Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

XU HƯỚNG SỬ DỤNG DỊCH VỤ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH COVID19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.61 KB, 17 trang )

XU HƯỚNG SỬ DỤNG DỊCH VỤ THANH TỐN KHƠNG DÙNG
TIỀN MẶT DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH COVID-19

Với ưu điểm thuận tiện, tiết kiệm chi phí, giúp thanh tốn các giao dịch giá
trị lớn và ở xa, hình thức thanh tốn không dùng tiền mặt (TTKDTM) giúp hạn chế
lưu thông tiền mặt trong nền kinh tế, từ đó giảm chi phí xã hội, minh bạch hóa
hoạt động tài chính, đảm bảo an tồn cho người sử dụng, góp phần phịng chống
rửa tiền và tài trợ khủng bố. Chỉ trong năm 2019, số lượng giao dịch TTKDTM
toàn thế giới đã tăng khoảng 14%, đạt mức 708,5 tỷ giao dịch, mức tăng cao nhất
trong thập kỷ vừa qua. Bước sang năm 2020, hoạt động TTKDTM đã có bước phát
triển mạnh mẽ dưới những tác động chưa từng có tiền lệ của đại dịch Covid-19.
Bài viết này khái quát lại sự phát triển của hoạt động TTKDTM thời gian qua tại
Việt Nam, đồng thời đưa ra những đánh giá về xu hướng TTKDTM dưới tác động
của dịch Covid-19 dựa trên kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu Viện Nghiên
cứu Khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng.

1. Thực trạng phát triển dịch vụ TTKDTM tại Việt Nam
Hành lang pháp lý hỗ trợ TTKDTM khơng ngừng được hồn thiện
TTKDTM tại Việt Nam thời gian qua đã có những bước phát triển mạnh mẽ
cả về khối lượng giao dịch, loại hình dịch vụ, số lượng khách hàng và tổ chức cung
cấp dịch vụ. Môi trường pháp lý cho hoạt động này ngày càng minh bạch và hồn
thiện; cùng với đó, tiềm năng phát triển cao nhờ lợi thế về tiến bộ khoa học công
nghệ và dân số trẻ là những nhân tố thu hút sự tham gia của nhiều đơn vị cung ứng
dịch vụ.
1


Nhằm phát triển hoạt động TTKDTM, Chính phủ đã đưa ra nhiều chủ
trương, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy triển khai hoạt động này. Tiêu biểu phải kể đến
việc ban hành Đề án phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 theo
Quyết định số 2545/QĐ-TTg ngày 30/12/2016 (Đề án 2545), trong đó đề xuất


khung giải pháp phát triển TTKDTM, đồng thời quy trách nhiệm cụ thể đến các bộ,
ban ngành có liên quan. Đến ngày 26/5/2020, Chính phủ tiếp tục ban hành Chỉ thị
số 22/CT-TTg yêu cầu các đơn vị chức năng đẩy mạnh việc thực hiện các giải
pháp, thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra trong Đề án 2545.
Trong lĩnh vực hành chính cơng, việc hạn chế sử dụng tiền mặt được quán
triệt và đẩy mạnh theo Quyết định số 241/QĐ-TTg ngày 23/2/2018 của Chính phủ:
Phê duyệt đề án đẩy mạnh thanh tốn qua ngân hàng với các dịch vụ cơng. Cùng
với đó, Chính phủ thành lập và đưa vào vận hành Cổng dịch vụ công quốc gia,
giúp người dân, doanh nghiệp thực hiện thanh tốn phí, lệ phí trực tuyến khi thực
hiện các dịch vụ công. Điều này cho thấy quyết tâm của Chính phủ trong việc tạo
sự chuyển biến rõ rệt về TTKDTM trong nền kinh tế, đồng thời đảm bảo an toàn,
an ninh, nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát của các cơ quan nhà nước.
Về phía ngành Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tham mưu cho
Chính phủ cũng như trực tiếp ban hành nhiều thông tư quy định, hướng dẫn nhằm
hoàn thiện hành lang pháp lý về hoạt động TTKDTM như: (i) Nghị định số
80/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về TTKDTM, (ii)
Thông tư 28/2019/TT-NHNN ngày 25/12/2019 sửa đổi, bổ sung Thông tư
19/2016/TT-NHNN ngày 30/06/2016 của NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân
hàng, (iii) Thông tư 23/2019/TT-NHNN ngày 22/11/2019 của NHNN sửa đổi, bổ
sung Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/11/2014 của NHNN hướng dẫn dịch
vụ trung gian thanh tốn, (iii) Thơng tư số 02/2019/TT- NHNN ngày 28/02/2019
2


của NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/08/2014
hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán, (iv) Thông tư 44/2018/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư số
36/2012/TT-NHNN ngày 28/12/2012 của NHNN quy định về trang bị, quản lý, vận
hành và đảm bảo an toàn hoạt động của máy giao dịch tự động.

Giao dịch thanh tốn khơng dùng tiền mặt tăng trưởng nhanh
Trước hết, giá trị và khối lượng giao dịch TTKDTM có sự tăng trưởng
mạnh. Tính từ năm 2015 đến nay, tốc độ tăng trưởng giao dịch qua kênh điện thoại
di động bình quân tăng 61,47%/năm về số lượng và 144,7%/năm về giá trị. Trong
khi đó, thanh toán qua kênh điện thoại di động đạt hơn 291,8 triệu giao dịch với giá
trị đạt gần 3 triệu tỷ đồng (NHNN, 2020). Theo khảo sát của PwC, Việt Nam là thị
trường tăng trưởng nhanh nhất về thanh toán di động trong năm 2019 với tỷ lệ
người tiêu dùng sử dụng thiết bị di động để thanh toán hàng hóa dịch vụ tăng từ
37% lên 61%. Trong 10 tháng đầu năm 2020, số lượng giao dịch qua kênh điện
thoại di động đạt hơn 918,8 triệu giao dịch, với giá trị khoảng 9,6 triệu tỷ đồng,
tăng 123,9% về số lượng và 125,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2019.
Hình 1: Tổng giá trị giao dịch

Hình 2: Tổng khối lượng giao

qua

dịch qua

điện thoại và Internet

điện thoại và Internet

3


2017

2018


25

600

2019

2017

10
5.58
5
0

418
Triệu giao dịch

Triệu tỉ đồng

15

2019

500

21.92

20

551
2018


400
300
200
100

Điện thoại

0

Internet

Điện thoại

Internet

Nguồn: NHNN, 2020
Số lượng đơn vị cung cấp dịch vụ TTKDTM ngày càng nhiều. Theo NHNN
tính đến tháng 10/2020, cả nước có 78 ngân hàng cung cấp dịch vụ Internet
Banking và 49 ngân hàng có triển khai Mobile Banking. Bên cạnh các đơn vị cung
cấp dịch vụ truyền thống là hệ thống các ngân hàng thương mại, trong những năm
gần đây, thị trường Việt Nam cịn chứng kiến sự gia nhập của các cơng ty Fintech.
Theo số liệu từ Vụ Thanh toán NHNN, số lượng các công ty Fintech tham gia cung
ứng dịch vụ trên thị trường Việt Nam đã tăng gần bốn lần, từ con số khoảng 40
công ty cuối năm 2016 lên tới hơn 150 công ty ở thời điểm hiện tại, trải rộng trên
nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong số đó, có đến 47% cơng ty làm về dịch vụ thanh
tốn, chiếm tỷ lệ cao nhất trong thị trường.
Thị hiếu người tiêu dùng thay đổi khi sử dụng các dịch vụ thanh tốn. Theo
dữ liệu từ Cơng ty cổ phần thanh toán quốc gia (Napas), người tiêu dùng đang dịch
chuyển từ rút tiền mặt tại các ATM sang TTKDTM. Cụ thể, tổng giá trị giao dịch

chuyển mạch ATM (rút tiền mặt) chiếm 84,4% tổng giá trị giao dịch qua hệ thống
Napas vào năm 2015, con số này đã giảm mạnh và chỉ chiếm 5,4% vào năm 2020.
Trong khi đó, tỷ trọng về giá trị giao dịch chuyển tiền nhanh 24/7 qua hệ thống
Napas đã tăng 11 lần, từ 6,3% vào năm 2015 lên 93,5% vào năm 2020.

4


Hình 3: Tỷ trọng giá trị giao

Hình 4: Tỷ trọng khối lượng

dịch

giao dịch các hình thức thanh tốn

các hình thức thanh toán qua Napas

qua Napas

84.40%

100%
90%
80%
70%
60%
50%
40%
30%

20%
10%
0%

2015

Nov-20

93.50%

5.40%

M
AT

tt
( rú

t
mặ
n
iề

)

n
yể
u
Ch


tiề

ha
nn

nh

4
(2

/7

)

2015

89.70%

0%
1080%
%
60%
0
40%
20%

Nov-20
66.60%

26.60%


M
AT

t
(rú

t
mặ
n
tiề

1.10%

)

n
yể
u
Ch

tiề

ha
nn

nh

4
(2


/7

)

Nguồn: Napas, 2020
Cơ sở hạ tầng hệ thống thanh toán được đầu tư mở
rộng, nâng cao chất lượng
Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHNN (IBPS) được vận
hành ổn định. Là một trong những huyết mạch quan trọng đảm bảo cho hoạt động
TTKDTM giữa các ngân hàng, kể từ năm 2002 với sự hỗ trợ của World Bank, hệ
thống IBPS liên tục được đầu tư, nâng cấp. Cho tới nay, hệ thống cơ bản đáp ứng
nhu cầu thanh toán của các TCTD về tốc độ và dung lượng, độ bảo mật và an tồn,
với thời gian thực hiện một lệnh thanh tốn chỉ diễn ra không quá 10 giây. So với
cùng kỳ năm 2016, trong 10 tháng đầu năm 2020, giao dịch qua hệ thống IBPS
tăng 83,67% về số lượng và 135,04% về giá trị.
Hình 5: Tổng giá trị và khối lượng giao dịch qua hệ thống IBPS

5


Nguồn: Ngân hàng Nhà nước, 2020
Hệ thống thanh toán tại Napas phát triển nhanh. Kể từ khi thành lập năm
2004, Napas đã phát triển hệ thống mạng lưới thanh toán với 18.600 máy ATM,
261.000 máy POS, trên 100 triệu thẻ của 48 ngân hàng thương mại trong nước và
quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam. Tính đến cuối tháng 9/2020, tồn quốc có
hơn 19.570 ATM và 274.539 POS, tăng lần lượt khoảng 4,4% và 2,5% so với cùng
kỳ năm 2019. (NHNN, 2020). Đây là cơ sở để các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh
toán triển khai sản phẩm dịch vụ tới khách hàng, góp phần thúc đẩy hoạt động
TTKDTM tại Việt Nam

Kết nối thanh toán điện tử các dịch vụ công được triển khai hiệu quả.
Thực hiện theo chỉ đạo của Chính phủ, các tổ chức cung ứng dịch vụ trung
gian thanh toán đã chủ động thực hiện kết nối với Cổng dịch vụ công quốc gia,
nhằm tạo thuận tiện cho người dân thực hiện thanh tốn phí, lệ phí điện tử. Tính
đến cuối năm 2019, có khoảng 50 ngân hàng hồn thành kết nối thanh tốn thuế
điện tử với thuế, hải quan trên 63 tỉnh/thành phố, 95% số thu hải quan được thực
hiện qua ngân hàng; 99% doanh nghiệp đăng ký nộp thuế điện tử. Bên cạnh hoạt
động thu thuế và hải quan, liên kết với ngân hàng thương mại còn được triển khai

6


trên các lĩnh vưc như thu tiền điện, nước, thu học phí, thu viện phí, cũng như chi
trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội.
2. Tác động của dịch Covid-19 đến hành vi sử dụng dịch vụ TTKDTM
Đại dịch Covid-19 bùng phát mang đến mối quan ngại chưa có tiền lệ về sự
lan truyền virus qua tiền mặt và khi tham gia các giao dịch tiếp xúc gần. Trong bối
cảnh đó, xu hướng thanh tốn trong nền kinh tế chứng kiến sự chuyển dịch theo
hướng tăng cường sử dụng các phương tiện TTKDTM. Thông qua sự hợp tác với
các ngân hàng/công ty Fintech nhằm tạo ra mạng lưới điểm thanh toán dày đặc,
phương thức mới này đang phát triển ngày càng nhanh và đa dạng, thu hút được
ngày càng nhiều sự tham gia giao dịch của người dùng.
Kết quả khảo sát tồn quốc trên quy mơ mẫu 802 người dùng do nhóm
nghiên cứu Học viện Ngân hàng thực hiện trong tháng 10/2020 cho thấy dưới tác
động của dịch Covid-19, hoạt động TTKDTM đã có những bước tiến mạnh mẽ so
với cùng kỳ năm trước. Nếu như vào trước thời điểm bùng phát dịch, tần suất giao
dịch của người dùng Mobile Banking/ví điện tử, Internet Banking và giao dịch thẻ
cịn ở mức thấp, từ 4 – 8 lần/tháng (Hình 6), thì bước sang giai đoạn Covid-19, tần
suất giao dịch các loại hình thanh tốn trên đã tăng lên rõ rệt, cụ thể, 54% người
dùng được phỏng vấn giao dịch thông qua Mobile Banking/ví điện tử thường

xuyên hơn, 53% người dùng đồng tình rằng có một sự gia tăng đáng kể về mức độ
sử dụng Internet Banking, và 42% người được phỏng vấn nhận thấy sự tăng lên về
số lần giao dịch thẻ trong tháng.

Hình 6: Tần suất sử dụng các hình thức TTKDTM trước dịch Covid-19
(1) Mobile banking/ví điện tử

(2) Internet banking

7


(1) 1-3 lần/tháng; 20.82%
Không dùng; 26.81%
(5) Trên 20 lần/tháng; 8.48%
(2) 4-8 lần/tháng; 25.06%
(4) 15-20 lần/tháng; 4.74%
(3) 9-14 lần/tháng; 14.09%

Không dùng; 24.84%
(5) Trên 20 lần/tháng; 9.41% (1) 1-3 lần/tháng; 21.46%
(2) 4-8 lần/tháng; 26.22%
(4) 15-20 lần/tháng; 5.14%
(3) 9-14 lần/tháng; 12.92%

(3) Giao dịch thẻ

(4) Giao dịch tại ngân hàng

Không dùng; 20.18%

(5) Trên 20 lần/tháng; 5.30%
(4) 15-20 lần/tháng; 4.67%
(1) 1-3 lần/tháng; 31.90%
(3) 9-14 lần/tháng; 8.58%
(2) 4-8 lần/tháng; 29.38%

Không dùng; 24.84%
(5) Trên 20 lần/tháng; 9.41% (1) 1-3 lần/tháng; 21.46%
(2) 4-8 lần/tháng; 26.22%
(4) 15-20 lần/tháng; 5.14%
(3) 9-14 lần/tháng; 12.92%

Nguồn: Khảo sát của nhóm nghiên cứu
Hình 7: Xu thế thay đổi tần sử dụng các hình thức TTKDTM
trong giai đoạn Covid-19
Mobile banking/ví điện tử

Internet banking

Giao dịch thẻ

Giao dịch tại NH

54% 53%
42%

38% 40%
30%
10%
3% 3%


Tăng

29% 30%
15% 14%

8%

Giảm

Không đổi

19%
11%

Không dùng

Nguồn: Khảo sát của nhóm nghiên cứu
Xu thế trên càng được củng cố qua việc ghi nhận sự thay đổi tỷ lệ người dân
khơng sử dụng các cơng cụ thanh tốn trên, cụ thể, khi nền kinh tế chuyển sang
trạng thái mới với sự hiện diện của đại dịch, tỷ lệ người dân khơng sử dụng các
loại hình TTKDTM chứng kiến đà sụt giảm mạnh mẽ: Từ 27% xuống còn 15% đối
8


với loại hình Mobile Banking/ví điện tử; từ 25% xuống cịn 14% đối với loại hình
Internet Banking; và từ 20% xuống cịn 11% đối với giao dịch thẻ (Hình 7).
Hình 8: Tần suất TTKDTM cho các hạng mục tiêu dùng trước dịch
Covid-19
(1) Thanh tốn hóa đơn


(2) Mua sắm online
Khơng dùng; 21.30%
(1) 1-3 lần/tháng; 34.84%
(5) Trên 20 lần/tháng; 2.01%
(4) 15-20 lần/tháng; 3.01%
(3) 9-14 lần/tháng; 9.52%
(2) 4-8 lần/tháng; 29.32%

Không dùng; 21.08%
(5) Trên 20 lần/tháng; 2.38%
(4) 15-20 lần/tháng; 1.88% (1) 1-3 lần/tháng; 45.67%
(3) 9-14 lần/tháng; 4.52%
(2) 4-8 lần/tháng; 24.47%

(3) Đặt tour, vé máy bay, khách

(4) Dịch vụ vận tải, giao đồ ăn

sạn

(1) 1-3 lần/tháng; 35.89%
(2) 4-8 lần/tháng; 7.93%
Không dùng; 52.39%
(3) 9-14 lần/tháng; 2.39%
(4)(5)
15-20
4; 0.50%
Trênlần/tháng;
20 lần/tháng;

7; 0.88%

Không dùng; 35.68%

(1) 1-3 lần/tháng; 26.63%

(5) Trên 20 lần/tháng;(2)
4.15%
4-8 lần/tháng; 22.11%
(4) 15-20 lần/tháng; 2.51%
(3) 9-14 lần/tháng; 8.92%

(5) Mua sắm tại cửa hàng

(6) Đóng học phí

Khơng dùng; 20.95%
(5) Trên 20 lần/tháng; 2.26%
(1) 1-3 lần/tháng; 40.78%
(4) 15-20 lần/tháng; 10; 1.25%
(3) 9-14 lần/tháng; 9.03%

Không dùng; 47.17%

(1) 1-3 lần/tháng; 38.36%

(2) 4-8 lần/tháng; 11.95%
(5)
Trên
20lần/tháng;

5;0.13%
0.63%
(4)
15-20
(3)
9-14
lần/tháng; 1;
1.76%

(2) 4-8 lần/tháng; 25.72%

9


Nguồn: Khảo sát của nhóm nghiên cứu
Ngồi việc mang đến cơ hội mới cho TTKDTM, Covid-19 cũng được coi là
một “cú hích” lớn làm thay đổi thói quen chi tiêu của người dân. Kết quả cuộc
khảo sát chỉ ra rằng vào giai đoạn trước dịch Covid-19, (1) mua sắm tại cửa hàng,
(2) mua sắm online, (3) thanh tốn hóa đơn và (4) dịch vụ vận tải/giao đồ ăn là 04
hạng mục chi tiêu chủ yếu sử dụng các hình thức TTKDTM tại Việt Nam. Với hai
hạng mục chi dùng đầu tiên, tỷ lệ người dùng chi dùng TTKDTM ở hai mức tần
suất 1 - 3 lần và 4 - 8 lần là khá lớn và đồng đều: 35% và 29% đối với mua sắm
online; và 41% và 26% đối với mua sắm tại cửa hàng. Trong khi đó, với thanh tốn
hóa đơn và dịch vụ vận tải/giao đồ ăn, tần suất chi tiêu TTKDTM giai đoạn này là
khá thấp, dù đã đạt được mức độ lan tỏa, phổ biến nhất định về thói quen tiêu
dùng: với thanh tốn hóa đơn, có tới 45% người được phỏng vấn giao dịch
TTKDTM từ 1 - 3 lần/tháng và 24% giao dịch từ 4 - 8 lần/tháng; với dịch vụ vận
tải/giao đồ ăn, tỷ lệ người dân giao dịch từ 1 - 3 lần/tháng và từ 4 - 8 lần/tháng có
thấp hơn đơi chút, dao động từ 22 - 25%. Với các hạng mục (5) đặt tour, vé máy
bay, khách sạn và (6) đóng học phí, tần suất chi tiêu TTKDTM dường như cịn thấp

so với tiềm năng, khi nhóm nghiên cứu ghi nhận hơn 50% số người được phỏng
vấn chưa từng có trải nghiệm với các mục đích chi dùng trên (Hình 8).
Hình 9: Xu thế thay đổi tần suất TTKDTM cho các hạng mục tiêu dùng
trong giai đoạn Covid-19

10


57%
48%

49%
39%

37%
33%32%

33%
30%29%
28%

27%

27%

25%

22%
18%


15%
11%
3%
Thanh tốn hóa đơn
Đóng học phíTăng

Mua sắm online

6%

9%

12%

4%

4%

Đặt tour, vé máy bay, khách sạn

Giảm

Dịch vụ vận tải, giao đồ ăn

Không đổi

Mua sắm tại cửa hàng

Khơng dùng


Nguồn: Khảo sát của nhóm nghiên cứu
Bước sang giai đoạn dịch Covid-19, trước những quan ngại về sự lây lan
virus qua tiền mặt và khi tham gia các giao dịch tiếp xúc gần, không ngạc nhiên khi
các hạng mục dịch vụ vận tải/giao đồ ăn, mua sắm online và thanh tốn hóa đơn
được đa số (trên 50%) người dùng xác nhận có sự gia tăng tiêu dùng mạnh mẽ.
Trong khi đó, mức giảm chi dùng mạnh nhất thuộc về các hạng mục đặt tour, vé
máy bay, khách sạn và thanh toán tại cửa hàng - vốn là những lĩnh vực phải hứng
chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của đại dịch, đặc biệt là trong giai đoạn giãn cách xã
hội diện rộng (trên 30% người được phỏng vấn xác nhận sự sụt giảm tần suất tiêu
dùng các hạng mục này). Hơn nữa, tính từ tháng 10/2020 so với cùng kỳ năm
trước, tỷ lệ người dân không sử dụng hình thức TTKDTM cho các mục tiêu chi
dùng cơ bản trong giai đoạn Covid-19 cũng đã giảm đi đáng kể, cụ thể: Tỷ lệ người
dùng chưa từng mua sắm online, thanh tốn hóa đơn, sử dụng dịch vụ vận tải/giao
đồ ăn lần lượt giảm còn 9%, 11% và 18%; trong khi tỷ lệ người dùng chưa từng
trải nghiệm tiện ích TTKDTM cho việc đặt tour, vé máy bay, khách sạn và đóng
học phí tuy có giảm song vẫn ở mức cao, trong khoảng 25 - 27% (Hình 9).

11


Trong bối cảnh nhiều lĩnh vực của đời sống chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi
dịch Covid-19, TTKDTM rõ ràng đã trở thành giải pháp cho nhiều hoạt động kinh
tế - xã hội để có thể đảm bảo tốt nguyên tắc hạn chế tiếp xúc trực tiếp. Nói cách
khác, nhờ sự hiện diện "không được báo trước" của dịch Covid-19, các hình thức
TTKDTM mới có thể phát huy tốt nhất đặc tính ưu việt của chúng, giúp cho các
giao dịch kinh tế diễn ra liên tục và thơng suốt, qua đó được đại bộ phận người dân
nồng nhiệt đón nhận, đồng thời cũng được chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp,
ngân hàng và nhà phát triển số hóa ưu tiên đầu tư. Trong số các hình thức
TTKDTM phổ biến hiện nay, Mobile Banking/ví điện tử có lẽ chính là hình thức
đáng chú ý hơn cả. Những nền tảng cung cấp các dịch vụ thiết yếu đầy tính sáng

tạo và đột phá như app đặt xe, giao đồ ăn, giao hàng, thanh toán hoá đơn, đi chợ
hộ… đang thu hút ngày càng đơng đảo người dùng. Hình thức thanh tốn qua ví
điện tử hay các phương tiện TTKDTM khác cho các dịch vụ mới mẻ này theo đó
cũng được ưa chuộng hơn. Thực tế chỉ ra rằng bên cạnh sự tiện lợi và cơng nghệ
bảo mật trong thanh tốn ngày càng được các nhà phát triển chú trọng tăng cường,
thì tần suất khuyến mại, ưu đãi dày đặc cũng được xem như một trong những yếu
tố quan trọng thúc đẩy người dùng sử dụng các phương tiện TTKDTM.
3. Một số khuyến nghị giải pháp đẩy mạnh TTKDTM
Để phát triển hơn nữa hoạt động TTKDTM trong điều kiện chịu tác động
của dịch Covid-19, NHNN có vai trị quan trọng trong việc định hướng các NHTM
và cơng chúng sử dụng nhiều hơn hình thức thanh tốn này. NHNN có thể nghiên
cứu triển khai đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động truyền thơng đồng bộ và có hiệu quả
trong việc phổ biến kiến thức, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi và cách thức
thanh toán tiêu dùng của người dân, qua đó nâng cao khả năng tiếp cận các sản

12


phẩm dịch vụ ngân hàng cho người dân, khuyến khích sử dụng các phương thức
TTKDTM.
Thứ hai, chỉ đạo hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ TTKDTM, trong đó, tập
trung phát triển các hệ thống thanh toán của NHNN, hệ thống bù trừ điện tử (ACH)
hệ thống chuyển mạch; tăng cường tích hợp, kết nối hạ tầng, ứng dụng của ngành
Ngân hàng với các ngành, lĩnh vực dịch vụ khác để mở rộng hệ sinh thái số.
Thứ ba, cần tiếp tục hồn thiện kết nối giữa hạ tầng thanh tốn điện tử của
các TCTD với hạ tầng của các cơ quan Thuế, Hải quan, Kho bạc Nhà nước để phục
vụ yêu cầu phối hợp thu ngân sách nhà nước bằng phương thức điện tử. Các cơ
quan nhà nước cần có cơ chế chia sẻ dữ liệu, xây dựng hệ thống giao tiếp lập trình
ứng dụng mởi (Open API) liên thơng với các TCTD để tạo ra một cơ chế thanh

toán thông suốt
Thứ tư, phối hợp cùng các bộ, ban, ngành liên quan cần nghiên cứu mở rộng
các giải pháp cho phép các ngân hàng thương mại tra cứu thông tin khách hàng,
thông tin doanh nghiệp để hỗ trợ ngân hàng thương mại trong cơng tác xác minh
khách hàng, kiểm sốt hồ sơ hạn chế rủi ro gian lận.
Thứ năm, thí điểm hoặc thiết lập cơ chế thử nghiệm Sandbox cho các ứng
dụng cơng nghệ mới. Mục đích của mơ hình Sandbox nhằm đảm bảo những cơng
nghệ mới mang tính đột phá, có ảnh hưởng phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro phá vỡ
quy định hiện hành của Nhà nước có thể được thử nghiệm một cách hiệu quả,
nhanh chóng trong mơi trường độc lập. Trên cơ sở đó các mơ hình cung ứng giải
pháp TTKDTM mới có thể ra đời, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường.
Giữ vị trí là đơn vị tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, các NHTM có vai trị
quan trọng trong việc cung cấp, phát triển dịch vụ TTKDTM và khuyến khích
người dân cũng như các doanh nghiệp thực hiện hoạt động TTKDTM. Một số giải
pháp các ngân hàng có thể hướng đến để thúc đẩy TTKDTM như sau:
13


Thứ nhất, NHTM cần tăng cường các hoạt động marketing hướng dẫn khách
hàng mở tài khoản, giao dịch thanh toán qua các phương tiện điện tử. Một phân
khúc thị trường nhiều ngân hàng cần quan tâm là khu vực nông thôn do tại khu vực
này, nhận thức của người dân về TTKDTM cịn hạn chế và người dân ít được tiếp
cận với internet cũng như công nghệ cao.
Thứ hai, nghiên cứu điều chỉnh mức phí hợp lý cho những khách hàng có
nhiều giao dịch trong một ngày, nhất là những giao dịch nhỏ nhằm khuyến khích
và tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện thanh toán qua phương tiện điện tử
nhiều hơn.
Thứ ba, cần chuẩn bị kỹ càng về công nghệ và quy trình vận hành để áp
dụng xác thực khách hàng điện tử (eKYC) trên điện thoại thông minh nhằm đem
lại trải nghiệm tốt nhất cho khách hàng, đồng thời đảm bảo được các yêu cầu về an

toàn và tuân thủ các quy định pháp lý (sau khi Thông tư số 23/2012/TT-BCA ngày
27/4/2012 của Bộ Cơng an được chính thức sửa đổi). Bên cạnh đó, các ngân hàng
cịn cần chuẩn bị hạ tầng để sẵn sàng kết nối với Cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia (do
Bộ Công an chủ trì thực hiện và đang triển khai) tự động, an tồn để nhanh chóng
xác thực thơng tin khách hàng một cách chính xác nhất.
Thứ tư, cần có biện pháp xử lý hiệu quả vấn đề liên quan đến gian lận trong
hoạt động TTKDTM. Thực tế cho thấy, các ngân hàng thường phải chi ra không
dưới 30% tổng ngân sách đầu tư công nghệ thông tin cho vấn đề bảo mật và phòng
chống gian lận. Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực nhạy cảm, là đối tượng tập trung để
các tội phạm mạng hướng vào nhằm phát hiện ra các lỗ hổng để khai thác và liên
tục tấn công nhằm trục lợi. Ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức
năng của NHNN, Hiệp hội An tồn thơng tin Việt Nam (VNISA), Bộ Cơng an
(A50, PC50) thực hiện tốt công tác cảnh báo, giám sát an ninh mạng và tuyên
truyền để giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra.
14


4. Kết luận
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và ảnh hưởng của đại dịch Covid-19
đã tác động khiến cho các hoạt động kinh tế số ngày càng phát triển mạnh mẽ trên
thế giới, đặc biệt tại các nước đang phát triển như Việt Nam. Một trong những yêu
cầu cấp thiết song hành với việc phát triển nền kinh tế số là xây dựng xã hội thanh
tốn khơng dùng tiền mặt. Việc thúc đẩy TTKDTM tại Việt Nam đã có nhiều bước
tiến đáng kể trong thời gian qua nhưng vẫn cần một cú huých để tạo ra một làn
sóng thực sự trong đời sống xã hội. Thói quen của người tiêu dùng Việt Nam chỉ có
thể thay đổi khi họ thấy rõ lợi ích và sự an tồn. Những tác động của dịch Covid19 đã tạo điều kiện thuận lợi cho những yếu tố nền tảng trên ngày càng gia tăng và
qua đó hỗ trợ mạnh mẽ cho xu hướng TTKDTM trong năm 2020. Điều này đặt ra
những yêu cầu giải pháp toàn diện đối với cả cơ quan quản lý là NHNN cũng như
các NHTM để tận dụng cơ hội thúc đẩy TTKDTM trong toàn xã hội.


Tài liệu tham khảo:
1. ADB, 2020. The Economic Impact of the Covid-19 Outbreak on
Developing

Asia.

Asian

Development

Outlook

2020.

DOI:

/>2. Aji, H. M., Berakon, I. and Husin, M. M. 2020. Covid-19 and e-wallet
usage intention: A multigroup analysis between Indonesia and Malaysia. Cogent
Business

&

Management

2020.

DOI:

/>3. Andersen, A. L., Hansen, E. T., Johannesen, N. & Sheridan, A., 2020.
Responses to The Covid-19 Crises: Evidence from Bank Acount Transaction Data,

Copenhagen: Center for Economic, Behavior and Inequality - University of
Copenhagen.
15


4. Auer, R., Cornelli, G. & Frost, J., 2020. Covid-19, cash, and the future of
payments. BIS Bulletin, 3 April, pp. 1-7.
5. Capgenmini, 2020. World Payment Report 2020. Truy cập tại:
/>6. Dubey, V., Sonar, R. & Mohanty, A., 2020. FinTech, RegTech and
Contactless Payments Through the Lens of Covid-19 Times. International Journal
of Advanced Science and Technology, 29(6), pp. 3727-3734.
7. Fernandes, N., 2020. Economic effects of coronavirus outbreak (Covid19) on the world economy, Spain: IESE Business School.
8. Gerdeman, Julie. 2020. Contactless Patient Payments in the Era of
COVID-19. HealthPay24, CEO Spotlight, May 5.
9. IMF, 2020. Policy Responses to COVID-19, last retrieved on November
16th,

2020,

from:

< />
Responses-to-Covid-19>.
10. Lê Đình Hạc, 2020. Xu hướng phát triển thanh tốn khơng dùng tiền mặt
tại Việt Nam. [Online] Trích từ: [Truy cập lần
cuối ngày 20 tháng 11 năm 2020].
11. Phạm Hồng Chương, 2020. Tác động của đại dịch Covid-19 đến nền
kinh tế Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 274, trang 2-13.
12. PwC, 2019. Global Consumer Insights Survey 2019. Truy cập tại:
/>13. Toh, Y. L. & Tran, T., 2020. How the Covid-19 Pandemic May Reshape

the Digital Payments Landscape, Kansas: Federal Reserve Bank of Kansas City.
16


14. World Bank, 2020. East Asia and Pacifc in the Time of Covid-19, World
Bank East Asia and Pacifc Economic Update, last retrieved on November 16 th,
2020, from < />
17



×