TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MƠN HỌC: NHỮNG NGUN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN
TIỂU LUẬN
VAI TRÒ, HẠN CHẾ VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA
CHỦ NGHĨA TƯ BẢN. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 6 năm 2021
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
Điểm: ……………………………..
KÝ TÊN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1
1.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI........................................................................... 1
2.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU................................................................... 1
3.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......................................................... 1
4.
BỐ CỤC ĐỀ TÀI................................................................................... 2
NỘI DUNG................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN..........3
1.1. Khái niệm............................................................................................... 3
1.2. Lịch sử................................................................................................... 3
1.3. Các hình thái.......................................................................................... 4
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ , HẠN CHẾ VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN
CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN...................................................................... 6
2.1. Vai trò của chủ nghĩa tư bản................................................................... 6
2.2. Hạn chế của chủ nghĩa tư bản................................................................ 7
2.3. Xu hướng phát triển của chủ nghĩa tư bản............................................. 8
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN...................................................... 11
KẾT LUẬN................................................................................................ 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................... 19
MỞ ĐẦU
1.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chủ nghĩa là một học thuyết có lý luận chủ trương cách thức sinh hoạt của xã hội
hay con người. Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động
làm thuê. Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế - xã hội của loài người, xuất hiện
đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ trong lịng xã hội phong kiến châu Âu và
chính thực được xác lập như một hình thái xã hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ
XVII. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18 hình thái chính trị của “nhà nước tư bản chủ
nghĩa” dần dần chiếm ưu thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước
của chế độ phong kiến, quý tộc. Và sau này hình thái chính trị - kinh tế - xã hội tư bản
chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới.
Ngay từ khi xuất hiện cho đến ngày nay chủ nghĩa tư bản luôn là đối tượng
nghiên cứu và đành giá môn xã hội học của thế giới và đến tận hôn nay vẫn chưa thể
đánh giá nhất quán về vai trò và tương lai của chủ nghĩa tư bản.
Khi đề cập đến vai trò, hạn chế và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản thì
V.I.Lênin nhận xét rằng: “ Sự phát triển nhanh chóng và sự trì truệ là hai xu hướng
cùng song song tồn tại trong nền kinh tế độc quyền. Đó cũng chính là một biểu hiện
quan trọng thuộc chủ nghĩa tư bản độc quyền. Hai xu thế phát triển nhanh chóng và trì
truệ được thể hiện rõ qua vai trị và hạn chế của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy nhóm chúng
em chọn đề tài : “ Vai trị, hạn chế và xu hướng phát triển của Chủ nghĩa tư bản. Liên
hệ thực tiễn ” để tìm hiểu đánh giá, nhận xét đúng đắn ưu nhược điểm, tích cực hạn
chế của chủ nghĩa tư bản.
2.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu vai trò của chủ nghĩa tư bản đối sự phát triển của nền sản xuất xã hội.
Tìm hiểu về nhược điểm, hạn chế , những mâu thuẫn kinh tế cơ bản. Tìm hiểu về xu
hướng phát triển của chủ nghĩa tư bản.
3.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thơng tin, nghiên cứu và đưa ra những
nhận xét, đánh giá.
1
Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái qt và mơ tả, phân tích
và tổng hợp, các phương pháp liên ngành xã hội và nhân văn.
4.
BỐ CỤC ĐỀ TÀI
Tiểu luận được trình bày với nội dung gồm 3 chương chính:
Chương 1: Khái quát chung về Chủ nghĩa tư bản
Chương 2: Vai trò, hạn chế và xu hướng phát triển của chủ nghĩa tư bản
Chương 3: Liên hệ thực tiễn từ chủ
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1.1.
Khái niệm
Chủ nghĩa tư bản là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu
sản xuất và hoạt động sản xuất vì lợi nhuận.
Các đặc điểm đặc trưng của chủ nghĩa tư bản bao gồm: tài sản tư nhân, tích lũy tư bản,
lao động tiền lương, trao đổi tự nguyện, một hệ thống giá cả và thị trường cạnh tranh.
Trong nền kinh tế thị trường tư bản, việc điều hành và đầu tư được quyết định bởi chủ
sở hữu tài sản, tư liệu sản xuất hoặc khả năng sản xuất trong thị trường tài chính, trong
khi giá cả, phân phối hàng hóa và dịch vụ chủ yếu được quyết định bởi sự cạnh tranh
trong thị trường hàng hóa và dịch vụ.
1.2.
Lịch sử
Chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu tồn tại trên quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ xuất hiện
dưới dạng các hoạt động buôn bán, cho thuê và cho vay và đôi khi là ngành công
nghiệp quy mô nhỏ với một số lao động làm cơng ăn lương. Đã có một lịch sử rất dài
trong trao đổi hàng hóa đơn giản và sản xuất hàng hóa đơn giản, đó là nền tảng ban
đầu cho sự phát triển của tư bản từ trao đổi thương mại. "Thời kỳ chủ nghĩa tư bản"
theo Karl Marx có từ các thương gia thế kỷ 16 và các thành phố đô thị nhỏ. Marx biết
rằng lao động tiền lương đã tồn tại trên một quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ trước khi
ngành công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Các nước Hồi đã giáo sớm ban hành chính sách
kinh tế tư bản, di cư sang châu Âu thông qua các đối tác thương mại từ các thành phố
như Venice. Chủ nghĩa tư bản trong hình thức hiện đại có thể được bắt nguồn từ sự
xuất hiện của chủ nghĩa tư bản nông nghiệp và chủ nghĩa trọng thương trong thời kỳ
Phục hưng.
Các hình thức tư bản và trao đổi thương mại đã tồn tại nhiều năm trong phần
lớn lịch sử, nhưng nó khơng dẫn đến sự cơng nghiệp hóa hay chi phối q trình sản
xuất của xã hội. Do nó địi hỏi rất nhiều các điều kiện, bao gồm các công nghệ cụ thể
về sản xuất hàng loạt, khả năng độc lập, tư nhân và buôn bán phương tiện sản xuất,
một tầng lớp công nhân sẵn sàng bán sức lao động của mình để kiếm sống, khung pháp
lý thúc đẩy thương mại, cơ sở vật chất cho phép lưu thơng hàng hóa một quy mơ lớn
và an ninh cho sự tích lũy cá nhân. Nhiều điều kiện trong số này không tồn tại ở nhiều
nước thế giới thứ ba, mặc dù có nhiều vốn và lao động. Những trở ngại cho sự phát
triển của thị trường tư bản do đó ít kỹ thuật và xã hội, văn hóa và chính trị hơn.
1.3.
Các hình thái
- Chủ nghĩa tư bản tiên tiến
Chủ nghĩa tư bản tiên tiến là tình huống liên quan đến một xã hội mà trong đó mơ hình
tư bản đã được tích hợp và phát triển sâu và rộng rãi trong một thời gian dài.
- Chủ nghĩa tư bản tài chính
Trong loạt các phê phán chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa Mác và Lênin nhấn mạnh vai trò
của "Tư bản tài chính" là đã được cầm quyền quan tâm trong xã hội tư bản, đặc biệt là
trong các giai đoạn sau này.
- Chủ nghĩa trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương là một hình thức chủ nghĩa dân tộc của chủ nghĩa tư sớm ra
đời khoảng vào cuối thế kỷ thứ 16. Nó được đặc trưng bởi sự gắn bó giữa lợi ích kinh
doanh quốc gia với lợi ích của nhà nước và chủ nghĩa đế quốc; và do đó, bộ máy nhà
nước được sử dụng để thúc đẩy lợi ích kinh doanh quốc gia ở nước ngoài.
- Kinh tế thị trường tự do
Nền kinh tế thị trường tự do đề cập đến một hệ thống kinh tế tư bản nơi giá cả hàng
hóa và dịch vụ được đặt tự do bởi lực cung và cầu và được phép đạt đến điểm cân
bằng mà khơng có sự can thiệp của chính sách của chính phủ. Nó thường địi hỏi sự hỗ
trợ cho các thị trường cạnh tranh cao và sở hữu tư nhân của các doanh nghiệp sản xuất.
Laissez- faire là một hình thức kinh tế thị trường tự do rộng lớn hơn, nơi vai trò của
nhà nước bị hạn chế trong việc bảo vệ quyền sở hữu.
- Kinh tế thị trường xã hội
Một nền kinh tế thị trường xã hội là hệ thống thị trường tự do danh nghĩa, nơi mà sự
can thiệp của chính phủ vào việc hình thành giá được giữ ở mức tối thiểu, nhưng tiểu
bang cung cấp các dịch vụ quan trọng trong lĩnh vực an sinh xã hội, trợ cấp thất nghiệp
và công nhận quyền lao động thông qua thỏa thuận thương lượng tập thể quốc gia. Mơ
hình này nổi bật ở các nước phương Tây và Bắc Âu cũng như Nhật Bản, mặc dù có
cấu hình hơi khác nhau. Phần lớn các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân trong mơ
hình kinh tế này.
Chủ nghĩa tư bản Rhine đề cập đến mơ hình hiện đại của chủ nghĩa tư bản và sự thích
ứng của mơ hình thị trường xã hội tồn tại ở lục địa Tây Âu ngày nay.
- Chủ nghĩa tư bản nhà nước
Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một nền kinh tế thị trường tư bản thống trị bởi các doanh
nghiệp nhà nước, nơi mà các doanh nghiệp nhà nước được tổ chức thành các doanh
nghiệp thương mại, tìm kiếm lợi nhuận. Việc chỉ định đã được sử dụng rộng rãi trong
suốt thế kỷ 20 để chỉ định một số hình thức kinh tế khác nhau, từ sở hữu nhà nước
trong nền kinh tế thị trường đến các nền kinh tế chỉ huy của Khối Đông cũ.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền
Chủ nghĩa tư bản của công ty là nền kinh tế thị trường tự do hoặc hỗn hợp đặc trưng
bởi sự thống trị của các tập đoàn cấp bậc, quan liêu.
- Kinh tế hỗn hợp
Một nền kinh tế hỗn hợp là một nền kinh tế dựa trên thị trường bao gồm cả sở hữu tư
nhân và công cộng của các phương tiện sản xuất và can thiệp kinh tế thông qua các
chính sách kinh tế vĩ mơ nhằm sửa chữa thất bại thị trường, giảm thất nghiệp và giữ
lạm phát thấp. Mức độ can thiệp tại các thị trường khác nhau giữa các quốc gia khác
nhau. Một số nền kinh tế hỗn hợp, chẳng hạn như Pháp theo dirigisme, cũng có một
mức độ lập kế hoạch kinh tế gián tiếp trên một nền kinh tế chủ yếu dựa trên tư bản.
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ , HẠN CHẾ VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN
Vai trò của chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn: chủ nghĩa tư bàn cạnh tranh tự do
và chủ nghĩa tư bản độc quyền, mà nấc thang tột cùng của nó là chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước.
Trong suốt quá trình phát triển, nếu chưa xét đến hậu quả nghiêm trọng đã gây ra
đối với lồi người thì chủ nghĩa tư bản cũng có những đóng góp tích cực đối với phát
triển sản xuất. Đó là: • Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng loài người khỏi
"đêm trường trung cổ" của xã hội phong kiến; đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự
túc, tự cấp chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa, chuyển sản xuất
nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại.
•
Phát triển lực lượng sản xuất.
Q trình phát triển của chủ nghĩa tư bàn đã làm cho lực lượng sản xuất phát
triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao từ kỹ thuật thủ cơng
lên kỹ thuật cơ khí (thời kỳ của C.Mác và V.I. Lênin) và ngày nay các nước tư bản chủ
nghĩa cũng đang là những quốc gia đi đầu trong việc chuyển nền sản xuất của nhân
loại từ giai đoạn cơ khí hóa sang giai đoạn tự động hóa, tin học hóa và cơng nghệ hiện
đại. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và cơng nghệ là q trình giải phóng sức lao
động, nâng cao hiệu quả khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người, đưa nền
kinh tế của nhân loại bước vào một thời đại mới : thời đại của kinh tế tri thức.
•
Thực hiện xã hội hóa sản xuất.
Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới
mức điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là q trình xã hội hóa sản xuất cả chiều
rộng và chiều sâu. Đó là sự phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất tập
trung với quy mơ hợp lý, chun mơn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc, mối
liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, các lõnh vực ngày càng chặt chẽ, làm cho
các quá trình sản xuất phân tán được liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau thành
một hộ thống, thành một quá trình sản xuất xã hội.
Chủ nghĩa tư bản thông qua cuộc cách mạng công nghiệp đã lần đầu tiên biết tổ
chức lao động theo kiểu cơng xưởng, do đó đã xây dựng được tác phong công nghiệp
cho người lao động, làm thay đổi nền nếp, thói quen của người lao động sản xuất nhỏ
long xã hội phong kiến.
Chủ nghĩa tư bản lần đầu tiên trong lịch sử dã thiết lập nên nền dân chủ tư sản,
nền dân chủ này tuy chưa phải là hoàn hảo, song so với thể chế chính trị trong các xã
hội phong kiến, nô lệ, vẫn tiến bộ hơn rất nhiều bởi vì nó được xây dựng trên cơ sở
thừa nhận quyền tự đo thân thể của cá nhân.
Tóm lại, chủ nghĩa tư bản ngày nay với những thành tựu và đóng góp của nó dối
với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là sự chuẩn bị tốt nhất những điều kiện, tiền
đề cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nhưng bước chuyển
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn phải thông qua các cuộc cách mạng xã
hội. Dĩ nhiên, cuộc cách mạng xã hội sẽ diễn ra bằng phương pháp nào - hịa bình hay
bạo lực, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của từng
nước và bối cảnh quốc tế chung từng thời điểm, vào sự lựa chọn của các lực lượng
cách mạng.
Hạn chế của chủ nghĩa tư bản
Bên cạnh đóng góp tích cực nói trên, chủ nghĩa tư bản cũng có những hạn chế về
mặt lịch sử. Những hạn chế này được C. Mác và VILênin để cập ngay từ trong lịch sử
ra đời, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Trước hết, về lịch sử ra đời của chủ nghĩa tư bản như Mặc đã phân tích, chủ
nghĩa tư bản ra đời gắn liền với quá trình tích lũy ngun thủy của chủ nghĩa tư bản.
Thực chất, đó là q trình tích lũy tiền tệ nhờ vào những biện pháp ăn cướp, tước đoạt
đối với những người sản
xuất hàng hóa nhỏ và nơng dân tự do, nhờ vào hoạt động buôn bán, trao đổi
không ngang giá qua đó mà thực hiện sự bóc lột, nơ dịch đối với những nước lạc hậu.
Về q trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản, C Mặc cho rằng, đó là lịch sử
đầy máu và bùn nhơ, khơng giống như một câu chuyện tình ca, nó được sử sách ghi
chép lại bằng những trang đẫm máu và lửa không bao giờ phai
Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản là quan hệ bóc lột của các
nhà tư bản đối với cơng nhân làm thuê. Mặc dù so với các hĩnh thức bóc lột đã từng
tồn tại trong lịch sử, bóc lột tư bản chủ nghĩa cũng đã là một sự tiến bộ, song theo sự
phân tích của C. Mặc và V.I. Lênin thì chừng nào chủ nghĩa tư bản cịn tồn tại thì
chừng đó quan hệ bóc lột cịn tồn tại và sự bất bình đẳng, phân hóa xã hội vẫn là điều
không tránh
khỏi. Các cuộc chiến tranh thế giới với mục đích tranh giành thị trường, thuộc địa và
khu vực ảnh hưởng đã để lại cho loài người những hậu quả nặng nề: hàng triệu người
vô tội đã bị giết hại, sức sản xuất của xã hội bị phá hủy, tốc độ phát triển kinh tế của
thế giới bị kéo lùi lại hàng chục năm. Chủ nghĩa tư bản sẽ phải chịu trách nhiệm chính
trong việc tạo ra hố ngăn cách giữa các nước giàu và các nước nghèo trên thế giới (thế
kỷ XVIII chênh lệch về mức sống giữa nước giàu nhất và nước nghèo nhật mới chỉ là
2,5 lần, hiện nay số chênh lệch ấy là 197 lần số liệu 2017).
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới thứ ba bị trì trệ, suy thối. Điều này
cũng đã được Ngân hàng Thế giới khẳng định: ở châu Phi, Mỹ Latinh... hàng trăm
triệu người đã nhận thấy, đi cùng với tăng hưởng là sự suy tàn về kinh tế, phát triển
nhường chỗ cho suy thoái, ở một với nước Mỹ Latinh, GNP theo đầu người hiện nay
thấp hơn so với 10 năm trước đây. ở nhiều nước châu Phi, nó cịn thấp hơn cách đây 20
năm, một thế giới mà trong đó từ 20 năm nay ở châu Phi, từ 9 năm nay ở Mỹ La tinh
mức sống không ngừng giảm. Trong khi đó mức sống trong các vùng khác tiếp tục
tăng lên đó là điều hồn tồn khơng thể chấp nhận được”. Các cường quốc tư bản độc
quyền hàng mấy thế kỷ nay đã tăng cường vơ vét tài ngun, bóc lột nhân cơng các
nước nghèo và tìm cách khống chế họ trong vịng phụ thuộc thơng qua các con đường
xuất khẩu tư bản, viện trợ, cho vay... Kết quả là các nước nghèo không những bị cạn
kiệt về tài ngun mà cịn mắc nợ khơng trả được, điển hình là các quốc gia ở châu
Phi, Mỹ Latinh. Ở Braxin, người ta tính ra riêng số lãi mà Braxin phải trả trong năm
1988 bằng 288 triệu suất lương tôi thiểu hay bằng khoản xây nhà cho 30 triệu người,
Ữong khi đó ước tính khoảng 2/3 dân Braxin thiếu án.
Xu hướng phát triển của chủ nghĩa tư bản
Những thành tựu và hạn chế trên đây của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu
thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa ữình độ xã hội hóa cao của lực
lượng sản xuất với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Chủ
nghĩa tư bản càng phát triển, trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất ngày càng cao
thì quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng trở nên chật
hẹp so với nội dung vật chất ngày càng lớn lên của nó. Theo sự phân tích của C. Mác
và VI Lênin, đến một chừng mực nhất định, quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
sẽ bị phá vỡ và thay vào đó là một quan hệ sở hữu mới - sở hữu xã hội (sở hữu công
cộng) về tư liệu sản xuất
được xác lập để đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó cũng có
nghĩa là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị thủ tiêu và một phương thức sản
xuất mới - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa sẽ ra đời và phủ định phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, những thay đổi của chủ nghĩa tư bản hiện nay nói lên rằng, chủ nghĩa
tư bản vẫn đang tiếp tục điều chỉnh để thích ứng trước những biến động, mâu thuẫn
bên trong và ngoài nước. Những điều chỉnh mới của chủ nghĩa tư bản ỏ trên đã cho
chúng ta thấy, chủ nghĩa tư bản trước mắt vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển, mặc dù sự
phát triển này không phải là vĩnh hằng và khổng phải là vô hạn. Do vậy, đồng thời với
việc vững tin rằng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản cuối cùng sẽ thay thế chủ
nghĩa tư bản, cũng cần phải nhận thức đầy đủ về tính lâu dài của q trình này. cần
chuẩn bị kỹ càng cho khả năng cùng chung sống, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh với
chủ nghĩa tư bản, đồng thời tham khảo kinh nghiệm của chủ nghĩa tư bản để xây dựng
thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Mặt khác, cũng phải nhận thức rằng, chủ nghĩa tư bản trong q trình phát triển
của nó vẫn ln luôn hàm chức một nhân tố tự hạn chế và tự phủ định do chính mâu
thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sinh ra. Mặc dù chủ nghĩa tư
bản ngày nay đã có điều chỉnh nhất định trong quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối,
và ở một chừng mực nhất định, sự điều chỉnh đó cũng đã phần nào làm giảm bớt tính
gay gắt của mâu thuẫn này song tất cả những điều chỉnh ấy vẫn chưa vượt ra khỏi
khuôn khổ của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, mâu thuẫn vẫn khơng bị thủ
tiêu, đơi kháng về lợi ích trong các trình sản xuất vẫn cịn đó, mâu thuẫn giai cấp vẫn
tồn tại... Bên cạnh mâu thuẫn cơ bên với chức giải quyết được lại xuất hiện thêm nhiều
mâu thuẫn mới phát sinh, đầy chủ ngho tự bàn vào những khó khăn mới về kinh tế,
chính trị, xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau đặc biệt là trong những năm cuối thế
kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Đó là mâu thuẫn giữa năng lực sản xuất vơ hạn với tiêu
dùng và khả năng thanh toán hạn chế; mâu thuẫn giữa Khả năng sản xuất vô hạn với
nguồn tài nguyên hạn chế mâu thuẫn giữa nhu cầu nhất thế học Kinh tế Quốc tế và lợi
ích quốc gia, mâu thuẫn giữa các nước chủ nghĩa tư bản trung tâm với các nước ngoại
vi Những mâu thuẫn này diễn ra đồng thời, vẫn là những thách thức vô đe dọa sự tồn
vong của chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên như C. Mác với V.L. Lênin đã nhận định phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa Không tự tiêu Vọng và phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa cũng
khơng tự phát hình thế mới mà phải được thực hiện thơng qua cuộc cách mạng xã hội,
trong đó giai cấp có sứ mệnh ch sử lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội này chính là giai
cấp cơng nhân.
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Sau hơn 20 năm, bắt đầu từ năm 1986, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Thành tựu này chứng tỏ đường lối đổi
mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Từ khi tiến
hành công cuộc đổi mới, các Văn kiện Đại hội lần thứ VI, VII, VIII, IX của Đảng ta
ngày càng tiếp cận sâu hơn, đầy đủ hơn và hiệu quả hơn vấn đề chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa tư bản nhà nước trong bức tranh tồn cảnh đa dạng hố sở hữu và các thành
phần kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong Văn
kiện Đại hội lần thứ X, với tinh thần đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, Đảng ta tiếp tục đề cập tới vấn đề chủ nghĩa
tư bản nhà nước với chủ trương: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (tồn dân, tập thể, tư
nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản
nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”.
Sinh thời, cả C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, chủ
nghĩa xã hội trước hết là sản phẩm khách quan của chủ nghĩa tư bản và điều đó tất yếu
địi hỏi những người cộng sản, nhân dân lao động cùng với nhà nước kiểu mới của
mình phải biết tiếp thu, kế thừa tất cả các giá trị tiến bộ được tạo ra bởi chủ nghĩa tư
bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Do những hạn chế lịch sử, C.Mác và
Ph.Ăngghen đều chưa đề cập đến chủ nghĩa tư bản nhà nước trong học thuyết kinh tế
chính trị học của mình. Vấn đề này đến V.I.Lênin mới được đề cập tới. Chủ nghĩa tư
bản nhà nước được V.I.Lênin vận dụng vào thực tiễn nước Nga năm 1921 trong Chính
sách kinh tế mới (NEP), sau bước thử nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng “con
đường trực tiếp” khơng thành cơng. Vị trí và vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản nhà
nước được V.I.Lênin phân tích rõ ràng trong bài báo Tai hoạ sắp đến và những phương
pháp ngăn ngừa tai hoạ đó. Trong bài báo này, V.I.Lênin viết: “Chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ
đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang
được gọi là chủ nghĩa xã hội thì khơng có một nấc thang nào ở giữa cả”.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng như chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước đều có chung cội nguồn kinh tế sâu xa - đó là q trình tập
trung hoá và xã hội hoá lực lượng sản xuất một cách tất yếu, khách quan, gắn liền
trước hết với các thành tựu khoa học, kỹ thuật hiện đại đạt được cuối thế kỷ XIX - đầu
thế kỷ
XX. Quá trình vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện Đảng Cộng sản
cầm quyền, Nhà nước kiểu mới của những người cộng sản và nhân dân lao động trực
tiếp quản lý và điều hành xã hội là một quá trình hợp quy luật. Quá trình này ngày
càng mang nhiều yếu tố tự giác hơn và tạo nên địa bàn mới ngày càng thuận lợi hơn
cho sự phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất và đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội trên những cơ sở vững chắc hơn.
Đối với chủ nghĩa tư bản nhà nước, V.I.Lênin đặc biệt quan tâm tới việc phải
thực hiện nó một cách nghiêm túc và có ngun tắc. Theo ơng, các nước từ sản xuất
nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa bắt buộc
phải đi qua “hai cái trạm” là chủ nghĩa tư bản nhà nước và kiểm kê - kiểm soát. Chính
kiểm kê - kiểm sốt đảm bảo cho chủ nghĩa tư bản nhà nước vận động theo quỹ đạo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu thiếu “cái trạm” này, hoặc có nhưng hoạt động thiếu
ngun tắc và khơng có hiệu quả thì chủ nghĩa tư bản nhà nước chỉ mang lại những
điều “xấu xa” như V.I.Lênin đã phân tích trong tác phẩm nổi tiếng Chủ nghĩa đế quốc
– giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. Và đương nhiên, con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội sẽ không hiện thực. Việc phân tích lại tồn bộ tình hình về chủ nghĩa tư
bản nhà nước và thực tiễn nước Nga khi đó đã dẫn V.I.Lênin tới kết luận quan trọng
rằng, trong điều kiện một nước tiểu nông kém phát triển, tiềm lực kinh tế, kỹ thuật nhỏ
bé, cần phải biết sử dụng các hình thức kinh tế q độ. Chính tại đây, vai trò của các
quan hệ thị trường và tư bản chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng xã hội mới – xã hội
chủ nghĩa – đã được xác định.
Quan niệm chủ yếu của V.I.Lênin là, trong một nước kém phát triển, giai cấp vơ
sản khơng thể tự mình xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội. Nó cần phải và không
thể không mượn tay, mượn sức của các giai cấp khác (nông dân, tư sản, tiểu tư sản) để
hồn thành sự nghiệp đó. Lơgíc vấn đề dẫn tới sự cần thiết phải phát triển các quan hệ
thị trường (cơ sở cho sự phát sinh không thể tránh khỏi của các quan hệ tư bản chủ
nghĩa) với tư cách phương pháp, thủ đoạn chứ khơng phải là mục đích của cách mạng.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong khuôn khổ đó trở thành hình thức q độ để vừa
mượn được sức của các giai cấp khác, vừa đảm bảo được tính chất xã hội chủ
nghĩa. Theo
nghĩa như vậy, quan điểm sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trở thành tư tưởng trung
tâm của NEP. Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong quan niệm của V.I.Lênin là kết quả
chung của hai xu hướng vận động trong đời sống thực tiễn. Xu hướng thứ nhất bắt
nguồn từ việc chấp nhận các quan hệ thị trường để thuyết phục người tiểu nông và
thiết lập liên minh kinh tế giữa giai cấp vô sản (thông qua đại diện của nó là Nhà nước
vơ sản) với giai cấp nơng dân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sự chấp nhận đó, trong điều kiện một nước tiểu nơng, tất yếu sinh ra các quan hệ
tư bản chủ nghĩa. Vấn đề đặt ra là làm thế nào, bằng hình thức nào để hướng sự phát
triển tự phát đó vào quỹ đạo, đặt nó dưới sự kiểm sốt của Nhà nước và có lợi cho chủ
nghĩa xã hội. Câu trả lời là chủ nghĩa tư bản nhà nước. Xu hướng thứ hai nảy sinh ra từ
chính nhu cầu nội tại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để hồn thành sứ
mạng này, Nhà nước vơ sản cần có vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức và quản lý cao
cấp, cũng như cần có các quan hệ kinh tế xã hội hố, mà tất cả những yếu tố đó chỉ có
thể có được từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, từ các cơng ty của nó. Với nhận
thức rằng, đó là những thành tựu của lịch sử phát triển của nhân loại, việc tận dụng
chúng thông qua quan hệ hợp tác với các nước tư bản chủ nghĩa và công ty của chúng
trở thành một yêu cầu chính đáng và có tính bắt buộc đối với những nước đi sau. Cách
thức để đáp ứng nhu cầu này, về nguyên tắc, cũng thông qua chủ nghĩa tư bản nhà
nước.
Vậy, vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế của
Việt Nam hiện nay cần được quan niệm như thế nào. Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong
điều kiện của Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa tư bản nhà nước đặc biệt – chủ nghĩa tư
bản nhà nước kiểu mới – là sự kết hợp giữa tư bản và Nhà nước vô sản, được thực hiện
trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm quyền và được quản lý điều hành trực tiếp bởi
Nhà nước kiểu mới – Nhà nước của dân, do dân và vì dân, vận động trong quỹ đạo
định hướng xã hội chủ nghĩa và tạo điều kiện cho đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội
từng bước vững chắc.
Với quan niệm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
việc trở lại vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay trở thành khơng thể
tránh khỏi, xét từ bất cứ góc độ nào. Định hướng xã hội chủ nghĩa (dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh) và mục tiêu phát triển với tốc độ cao và
lâu bền được
thực hiện trong điều kiện thách thức gay gắt của thời đại đã và đang đặt ra hai vấn đề
phải đồng thời được giải quyết:
Một là, nguồn vốn. Đối với một nước nghèo như nước ta, nguồn vốn là vấn đề
sống còn của bất kỳ định hướng phát triển nào. Lơgíc vấn đề dẫn tới chỗ làm sao để
huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cả trong lẫn ngồi nước.
Hai là, lựa chọn các hình thức kinh tế quá độ thích hợp. Mục tiêu của sự lựa chọn
này là nâng cao trình độ xã hội hố các quan hệ kinh tế, đồng thời thoả mãn yêu cầu về
một định hướng phát triển cụ thể của quá trình xã hội hố đó - định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Trong những năm qua, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế
thị trường, khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế và khai thơng các
dịng vốn quốc tế được thực hiện khá thành cơng. Trong một chừng mực nào đó,
đường lối này đáp ứng tích cực nhu cầu về nguồn lực phát triển và nâng cao trình độ
xã hội hố của nền kinh tế. Trên quan điểm mácxít, đây là một bước tiến thực sự lên
chủ nghĩa xã hội.
Song, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xác định rõ ràng và cụ thể về các phương
thức kinh tế có khả năng thoả mãn cả hai yêu cầu: nguồn vốn cho tăng trưởng và bảo
đảm bảo định hướng trong khuôn khổ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa (vì các nguồn vốn nước ngồi, trên thực tế, chủ yếu là từ các nước và
các công ty tư bản chủ nghĩa).
Vì những lẽ đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và trong khuôn khổ định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề cần phải
được đặt ra và có kết luận rõ ràng.
Vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay, trên nhiều điểm có tính
nguyên tắc là trùng hợp với cách đặt vấn đề của V.I.Lênin cách đây hơn 80 năm.
Tuy nhiên, cần nhận thức rõ ràng sự khác biệt của hoàn cảnh phát triển giữa nước
ta hiện nay và Liên Xô những năm 20 của thế kỷ trước (bao gồm trong đó cả những
khác biệt căn bản về điều kiện quốc tế) là yếu tố chế định một cách tiếp cận hiện đại
đối với vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước
Tất cả các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế tác động qua lại, đan xen
và chính sự đan xen đó đã hình thành hình thức sở hữu hỗn hợp, mang tính phổ biến
trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự dung hợp giữa sở hữu nhà nước và
sở hữu của nhà tư bản (trong và ngoài nước) trở thành sở hữu chung của nhà nước và
nhà tư bản. Đây chính là hình thức sở hữu đặc trưng nhất của một thời kỳ quá độ lâu
dài, như V.I.Lênin từng gọi, là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
là thời kỳ nhà tư bản cày trên luống cày của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội ra
đời từ những gì mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được, là thời kỳ khơng cịn chủ nghĩa tư
bản thuần t nhưng cũng chưa có chủ nghĩa xã hội đầy đủ, thời kỳ mà nhân dân đang
bắc những nhịp cầu nhỏ vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong những định hướng hợp quy
luật để cải tạo nền kinh tế nước ta theo hướng chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, chủ
nghĩa tư bản nhà nước là “cầu nối”, là “nấc thang” trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Vị
trí, vai trị của chủ nghĩa tư bản nhà nước được biểu hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản nhà nước là phương thức cải tạo có hiệu quả nền kinh
tế còn kém phát triển của nước ta, sớm tạo dựng được các cơ sở công nghiệp lớn và tạo
ra địa bàn mới để phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hố
ngày càng cao. Một mặt, nó thúc đẩy nhanh sự phát triển các hình thức sở hữu và các
thành phần kinh tế. Mặt khác, nó dẫn dắt và làm chuyển hố các hình thức sở hữu và
các thành phần kinh tế vận động theo quỹ đạo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, chủ nghĩa tư bản nhà nước góp phần quan trọng vào việc giải phóng các
lực lượng sản xuất và các tiềm năng của đất nước. Nó thu hút và phát huy tối đa các
nguồn lực trong và ngoài nước, đồng thời là cơng cụ hữu hiệu để thực hiện cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá và đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển một cách độc
lập, tự chủ.
Thứ ba, chủ nghĩa tư bản nhà nước có tính chất “tập trung”, “được tính tốn”,
“được kiểm sốt và xã hội hố” nên nó là một trong những phương thức tổ chức và
quản lý nền sản xuất lớn, hiện đại. Nó cũng là phương tiện có hiệu quả để thay thế, sửa
chữa những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, góp phần chống
nạn tham nhũng và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước chủ yếu bằng các giải pháp
kinh tế đối với các hoạt động của nền kinh tế và chống lại chủ nghĩa quan liêu, bệnh
giấy tờ, hình thức chủ nghĩa đang cịn ít nhiều tồn tại ở nước ta.
Thứ tư, doanh nghiệp cổ phần sẽ ngày càng phát triển và trở thành hình thức tổ
chức kinh tế phổ biến trong nền kinh tế của nước ta. Doanh nghiệp nhà nước, kể cả
một số tổng công ty nhà nước cũng đang được đẩy mạnh cổ phần hoá trên diện rộng.
Trong vấn đề này, với tính chất hiện đại và tính đa dạng được thực hiện thơng qua các
hình thức kinh tế cụ thể, chủ nghĩa tư bản nhà nước là yếu tố định hướng xã hội chủ
nghĩa trực tiếp đối với các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Qua đó, chủ
nghĩa tư bản nhà nước thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Với tính
chất là một phương thức tổ chức kinh tế – chính trị hiện đại, chủ nghĩa tư bản nhà
nước là yếu tố quan trọng giúp chúng ta hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với ba nội dung cụ thể là: nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý
của nhà nước; phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; phát triển mạnh các thành phần kinh
tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, chủ nghĩa tư bản nhà nước
cũng là một phương thức hiệu quả để đẩy nhanh tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh tồn cầu
hố và hội nhập kinh tế quốc tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Trên cơ sở nhận thức ngày càng sâu sắc về vai trò và ý nghĩa của kinh tế tư bản
nhà nước đối với sự phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển đất nước nói chung, tại
Đại hội lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển đa dạng kinh tế
tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh
tế tư bản tư nhân trong nước và ngồi nước…”.
Tiếp tục quan điểm đó, Đại hội X của Đảng nhấn mạnh kinh tế tư bản nhà nước
là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, được đối xử bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài bên
cạnh các thành phần kinh tế khác.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước là một tất
yếu, hợp quy luật. Để thực hiện thắng lợi chủ nghĩa tư bản nhà nước kiểu mới – sự kết
hợp biện chứng giữa tư bản và Nhà nước vô sản – chủ thể kinh tế – chính trị kiểu mới
của những người cộng sản và nhân dân lao động, chúng ta cần mạnh dạn đổi mới trong
cả lĩnh vực tư duy và tổ chức hoạt động thực tiễn. Nếu nhận thức và vận dụng chủ
nghĩa tư bản nhà nước kiểu mới một cách nghiêm túc và có nguyên tắc như di
huấn của