Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tái tạo mắt cá ngoài bằng vạt chỏm xương mác có cuống mạch tự do bên đối diện: Ca lâm sàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (46.45 MB, 4 trang )

TÁI TẠO MẮT CÁ NGOÀI BẰNG VẠT CHỎM XƯƠNG MÁC CÓ CUỐNG MẠCH TỰ DO BÊN
ĐỐI DIỆN. CA LÂM SÀNG
Võ Thái Trung, Phạm Văn Long, Huỳnh Mạnh Nhi
Tóm tắt:
Chúng tơi có một bệnh nhân nữ 13 tuổi đã cắt bỏ toàn bộ xương mác bên trái do viêm xương tủy
xương mãn tính. Tám tháng sau, bệnh nhân có triệu chứng mỏi cổ chân và biến dạng valgus cổ chân.
Chúng tôi chọn vạt chỏm xương mác kèm một phần gân cơ nhị đầu đùi bên đối diện với cuống là
bó mạch mác tự do làm vật liệu thay thế mắt cá ngoài và tái tạo khớp mác sên.
Thời gian theo dõi lien tục 13 tháng, bệnh nhân hài lòng với kết quả đạt được. Khớp cổ chân của
bệnh nhân vững, không đau trong sinh hoạt hàng ngày.
Từ khóa: Vạt xương mác có cuống mạch tự do, tái tạo khớp cổ chân, hàn khớp.

FREE VASCULARIZED PROXIMAL FIBULAR GRAFT FOR RECONSTRUCTION OF THE
LATERAL MALLEOLUS: A CASE REPORT
Abstract:
We have a 13-year-old female patient whose entire left fibula was surgically removed for the
treatment of chronic osteomyelitis. She has her leg fatigue and valgus deformity at her ankle after the
removal of the lateral malleolus.
We select ther free vascularized contralateral fibular head graft and the biceps femoris tendon
with the peroneal pedicle to reconstruct the lateral malleolus and the talo-fibular and talo-calcaneal
ligaments.
The follow up is still short but the patient is satisfied with the results achieved. The patient’s
ankle joint is stable and painless in daily activities.
Keywords: free vascularized fibular graft, ankle reconstruction, ankle fusion.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cắt bỏ và tái tạo lại mắt cá ngoài là một kỹ thuật rất hiếm gặp. Phẫu thuật viên tiến hành cắt bỏ mắt cá
ngoài trong những trường hợp u xương lớn, viêm xương, dị tật phức tạp, chấn thương nặng... Sau khi loại
bỏ mắt cá ngồi thì việc ổn định khớp cổ chân là một thách thức (8).
Do sự hiếm có, và thậm chí ít trường hợp báo cáo, nhiều phương pháp hồn tồn khác nhau đã được
mơ tả. Một số tác giả chỉ phẫu thuật cắt bỏ xương mác xa mà khơng cần tái tạo phía bên mắt cá ngồi (4,
12). Durak (1996) chỉ đơn giản là gắn các dây chằng còn lại bên mác vào xương chày (9). Tái tạo dây


chằng khớp cổ chân bằng gân cơ mác ngắn cũng được báo cáo (6). Hàn khớp chày sên (8, 13), chuyển
ghép chỏm xương mác có cuống mạch (2, 3, 5, 7), mỗi phương pháp đều có những hạn chế nhất định (4,
8, 9, 13).
Ở trẻ em, việc sử dụng vạt chỏm xương mác để tái tạo khớp cổ chân sau khi cắt bỏ mắt cá ngoài được
lựa chọn như một phương pháp thích hợp nhất. Giúp ngăn biến dạng valgus ở cổ chân (biến dạng xương
chày do mắt cá trong tiếp tục tăng trưởng). Và giữ khớp cổ chân vững với chức năng vận động tuyệt vời
(3, 5, 7).

BsCK1. Võ Thái Trung, BsCK2. Phạm Văn Long
Khoa Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương.
05, Phạm Ngọc Thạch, Phường Hiệp Thành, TP Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Ths. Huỳnh Mạnh Nhi
Khoa Chỉnh hình Nhi, Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình TP Hồ Chí Minh.
929, Trần Hưng Đạo, Phường 1, Quận 5, TP Hồ Chí Minh.


Trường hợp của chúng tôi là bệnh nhi 13 tuổi, phải cắt bỏ toàn bộ xương mác do viêm xương tủy
xương mãn tính. Được tái tạo lại mắt cá ngồi và khớp cổ chân bằng vạt chỏm xương mác tự do lấy từ
bên đối diện. Mục tiêu của chúng tôi là xem phương pháp này có giúp phục hồi chức năng vận động khớp
cổ chân và các hạn chế của nó.
CA LÂM SÀNG
Bệnh nhân nữ 13 tuổi, được chẩn đốn viêm xương tủy xương mãn tính dọc chiều dài xương mác trái.
Đồng nghiệp của chúng tôi đã cắt bỏ xương hư, cố gắng giữ lại 8cm đầu xa và cố định với xương chày
bằng vít (hình 1A).
Chúng tơi tiếp nhận bệnh nhân ở thời điểm 3 tháng sau mổ, với tình trạng nhiễm trùng vết mổ và
viêm xương tiến triển phần xương mác cịn lại. Chúng tơi cắt lọc vết thương và loại bỏ tồn bộ phần
xương viêm mà khơng thực hiện thêm kỹ thuật tái tạo khớp cổ chân nào khác (hình 1B).
Sau mổ bệnh nhân được điều trị lành vết thương, khơng cịn nhiễm trùng cẳng chân. Bệnh nhân than
phiền đau mỏi cổ chân khi đi lại. Ban đầu khám không thấy dấu hiệu thay đổi dáng đi, sức cơ và dị cảm.
Tiếp tục theo dõi trong 8 tháng thì tình trạng đau mỏi gia tăng, biến dạng valgus xuất hiện (hình 1C, D).


A

C

B

D

Hình 1. (A) Trước và (B) sau khi cắt bỏ 8 cm đầu xa xương mác viêm.
(C) Khe khớp cổ chân trong trước khi lấy bỏ mắt các ngồi và (D) 8 tháng sau.
Chúng tơi tiến hành tái tạo mắt cá ngoài và khớp cổ chân trái bằng vạt chỏm xương mác tự do lấy từ
chân phải.
KỸ THUẬT PHẪU THUẬT
Lấy vạt chỏm xương mác bên phải tự do dài 16 cm với cuống là bó mạch mác, lấy kèm bán phần gân
cơ nhị đầu đùi dài 4 cm và đảo da 2 cm x 6 cm (hình 2A, B). Sau khi lấy vạt, khâu đính phần còn lại của
gân nhị đầu đùi và dây chằng bên ngoài khớp gối vào xương chày để ổn định khớp (hình 2C, D, E).
Vạt xương dài 16 cm được cắt đi một đoạn dài 2 cm ở phía đầu xa để làm miếng chêm.

A

B

C

D

E

Hình 2. Thiết kế và bóc tách vạt xương mác và ổn định khớp gối sau lấy chỏm xương mác.



Ghép vạt xương dài 14 cm vào cổ chân trái thay thế mắt cá ngoài. Mặt trong chỏm mác được gặm bớt
một phần xương cho phù hợp với diện khớp của xương chày và xương sên. Cố định xương bằng hai vít
AO. Khi cố định vạt xương mác; chúng tơi tiến hành khóa gọng chày mác, đồng thời sử dụng đoạn xương
dài 2 cm chêm giữa đầu trên mảnh ghép và xương chày để tăng độ vững. Nơi tiếp xúc của xương chày và
hai đầu mảnh ghép xương mác đều được làm sạch màng xương, khoan lỗ để tăng khả năng liền xương.
Phần gân nhị đầu đùi ở chỏm xương mác được chia thành hai bó. Một bó khâu đính vào gốc tàn dư
của dây chằng mác sên trước và một bó khâu đính vào gốc tàn dư của dây chằng mác gót để tạo hai dây
chằng mới.
Ban đầu chúng tôi dự định nối đầu xa động mạch mác trái cho cuống vạt. Tuy nhiên khi bóc tách thấy
sẹo hai lần mổ cũ gây khó khăn và bó mạch mác trái rất nhỏ nên chúng tôi quyết định sử dụng đầu xa của
bó mạch chày trước trái thay thế, khâu nối mạch máu bằng chỉ nylon 8.0 mũi rời.
Trong mổ dùng Heparin bơm rửa mạch máu, sau mổ 6 giờ bắt đầu dùng Lovenox với liều dự phòng
40mg/ 0,4 ml/ 24 giờ liên tục 10 ngày. Nẹp bột tăng cường 6 tuần, sau 12 tuần chống chân và tập đi chịu
trọng lực. Tái khám và theo dõi được 13 tháng ghi nhận hết triệu chứng đau, vận động khớp cổ chân dễ
dàng với gập lưng được 300, gập lòng được 450 (Hình 3). Vận động khớp gối hai bên trong giới hạn bình
thường và khơng đau. Bệnh nhân có thể đứng nhón gót chịu lực bằng một chân phía bên tái tạo, chạy và
chơi nhảy dây (hình 4C).
X quang khơng cịn biến dạng valgus so với trước tái tạo (hình 4A, B).

Hình 3. Kết quả sau 9 tháng, bệnh nhân vận động khớp cổ chân tốt.

A

B

C

Hình 4A, B, C. Khớp cổ chân trước (A) và sau (B) khi tái tạo.

BÀN LUẬN
Chúng tôi không thể áp dụng kỹ thuật tái tạo như Concannon et al (5) hoặc Sales de Gauzy (7) đã
thực hiện. Vì bệnh nhân của chúng tơi đã phải cắt bỏ toàn bộ xương mác. Lựa chọn vạt chỏm xương mác
tự do bên đối diện với cuống là động mạch mác là một trải nghiệm lớn. Bệnh nhân của chúng tôi lúc được
chuyển ghép đã 13 tuổi, sụn tiếp hợp đã gần đóng nên sự tăng trưởng theo chiều dọc của chi cũng khơng
cịn nhiều. Theo Concannon (5) và Sales de Gauzy (7) thì cuống mạch mác vẫn đủ đảm bảo cho sự tăng
trưởng tiếp theo của chỏm xương mác.
Chúng tôi sử dụng phần gân cơ nhị đầu đùi lấy kèm chỏm mác rồi tách thành hai bó để tạo dây chằng
mác sên trước và dây chằng mác gót mới mà không sử dụng thêm các kỹ thuật chuyển gân hỗ trợ.
Với thời gian theo dõi chỉ trong 13 tháng, bệnh nhân của chúng tơi có khớp cổ chân vững và khơng
đau. Bệnh nhân có thể thực hiện các vận động đầy đủ của khớp cổ chân trong sinh hoạt bình thường. X
quang khơng cịn biến dạng valgus so với trước khi tái tạo. Khớp gối hai bên ổn định. Bệnh nhân hài lòng


với kết quả đạt được. Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi, đánh giá đầy đủ và báo cáo kết quả xa trong thời gian
tới.
KẾT LUẬN
Có thể chọn vạt chỏm xương mác tự do và gân cơ nhị đầu đùi để tái tạo mắt cá ngoài và các dây
chằng mác gót, mác sên cho các bệnh nhân là trẻ em cần tái tạo mắt cá ngoài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adani R, Delcroix L, Innocenti M et al (2004). Reconstruction of large posttraumatic skeletal defects of
the forearm by vascularized free fibular graft. Microsurgery; 24: 423–429.
2. Adam B, Wallace, Sean M and et all (2016); Free Vascularized Fibular Graft for Distal Tibia and
Ankle Arthrodesis. J Reconstr Microsurg Open; 01(02): 111–116.
3. Carell W (1938). Transplantation of fibula in the same leg. J Bone Joint Surg; 20: 627–634.
4. Carnesale P. General principals of tumors (1998). In: Canale ST, editor. Campbell’s Operative
Orthopaedics. 10. St Louis, MO, USA: Mosby, pp: 647–648.
5. Concannon MJ, Croll GH, Boschert MT, Gaines RW, Puckett CL (1993). Free fibular transfer in a
growing individual (long-term results). Microsurgery; 14 : 624–7.
6. David Kevin Monson (2014). Lateral ankle stabilization after distal fibular resection using a novel

approach: a surgical technique. Clin Orthop Relat Res; 472(4): 1262–1270.
7. de Gauzy JS, Kany J, Cahuzac JP (2002). Distal fibular reconstruction with pedicled vascularized
fibular head graft: a reconstruction with pedicled vascularized fibular head graft: a case report. J Pediatr
Orthop B; 11: 176–180.
8. Dieckmann R, Ahrens H, Streitburger A, Budny TB, Henrichs MP, Vieth V, Gebert C, Hardes J
(2011). Reconstruction after wide resection of the entire distal fibula in malignant bone tumours. Int
Orthop; 35: 87–92.
9. Durak K, Bilgen O, Kaleli T, Aydinli U (1996). Distal fibula resection in osteochondroma. J Int Med
Res; 24: 381–386.
10. Eger W, Schorle C, Zeiler G (2004). Giant cell tumor of the distal fibula: fifteen-year result after en
bloc resection and fibula reconstruction. Arch Orthop Trauma Surg; 124: 56–59.
11. Herring CL Jr, Hall RL, Goldner JL (1997). Replacement of the lateral malleolus of the ankle joint
with a reversed proximal fibular bone graft. Foot Ankle Int; 18(6): 317–323.
12. Norman-Taylor FH, Sweetnam DI, Fixsen JA (1994). Distal fibulectomy for Ewing's sarcoma. J Bone
Joint Surg Br; 76: 559–562.
13. Pickering R. Arthrodesis of ankle, knee, and hip (2003). In: Pickering RM, editor. Campbells's
operative orthopaedics. 10. St. Louis: Mosby.



×