Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

HỘI NHẬP TÀI CHÍNH VÀ ĐÓI NGHÈO CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN KHU VỰC CHÂU Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.17 KB, 11 trang )

HỘI NHẬP TÀI CHÍNH VÀ ĐĨI NGHÈO CỦA CÁC NƯỚC ĐANG
PHÁT TRIỂN KHU VỰC CHÂU Á
Trong bối cảnh hội nhập tài chính diễn ra ngày càng mạnh mẽ, các quốc
gia đang phát triển khu vực châu Á đã và đang thực hiện nhiều chính sách mở
cửa thị trường, dần xóa bỏ các rào cản đối với các giao dịch tài chính xun biên
giới, từ đó, thu hút các dịng vốn quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các
nghiên cứu trước đã chỉ ra rằng, hội nhập tài chính quốc tế tác động lên xóa đói,
giảm nghèo thơng qua các kênh về tăng trưởng kinh tế. Trong bài viết này, nhóm
tác giả sẽ đánh giá xu thế tồn cầu hố tài chính và tình trạng đói nghèo ở các
nước đang phát triển khu vực châu Á trong giai đoạn 2005 - 2020. Từ đó, bài
viết đưa ra những nhận xét về mối quan hệ giữa hội nhập tài chính và đói nghèo
của các quốc gia này. Cuối cùng, nhóm tác giả sẽ đề xuất một vài khuyến nghị
chính sách nhằm tối ưu hố lợi ích q trình hội nhập tài chính quốc tế đối với
vấn đề xố đói giảm nghèo.
1. Tổng quan về hội nhập tài chính, tăng trưởng kinh tế và đói nghèo
Thương mại - đầu tư giữa các quốc gia phát triển là nền tảng cho hội nhập
tài chính. Để đáp ứng mục tiêu thúc đẩy thương mại và đầu tư thì phải có các
hiệp định tạo điều kiện nền tảng, từ đó dịng vốn sẽ dịch chuyển. Theo Brouwer
(2005) cho rằng hội nhập thị trường tài chính là q trình mà qua đó thị trường
tài chính trong nền kinh tế trở nên hội nhập chặt chẽ hơn với những thị trường
khác của nền kinh tế khác. Điều này hàm ý sự gia tăng dòng vốn và xu hướng
giá và lợi nhuận trên tài sản giao dịch tài chính ở các quốc gia khác nhau bằng
nhau.
Theo quan điểm tân cổ điển, hội nhập tài chính góp phần huy động tiết
kiệm và phân bổ vốn cho năng suất cao hơn. Bằng cách này, hội nhập tài chính
làm tăng trưởng kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế này làm tăng thu nhập, do đó,
giảm nghèo. Tuy nhiên, Fry (1995) lại kết luận rằng hội nhập tài chính dẫn đến
1


giải phóng thị trường tín dụng sẽ cải thiện phân phối thu nhập và nghèo đói.


Người nghèo có cơ hội tiếp cận với nhiều nguồn vốn hơn để kinh doanh, sản
xuất, góp phần tạo thu nhập. Bên cạnh đó, nhiều kết luận chỉ ra rằng thông qua
khủng hoảng, hội nhập tài chính tác động lên đói nghèo.
Trong lý thuyết hội nhập tài chính, việc làm sai lệch giá tài chính như lãi
suất làm giảm quy mô thực của hệ thống tài chính so với phi tài chính, dẫn đến
tốc độ tăng trưởng kinh tế thực sự chậm (McKinnon, 1973 và Shaw, 1973). Lý
thuyết dựa trên các giả định rằng tiết kiệm là một hàm tăng của lãi suất thực tế
đối với tiền gửi và tốc độ tăng trưởng sản lượng thực và đầu tư là một hàm giảm
của lãi suất cho vay thực tế và là hàm tăng của tốc độ tăng trưởng. Do đó, trong
một mơi trường có cơ hội đầu tư dồi dào nhưng hệ thống tài chính bị kìm nén,
chìa khóa để đầu tư nhiều hơn và hiệu quả hơn là nâng cao lợi nhuận cho người
tiết kiệm.
World Bank (2001) đưa ra một nhận định là với tốc độ tăng trưởng nhất
định, mức độ giảm nghèo phụ thuộc vào cách phân phối thu nhập thay đổi theo
tăng trưởng và phụ thuộc vào sự bất bình đẳng ban đầu về thu nhập, tài sản và
việc tiếp cận các cơ hội sẽ có lợi cho người nghèo trong tăng trưởng.Tăng
trưởng có thể tạo ra các nguồn tài chính để mở rộng đầu tư vào tài sản của người
nghèo hoặc đem lại sự an tồn hơn về tài chính cho người nghèo. Mặc dù tăng
trưởng nói chung làm giảm nghèo, nhưng cũng có một số trường hợp bị thiệt hại
trong thời kỳ tăng trưởng ngay cả khi nghèo đói giảm trung bình (Ravallion,
2001). Tác động tăng trưởng và giảm nghèo của tự do hóa tài chính phụ thuộc
vào những thay đổi phân phối do tăng trưởng và tập hợp các thể chế và chính
sách đi kèm tự do hóa.
2. Thực trạng hội nhập tài chính và đói nghèo ở các nước đang phát triển
tại châu Á
Châu Á đã có sự phát triển nhanh chóng trong vài thập kỷ qua và vẫn duy
trì ngay cả trong cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu. Các chính sách hướng
2



ngoại của nhiều nước châu Á đã mang lại sự tăng trưởng cao và quá trình này đã
giúp nhiều người thốt khỏi đói nghèo ở các nền kinh tế này. Trong bối cảnh
này, vai trị của hội nhập tài chính quốc tế (IFI) đã trở thành một chủ đề nóng,
đặc biệt là vào thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu đã xuất hiện sự
nghi ngờ về lợi ích của nó. Xu hướng này đang có tầm quan trọng rất lớn trong
phát triển kinh tế quốc gia, đặc biệt đối với những quốc gia đang phát triển châu
Á, bởi vì, thời gian và tốc độ mở cửa kinh tế của họ góp phần quyết định số
phận của hàng tỷ người cư trú ở khu vực này.
Hình 1: So sánh tốc độ tăng trưởng GDP/đầu người của các nước đang phát
triển châu Á với châu Á và thế giới giai đoạn 2005 - 2020

Nguồn: WB data
Nhìn tổng quan về tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của các
quốc gia đang phát triển tại châu Á so với châu Á và thế giới, dễ dàng nhận thấy
rằng các quốc gia đang phát triển châu Á đã và đang có đà phát triển một cách
đều đặn. Cùng với vị thế ngày càng quan trọng, ảnh hưởng của các quốc gia này
là rất lớn. Cứ sau 5-10 năm với tốc độ được duy trì, GDP bình quân đầu người
của các nước đang phát triển châu Á sẽ tăng mạnh, tạo đà phát triển tốt so với
các nền kinh tế khác trên thế giới. Năm 2020, khi đại dịch Covid-19 xảy ra
khiến tốc độ tăng trưởng GDP/đầu người trên thế giới giảm mạnh, đa phần các
quốc gia trên thế giới đều có mức tăng trưởng GDP âm, tuy nhiên chỉ số ở các
quốc gia đang đang phát triển tại châu Á vẫn duy trì được mức tăng trưởng
dương. Việc các quốc gia này "chiếm đa phần" danh sách những nước có nền
kinh tế tăng trưởng cao đánh dấu sự thay đổi đáng kể so với thời điểm trước năm
2005 khi Ngân hàng Standard Chartered bắt đầu tính tốn, so sánh về sự tăng
trưởng của các nền kinh tế. Sự phát triển này cho thấy cơ hội rất lớn để cải thiện
mức sống và chất lượng cuộc sống cho người dân của mỗi quốc gia đang phát
triển tại châu Á.
3



2.1. Thực trạng hội nhập tài chính quốc tế các nước đang phát triển châu Á
Để đo lường mức độ hội nhập tài chính quốc tế, các nhà nghiên cứu đã sử
dụng một cách tiếp cận khác là đo lường dòng vốn thực tế (Kraay, 1998, Kose
và cộng sự, 2009; Edison và cộng sự, 2002; Lane và Milesi-Ferretti, 2001,
2007). Tổng dòng vốn vào và ra khỏi lãnh thổ quốc gia bao gồm vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và các loại vốn khác. Theo
Lane và Milesi-Ferretti (2001), tổng dòng vốn vào và ra khỏi một quốc gia được
đo lường bằng tổng tài sản nước ngoài và khoản phải trả nước ngoài của quốc
gia đó so với GDP. Chỉ số tổng dịng vốn vào và ra được sử dụng để đo lường
mức độ hội nhập tài chính quốc tế bao gồm cả việc người không cư trú nắm giữ
tài sản ở trong nước và người cư trú trong nước nắm giữ tài sản ở nước ngồi.
Trong đó, dịng vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) là dịng vốn chiếm
ưu thế trong tổng tài sản và nợ phải trả nước ngoài. FDI thúc đẩy cạnh tranh trên
thị trường đầu vào trong nước. Các nước nhận FDI thường được tiếp nhận chính
sách đào tạo nhân viên trong quá trình vận hành các doanh nghiệp mới, điều này
góp phần phát triển nguồn nhân lực ở nước sở tại. Lợi nhuận do FDI tạo ra đóng
góp vào nguồn thu thuế doanh nghiệp ở nước sở tại. Tuy nhiên, sự dao động của
dòng vốn FDI đối với các quốc gia đang phát triển tại châu Á cũng tiềm ẩn
nhiều rủi ro, thậm chí gây nên khủng khoảng cho nước sở tại khi dịng vốn bị
dừng đột ngột.
Hình 2 : So sánh tốc độ tăng trưởng FDI/GDP ròng của các nước đang phát
triển châu Á với thế giới giai đoạn 2005-2020

Nguồn: WB data
Dòng vốn FDI thường mang lại nhiều lợi ích như việc cải tiến cơng nghệ,
tạo ra sự lan tỏa kiến thức có thể dẫn đến hệ số tổng thể tăng năng suất (TFP) ở
các nước đang phát triển tại châu Á. Hơn nữa, mặc dù nguồn FDI chảy vào các
4



nước đang phát triển thể hiện những biến động, nhưng nhìn chung thì chúng
ln có sự tác động tích cực trong suốt ba thập kỷ qua (Park và Takagi, 2012).
Dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển gần 4.5% GDP, gấp 9 lần so với
trung bình của thế giới. Hơn nữa, với lượng lớn dòng vốn FDI chảy vào các
nước đang phát triển tại châu Á giúp các quốc gia này có nhiều lợi thế trong hội
nhập tài chính quốc tế.
Sự bùng phát và lây lan của đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng tiêu cực đến
dịng vốn FDI tồn cầu đặc biệt là các quốc gia đang phát triển tại Châu Á. Với
các kịch bản về sự lây lan của đại dịch Covid-19 từ ổn định trong ngắn hạn đến
tiếp tục kéo dài trong cả năm, áp lực giảm tốc độ tăng trưởng FDI/GDP từ 2 3% (so với các dự báo trước đây về xu hướng tăng trưởng nhẹ của FDI trong
giai đoạn 2020 - 2021 ). Tác động lên FDI sẽ tập trung ở những quốc gia bị ảnh
hưởng nặng nề nhất bởi dịch bệnh, mặc dù những cú sốc tiêu cực về nhu cầu và
tác động kinh tế của sự gián đoạn chuỗi cung ứng cũng sẽ ảnh hưởng đến triển
vọng đầu tư ở các quốc gia khác.
Cùng với đó, cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung xảy ra cũng gây
ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các công ty ở các quốc gia
đang phát triển tại châu Á. Điều này làm chậm lại chi tiêu vốn ở các khu vực bị
ảnh hưởng. Ngồi ra, nó cũng tạo ra một làn sóng cơ cấu vốn FDI mới có lợi cho
các quốc gia tại châu Á như Việt Nam, Ấn Độ hay Indonesia. Việc các dòng vốn
FDI chuyển từ Trung Quốc sang các quốc gia lân cận là cơ hội để đổi mới công
nghệ, tư duy sản suất và tăng trưởng kinh tế ở khu vực.
Một số quốc gia có tỷ lệ tài sản và nợ phải trả nước ngoài/GDP tăng gấp 2
hoặc 3 lần theo các năm từ 2005-2020, điển hình như một số quốc gia như
Malaysia, Lào, Campuchia, cho thấy tiềm năng phát triển của các quốc gia trong
giai đoạn này. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài từng năm giúp là cơ hội để
các quốc gia đang phát triển phát triển cơ sở hạ tầng, cấu trúc nên kinh tế. Trong
đó, cũng có một số quốc gia như Việt Nam Indonesia giữ vững hay giảm tỷ lệ tài
5



sản và nợ phải trả nước ngoài/GDP, do đã sử dụng nguồn vốn hiệu quả từ các
năm đầu giai đoạn và phát triển đầu tư nhằm tăng tài sản nước ngoài cũng như
tăng tổng sản lượng GDP đáng kể.
Ở một quốc gia tỷ lệ dân số ít, kết hợp với nền kinh tế tập trung vào
ngành dịch vụ tạo ra lượng vốn có thể đầu tư ra nước ngồi lớn như TimorLeste hay với tỷ lệ tài sản nước ngoài gấp 10 lần so với nợ phải trả nước
ngoài. So với các quốc gia đang phát triển tại châu Á thì Hoa Kỳ và Anh có
tỷ lệ khá cân bằng giữa tài sản và nợ nước ngoài. Các quốc gia như Việt
Nam, Indonesia, tỷ lệ nợ phải trả nước ngoài thường gấp 2-3 lần so với tài
sản nước ngoài. Điều này có thể hiểu, việc đầu tư ra nước ngồi của những
nước này vẫn còn hạn chế, nhưng tỷ lệ cũng dần thay đổi theo thời gian như
Indonesia tăng từ 22% lên 33% hay Buhtan tăng từ 0 lên 47%.
Tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP đã được cải thiện đáng kể sau cuộc khủng
hoảng toàn cầu gần đây và tỷ lệ đầu tư trực tiếp vào tổng dòng vốn tư nhân cũng
được cải thiện. Tất cả những điều này cho thấy các chỉ số dễ bị tổn thương tài
chính của châu Á đã trở nên tốt hơn trong những năm qua. Điều này được thể
hiện rõ nét việc mở rộng tự do vốn hóa, đặc biệt mức độ hội nhập tài chính của
các quốc gia thơng qua chỉ số Kaopen.
Kaopen là một trong các chỉ số đo lường mức độ mà một quốc gia tiến
hành mở cửa được Chinn, M. D. and Ito, H. (2006) đề xuất để đo lường hội nhập
tài chính quốc tế. Các quốc gia tự do hóa hồn tồn tài khoản vốn sẽ có giá trị
Kaopen bằng 1 trong khi các nước kiểm soát tài khoản vốn hồn tồn có giá trị
Kaopen bằng 0. Chỉ số Kaopen có giá trị càng cao khi quốc gia này càng cởi mở
hơn đối với các giao dịch vốn xuyên biên giới. Giá trị càng cao của chỉ số này
cho thấy quốc gia mở cửa hơn với những giao dịch vốn xuyên quốc gia.
Từ biểu đồ nhận thấy rằng, các quốc gia đang phát triển châu Á có chỉ số
Kaopen dao động trong khoảng 0,4, trong khi đó chỉ số này ở châu Á và thế giới
dao động trong khoảng 0,5 - 0,6. Riêng trogn năm 2020, chỉ số này giảm rõ rệt.
6



Một trong những nguyên nhân là do tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 và
chiến tranh thương mại Mỹ - Trung làm chậm lại là dịch chuyển các dòng vốn,
đặc biệt là vốn FDI. Có thể thấy, chỉ số Kaopen về hội nhập tài chính ở các nước
đang phát triển châu Á đang dần dần bắt kịp châu Á và thế giới. Việc ngày càng
mở rộng các chính sách đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế đang khiến cho
các nước đang phát triển tại châu Á thúc đẩy hội nhập mạnh mẽ hơn.

Hình 3: Chỉ số Kaopen ở các quốc gia đang phát triển tại châu Á và thế giới
trong giai đoạn 2005 - 2020

Nguồn: The Chinn-Ito Index
Tuy chỉ số trung bình của các quốc gia đang phát triển châu Á dao động
ở mức thấp hơn chỉ số trung bình của thế giới khoảng 0,1 nhưng đây cũng cho
thấy là yếu tố tiềm năng cho thấy đây là nơi đang tiếp nhận vốn đầu tư nước
ngồi. Khi đó, dòng vốn FDI giữa các quốc gia này với những nền kinh tế có
lượng vốn dồi dào như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản sẽ mở ra sự phát triển về cơ sở
hạ tầng và quy mô nên kinh tế cho tồn bộ khu vực.
2.2. Thực trạng về đói nghèo ở các nước đang phát triển ở châu Á
Ngày 17 tháng 10 hằng năm là ngày quốc tế xóa đói giảm nghèo. Cột mốc
quan trọng này đánh dấu nhiều kết quả đạt được ấn tượng. Theo số liệu mới nhất
của Ngân hàng Thế giới cho thấy, kể từ năm 1990, gần 1,1 tỷ người đã thoát
khỏi cảnh nghèo trầm trọng. Chỉ tính riêng từ năm 2012 đến năm 2013, con số
đó là khoảng 100 triệu người, là một dấu hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, một phần
ba số người nghèo trầm trọng trên thế giới hiện sống ở các quốc gia đang phát
triển ở châu Á. Thực trạng xố đói giảm nghèo của các quốc gia đang phát triển
khu vực châu Á có thể được đánh giá thơng qua một số khía cạnh về thu nhập,
sức khỏe đời sống và giáo dục.
7



Nhiều nghiên cứu cho thấy thu nhập bình quân đầu người có tác động
giảm nghèo trực tiếp, bên cạnh tác động gián tiếp thông qua tăng trưởng.
Lundberg và Squire (2003) kiểm tra một số chính sách thơng thường để xác định
chung về tăng trưởng giúp cải thiện thu nhập bình quân đầu người, sử dụng phân
tích hồi quy xuyên quốc gia.
Hình 4: Thu nhập bình quân đầu người của các quốc gia đang phát triển
châu Á và thế giới trong giai đoạn 2005-2020
Đơn vị: USD

Nguồn: Human Develop Report
Thu nhập bình quân đầu người ở các nước phát triển châu Á trung bình từ
8.000 - 10.000 USD/năm và đang có chiều hướng gia tăng. Trong năm 2020, đại
dịch Covid-19 đã gây ra suy giảm đáng kể thu nhập bình quân đầu người của
người dân trên toàn thế giới. Tuy nhiên, vẫn cịn có khoảng cách khá lớn giữa
thu nhập của các quốc gia đang phát triển đối với trung bình trung của thế giới.
Q trình hội nhập tài chính quốc tế tạo ra những thay đổi về chính sách giúp gia
tăng việc làm, từ đó cải thiện thu nhập tại các quốc gia đang phát triển châu Á.
Ở hầu hết các quốc gia đang phát triển châu Á, phân phối thu nhập có xu
hướng đồng đều hơn ở khu vực nơng thơn so với khu vực thành thị. Do đó, với
một tốc độ tăng trưởng theo ngành nhất định, tỷ lệ nghèo đói sẽ giảm nhanh hơn
ở khu vực nơng thơn, cả so với tỷ lệ nghèo của khu vực ban đầu và về số lượng
tuyệt đối. Tương tự như vậy, hội nhập tài chính quốc tế nhanh chóng của các
quốc gia đang phát triển tại châu Á cải thiện đáng kể thu nhập bình quân đầu
người với tốc độ giảm nghèo đã giảm mạnh.
Ngoài ra, sức khỏe của người dân cũng dần được cải thiện và nâng cao.
Tuổi thọ trung bình của các quốc gia đang phát triển khu vực châu Á có xu
hướng tăng lên, cùng chiều với trung bình các quốc gia trên thế giới. Tại các
quốc gia đang phát triển châu Á, tuổi thọ thể hiện rõ nét đến phát triển con
8



người, qua đó đánh giá được mức độ nghèo đói. Tình trạng nghèo đói ở một số
quốc gia trong khu vực có xu hướng gia tăng theo độ tuổi sau 45 tuổi, trước
hoặc ở độ tuổi già nhất. Tuổi thọ trung bình có xu hướng tăng thể hiện thu nhập
của con người ngày một tốt lên để có thể nâng cao chất lượng cuộc sống và kéo
dài tuổi thọ.
Bên cạnh đó, các quốc gia đang phát triển tại châu Á là một câu chuyện
thành cơng tồn cầu khi nói đến giáo dục trẻ em. Nhìn chung, 9 trong số 10 trẻ
em trong khu vực hiện nay đang theo học tiểu học. Đối với một lục địa có 2/3 số
trẻ em không được đến trường trên thế giới vào những năm 1980, sự tiến bộ
khơng có gì đáng chú ý. Đời sống nhân dân ở các quốc gia đang phát triển khu
vực châu Á ngày một cao, tỷ lệ nghèo đói giảm, dẫn đến đầu tư cho giáo dục
tăng lên. Sự đóng góp của giáo dục đối với các khía cạnh phát triển khác nhau ở
các quốc gia đang phát triển tại châu Á là rất lớn, và có sức lan tỏa đến đời sống
cá nhân và xã hội của người dân. Giáo dục khơng chỉ là quyền con người, mà
cịn là một điều kiện tiên quyết để đòi hỏi và thực hiện các quyền cơ bản và con
người khác.
3. Một số khuyến nghị
3.1. Chính sách về FDI nhằm hỗ trợ tích cực q trình xố đói giảm nghèo
của các quốc gia đang phát triển khu vực châu Á
Vốn FDI luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản và nợ nước ngoài
của các nước đang phát triển khu vực châu Á. Điều đó chứng tỏ rằng FDI đóng
vai trị quan trọng trong q trình hội nhập tài chính quốc tế ở nhóm các nước
này. Vì vậy, cần thiết để các nhà hoạch định chính sách có những giải pháp
nhằm tối ưu hố lợi ích của FDI đối với q trình giảm nghèo. Dưới đây, nhóm
tác giả sẽ đề xuất một số khuyến nghị chính sách nhằm hỗ trợ quá trình xố đói
giảm nghèo từ FDI.
Chính phủ cần tạo ra một mơi trường đầu tư cạnh tranh và bình đẳng để
tối đa lợi ích từ FDI, cùng với đó là những chính sách tăng khả năng nội địa

9


trong việc khai thác FDI. Ngồi ra, Chính phủ cũng nên điều chỉnh các tiêu
chuẩn về môi trường và xã hội, quản lý thận trọng lợi nhuận thu được từ các
nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung nổ ra cùng với sự bùng phát đại dịch
Covid-19 là cơ hội cho Việt Nam thu hút các công ty nước ngồi chuyển từ
Trung Quốc sang Việt Nam. Vì vậy, trong trung và dài hạn, Chính phủ cần
khuyến khích các doanh nghiệp tận dụng các chuỗi giá trị toàn cầu, chuyển các
phương thức sản xuất có giá trị thấp sang sản xuất có hàm lượng giá trị kỹ thuật
cơng nghệ cao hơn. Ngồi ra, Chính phủ cần đưa ra những chính sách nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI đầu tư sang Việt Nam nhằm thúc
đẩy dịch vụ hóa, tăng khả năng cạnh tranh trong thương mại và hội nhập tài
chính, từ đó tạo thêm nhiều việc làm cũng như tăng thu nhập cho người dân, góp
phần nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo.
3.2. Chính sách về tự do hoá tài khoản vốn nhằm giảm các rủi ro đối với tăng
trưởng kinh tế, và cách ảnh hưởng tiêu cực đối với người nghèo.
Tự do hoá tài khoản vốn của các nước đang phát triển khu vực châu Á là
một quá trình liên tục và dài hạn với mục tiêu cuối cùng là đạt được mức độ mở
tài khoản vốn cao trong khi duy trì sự ổn định tài chính đầy đủ. Một thách thức
quan trọng đối với tự do hoá tài khoản vốn là khai thác lợi ích, đồng thời, giảm
thiểu rủi ro. Nhóm tác giả khuyến nghị các quốc gia đang phát triển ở châu Á
nên mở cửa tài khoản vốn từng bước theo lộ trình, cần thiết phải lập trình tự cẩn
thận và tuân thủ các điều kiện tiên quyết trước khi chuyển sang bước tiếp theo
một cách an tồn. Bên cạnh đó, các quốc gia này nên tiếp tục duy trì một số hạn
chế có thể cung cấp các biện pháp bảo vệ hợp pháp chống lại đầu cơ và ngăn
ngừa sự hình thành rủi ro trong lĩnh vực tài chính. Những hạn chế này trong
tương lai có thể phải loại bỏ dần đề đáp ứng với yêu cầu của quá trình hội nhập
tài chính quốc tế. Tuy nhiên, những hạn chế này cần được duy trì cho đến khi

các khn khổ chính sách tài chính và kinh tế vĩ mơ được nâng cấp. Vậy chiều
10


sâu tài chính và chất lượng thể chế là hai điều kiện tiên quyết quan trọng để khai
thác được hiệu quả tích cực của vốn nước ngồi vào tăng trưởng kinh tế, từ đó
có tác động tích cực đến xố đói giảm nghèo của các quốc gia đang phát triển
châu Á.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chinn, M. D. and Ito, H. (2006), “ What Matters for Financial Development?
Capital Controls, Institutions, and Interactions.”, Journal of Development
Economics, vol. 81, pp. 163-192.
Edison, Hali J., R. Levine, L. Ricci and T. Slok (2002), “International Financial
Integration and Economic Growth”, IMF Working Paper, No.145.
Figini, P. and Santarelli, E. (2006), “Openness, Economic Reforms, and
Poverty: Globalization in Developing Countries”, The Journal of Developing
Areas, vol. 39, pp. 129-151.
Klein,M. and G. Olivei(1999), “Capital Account Liberalisation, Financial Depth
and Economic Growth”, NBER Working Paper No. 7384.
Kose, M. A. et al. (2009), “Financial Globalization: A Reappraisal.”,
International Monetary Fund Staff Papers, vol. 56, pp. 8-62.
Obstfeld, Maurice (2009), “International Finance and Growth in Developing
countries: What have we learned?” NBER Working paper No. 14691.
Tsai, P. L. and Huang C. H. (2007), “ Openness, Growth and Poverty: The Case
of Taiwan.”, World Development, vol. 35, pp. 1858-1871.
World Bank (2001), “ World Development Report 2000/2001: Attacking
Poverty.” , World Bank and Oxford University Press.

11




×