tư nhân

Tài chính
dân cư
(hộ gia
đình)

Tài chính
các loại
hình
doanh
nghiệp
Nhà
nước

1.4.2.3 Căn cứ vào đặc điểm hoạt động của từng lĩnh vực tài chính
Trong từng lĩnh vực hoạt động khác nhau của nền kinh tế - xã hội,
hoạt động tài chính mang những đặc điểm riêng, có vai trị, cơ cấu tổ
chức riêng và ở đó có các quỹ tiền tệ đặc thù. Dựa trên tiêu thức này,
người ta chia hệ thống tài chính thành các khâu tài chính. Có thể chỉ ra
các tiêu chí chủ yếu của một khâu tài chính là:
- Một khâu tài chính phải là một điểm hội tụ của các nguồn tài chính,
là nơi thực hiện việc “bơm” và “hút” các nguồn tài chính. Nói cách khác,
được coi là một khâu tài chính nếu ở đó có các quỹ tiền tệ đặc thù được
tạo lập và sử dụng.

- Được coi là một khâu tài chính nếu ở đó việc tạo lập và sử dụng
các quỹ tiền tệ luôn gắn liền với một chủ thể phân phối xác định.
- Được xếp vào cùng một khâu tài chính nếu các hoạt động tài chính
có cùng tính chất, đặc điểm, vai trị, cùng hình thức thể hiện.
Hệ thống tài chính bao gồm các khâu: Tài chính doanh nghiệp, Ngân
sách Nhà nước, Bảo hiểm, Tín dụng, Tài chính hộ gia đình và cá nhân,
Tài chính các tổ chức xã hội.

25


×